{6
PHAM PHƯƠNG CHỈ
h + la... ga hề,
buến nạn
ĐANG —À ve s2 1 hao, cIt Ế"
Móc: d4 DA" Xu
An
=—
ml 0eh chiết có
Tang NGOÀI
1. Mĩ học Ấn Độ, trước tiên, là “mĩ học
tôn giáo”, bản chất cái đẹp nằm trong sự
giải thoát. Nhưng, mĩ học ấn Độ còn là mĩ
học mang tính “vật chất”, với “chất cụ thể
của nhục cảm (sensuøj) cộng với sự huyền
bí”. Điều này có nghĩa, cái đẹp trong quan
niệm An ‡)ộ luôn hài hoà hai yêu tô tôn
siáo và thế tục, siêu thoát và trần tục.
Nhục cảm chính là khía cạnh trần tục
của cái đẹp trong cảm quan An Độ.
“Nhục cảm” vốn là thuật ngữ của mĩ
học, được dùng để chỉ loại khoái cảm do ăn
uống, do thoả mãn nhục dục... đem lại.
Trong nghệ thuật Ấn Độ, nhục cdm được
thể hiện rõ nhất qua những bức phù điêu
ta canh nam nữ giao hoan, cảnh phụ nữ ở
trần và sự cường điệu các bộ phận sinh sản.
Với người Ấn Độ, nhục cảm là một giá trị
thâm mĩ mang tính xã hội.
Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu
quan niệm về cái đẹp nhục cảm của người
Ấn Độ cổ đại qua sử thì amayana. Vấn đề
này vốn đã được đề cập tới nhiều. Song, ở
đây, tập trung tìm hiểu hai
phương diện: phương diện bản thể (cái đẹp
nhục cảm là gì) và phương điện sinh tổn (cái
đẹp nhục cảm tồn tại như thế nào), từ đó, đi
đến một khái niệm hoàn chỉnh về cái đẹp
nhục cam trong cảm quan của Ấn Độ cổ đại.
chúng tôi
Z3 NHỤC CẢM CỦA ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
QUA SỬ THỊ RAMAYANA
rauuo suớc 592 TÌM HIỂU QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP
PHAM PHƯƠNG CHI!”
2. Trong cảm quan Ấn Độ, cái đẹp nhục
cam là giá trị phổ biến của thế giới. Nếu như
vẻ đẹp thân thể của các nhân vật trong sử
thì Hi Lạp chỉ được thể hiện qua các định
ngữ ngắn gọn, kiêu như: “Hêlen xinh đẹp”,
“Bridêit má hồng”, “nữ tì tóc quăn xinh
đẹp”... thì các của sử thị
Ramayana, từ nhân vật phụ nữ cho đến
nhân vật anh hùng, từ nhân vật là con
người đến nhân vật là thần linh hay yêu
quy, từ nhân vật phe thiện đến nhân vật
phe ác, phần lớn, được miêu tả thân thể đầy
gợi cảm: Xita “hông đầy đặn”,
"13 k6
nhân vật
“đãi... trồn
trĩnh như vòi voi”, “ngực nở nang với đôi vú
đầy và nhọn”, “đùi núng nính tròn trĩnh như
VÒI VOI... ; các cung nữ của Ravana “đôi hông
là bờ suốt”, “eo lưng là sóng gơn lăn tăn”;
Rama: “chân tay chàng cân đốt,
“bắp vế,
nắm tay của chàng rắn chắc”, “rốn sâu, bụng
và ngực phủ những vệt lông tơ”; Ravana có
“bộ ngực rắn khoẻ... xoa bột đàn hương”...
Không chỉ con người, ngay cả thiên nhiên
trong sử thị Jamayana cũng đặc biệt ấn
tượng ở đường nét, hình dáng của thân thể
nữ, hơn nữa là thân thể nữ trong trang thái
hành lạc. Điều này thể hiện rõ nhất qua các
phép so sánh, qua việc miêu tả thế giới động
thực vật ở thời điểm dây tình.
Quan niệm coi cái đẹp thân thê là giá
trị phô biến, tất yếu của thế giới, con người
°) Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
Tï
—=.®ỒU/k=E—-— ...
trong vị trí nào đều hướng tới cái đẹp của
thân thể lí tưởng mang dấu ấn dân chủ của
thời đại anh hùng. Nó khác với thời kì xã
hội phân chia giai cấp, khi cái đẹp nhục
cảm được col là đặc quyền của các cá nhân
ưu tú; như nhận định của vanina: “ở thời
Trung cổ, người ta cho rằng các nhân uật
Uuăn học chính điện nhất định phải đẹp. Cái
đẹp này phản ánh cái đẹp bên trong. Bởi
thế mà người ta cho rằng, chỉ cần kể về cái
đẹp bên ngoài của cô gái là đủ”?),
3. Như vậy, trong cảm quan Ấn Độ cổ
đại, cái đẹp nhục cảm tồn tại phổ biến
trong thế giới. Tuy nhiên, cái đẹp nhục cảm
đó gắn với khả năng sinh nở của vạn vật.
Sử thì Ÿœmayana xuất hiện dày đặc,
đặc biệt là phần đầu tác phẩm, mô típ sinh
sôi, mô típ cầu con nối dõi, trạng thái giao
hoan của vạn vật, như chuyện Đaxaratha
lập đàn tế lễ cầu tự, chuyện cuộc giao phối
của thân Mahadêva và vợ là Xakti Dma,
chuyện con bò cái Xavala có khả năng sinh
sản kì diệu... Đây là dấu ấn của tín ngưỡng
phồn thực, theo đó, nhục cảm là giá trị phố
biến, tất yếu nhưng không tồn tại cho nó,
mà phải thực hiện chức năng đối với thể
siới: chức năng duy trì giống nòi, qua đó
duy trì sự sinh tồn của thế giới. Quan niệm
về cái đẹp nhục cảm như vậy được cố định
thành luật (luật Manu). Theo đó, con người
có quyền thoả mãn nhu cầu khoái lạc thể
xác; không có khoái lạc tình dục và hạnh
phúc thể xác, cuộc sống gia đình không thể
tồn tại, dòng giống sẽ bị tuyệt diệt.
Việc xác định nội hàm khái niệm cái
đẹp nhục cảm trên cho thấy con người Ấn
Độ vừa mơ mộng, vừa thực tế; vừa coI nhục
cảm là phần tất yếu của cuộc sống vừa yêu
cầu nhục cảm phải có ý nghĩa với sự sống.
Điều này khiến thủ tướng Nehru từng thốt
lên: “Thật thú vị nhận thấy rằng vào buổi
bình minh của lịch sử Ấn Độ, đất nước này
đã... bhông xa 'rời các mặt của cuộc sông,
không chìm đắm trong mơ mộng về một thế
giới siêu nhiên mơ hồ, không thực tế, mà nó
đã dạt được... những lạc thú của cuộc
đời”?
Trong cảm quan Ấn Độ, nhục cảm còn
là sắc thái không thể thiếu của tình yêu
đích thực. Có thể thấy điều này qua việc
đối sánh tâm trạng nhân vật Rama trước
và sau khi Xita bị bắt cóc. Trước khi Xita bị
bắt cóc, Rama không một lần quan tâm đến
thân thể Xita. Nhưng khi vắng Xita, ở đâu
Rama cũng thấy bóng dáng thân thể kiều
diễm của nàng. Trong nỗi đau tê dại, Rama
tưởng tượng Xita vân đang phủ trên thân
thể nàng đầy hoa Axôka, “đùi của em thon
tha như cây chuối nước, và em che giấu nó
sau lùm cây chuốt”.
trong đại dương đau khổ khi tưởng tượng
thân thể mĩ miều của Xita đang bị kẻ thù
Rama đăm chìm
giày vò: “Bộ ngực tròn trắng của nàng ngào
nøgat mùi đàn hương vàng, chắc chắn đã
đầm đìa máu”? “khuôn mặt mà trên đó
mái tóc cuốn búp buông xuống như sóng
lượn, chắc chắn đã bị cướp mất vẻ đẹp như
mặt trăng trong sự kìm kẹp của Rahu”, “Có
thể bọn Raksaxa khát máu đã xé nát cái cổ
mềm mại đeo dây chuyển vàng của con
người mà ta yêu dấu”” Nhìn cảnh vật,
chàng thấy cái đẹp thân thể hằn in khắp
nơi. Trong hương sen của hồ Pampa, Rama
thấy đó là hơi thở nhẹ nhàng của Xita;:
trong cây Tilaka nở hoa, chàng thấy bóng
dáng mĩ nhân chuếnh choáng hơi men;
trong cây xoài đang độ nở hoa, chàng thấy
một mi nhân trang sức lộng lây bị những
ham muốn ái ân giày vò...
Không những thế, cảnh vật trong mắt
Rama đâu đâu cũng say trong hoan lạc. So
sánh bức tranh thiên nhiên ở chương 38
khúc ca II và bức tranh thiên nhiên ở
chương 23, 25 khúc ca IV, chúng ta thấy rõ
điều này. Cùng là thiên nhiên của khu
rừng ở ấn, cùng là những con vật ấy nhưng
78
PHAM PHƯƠNG CHỈ
—— EE ——ễễ=ễ=ễ=ễ=ễE=E=E=E= CS
sắc thái khác nhau. Thiên nhiên ở chương
38 khúc ca II hiện lên thơ mộng với trạng
thái vốn có; còn thiên nhiên trong khúc ca
[V ngập tràn trong trạng thái giao hoan.
Thử thách là sự bất thường của cuộc
sống, nhưng chính nó lại bộc lộ phần bản
chất hàng ngày bị che lấp; là bước đệm để
cuộc sống trở về với quỹ đạo thường có của
nó. Sự kiện Xita bị bắt cóc đã làm phát lộ
sắc thái trần tục nhất - vốn có của tình
yêu: sắc thái nhục cảm.
Tuy nhiên, một phản đề khác được đặt
ra là, người Ấn Độ chấp nhận tình yêu
mang màu sắc nhục cảm nhưng không
chấp nhận tình yêu chỉ có màu sắc nhục
cảm. Nhục cảm luôn cân bằng, hài hoà với
tâm hồn thánh thiện, trong sáng, với lòng
chung thủy, đức hi sinh...
Thực ra, quan điểm coi cái đẹp nhục
cảm gắn với tình yêu đã có trong thần
thoại. Các nhà nghiên cứu khi dẫn câu
chuyện thần Siva bị trúng mũi tên của
thần Kama thường chỉ để nói lên truyền
thống nhân đạo, nhân văn đề cao tình yêu
trong văn hoá Ấn Độ. Tuy nhiên, nếu chú ý
hơn đến sự sắp xếp của các sự kiện, vai trò
của sắc đẹp Uma sẽ thấy rõ quan niệm của
nØươI Ấn Độ về quan hệ giữa nhục cảm và
tình yêu. Vẻ đẹp gợi tình của Uma không
thể tự dưng khêu gợi được dục tình của
Siva. Chỉ đến khi trái tim ông tổ của chủ
nghĩa khổ hạnh nhức nhối bởi tình yêu thì
cái đẹp nhục thể của Uma mới được chấp
nhân.
Từ quan niệm cái đẹp nhục cảm gắn
với khả năng sinh sản đến quan niệm cái
đẹp nhục cảm gắn với tình yêu là bước phát
triển của tư duy Ấn Độ, truyền thống nhân
đạo của Ấn Độ. Đó chính là biểu hiện của
cát nhìn có uăn hoá đốt Uớt nhục cm.
4. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là
khái niệm cái đẹp nhục cảm hoàn chỉnh
trong quan niệm Ấn Độ. Cái đẹp nhục cảm
không chỉ là phương tiện duy trì sự sinh
tồn của thế giới mà còn là phương tiện
thanh lọc thế giới. Điều này xuất phát từ
đặc trưng của đất nước Ấn Độ coI trọng sự
rèn luyện đạo đức, chế ngự tỉnh thần.
Người Ấn Độ đề cao cái đẹp thân thể
người phụ nữ nhưng phải gắn với cách,
nghĩa là sự trinh tiết, lòng chung thuỷ...
Người phụ nữ gợi cảm mà không trinh tiết,
đó là người phụ nữ dâm dục, đi thoã, lăng
loàn... và nhất định bị trừng phạt. Có thể
thấy điều này qua sự phân chia nhân vật
nữ trong sử thi Rœmayana thành hai giới
tuyến: người phụ nữ trinh thuận (tiêu biểu
nhất là Xita) và người phụ nữ lăng loàn
(Tara, những người thành
Lanka,...). Hai giới tuyến này giống nhau ở
cái đẹp thân thể. Song nếu như Xita một
lòng sắt son với Rama thì Tara ngay sau
khi Vali (chồng Tara) chết đã nhanh chóng
vùi mình trong vòng tay của kẻ giết chồng
mình là Xugriva, hàng ngày hàng giờ bị
thú nhục dục lôi cuốn. Hình ảnh nàng Xita
đứng vững trên bờ vực của ham muốn nhục
dục mới chính là người phụ nữ lí tưởng
theo quan niệm Ấn Độ. Nhục cảm là giá trị
tự nhiên, song phải gắn với lòng chung
thuy, đức trung trinh. Nhục cảm không
chung thủy, trung trinh đồng nghĩa với
dâm loạn, đàng điếm. Có thể thấy điều này
qua nhân vật Ahalya thất tiết với chồng,
chịu hàng ngàn năm trong am, ngủ trên
giường tro, ăn băng không khí, sống hối
hận không ai trông thấy; mụ Xuanapakha
lăng loàn, bị lòng dục mê hoặc, hết đòi làm
vợ Rama lại đòi làm vợ Lakmana phải chịu
hình phạt thê thảm: cắt tai, xẻo mũi...
phụ nữ
Tiêu chí về lòng chung thuỷ, đức trung
trinh đó đã trở thành luật của Ấn Độ. Tước
đi tính chất hà khắc vô lí của các hủ tục,
chúng ta thấy việc đặc biệt coi trọng đức
hạnh người phụ nữ thật sự cần thiết để thế
FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
ẲP
——_. — —————EEEEEE
giới tổn tại và phát triển trong trạng thái
cân bằng, trong sạch. Nếu coi nhục cảm là
giá trị duy nhất, tuyệt đối, thế giới nhanh
chóng sẽ ngập trong đồi bại, loạn luân...
Nhục cảm gắn với đạo đức mới có chức
năng gìn giữ thế giới.
5. Với người Ấn Độ, nhục cảm là giá tri
tự nhiên phổ biến nhưng nếu con người
chấp thủ, coI nhục cam là giá trị duy nhất,
khi đó, nhục cảm đồng nghĩa với tham lam,
dục vọng - mầm mống của diệt vong.
Sử thì famayana chỉ ra nhục dục là
nguyên nhân đấy con người uào hố sâu đau
thương; nó là nguyên nhân đdo lộn mọi
chân lí. Điều này có thể thấy rõ qua sự kiện
vua Đaxaratha truất quyền lên ngôi của
Rama. Cơ chế điều khiển hành động phi lí
này là lòng dâm dục của con người. Lòng
dục còn nhấn cả nhân loại trong bể khổ
đau, từ người đứng đầu vương quốc là
Đaxaratha đến thần linh, dân chúng... Sử
thì fẦamayana miêu tả nỗi đau của vua
Đaxaratha thật tình tế: “Pa đang rơi vào
một biển cả mênh mông đau buồn vì Rama
văng mặt, những tiếng thở dài là sóng và
xoáy lốc của nó, những cử động của tay là
cá, tiếng khóc là tiếng thầm thì sâu thắm
của nó... Những giọt nước mắt giống như
những con sông đang dào dạt xông vào
nó”'”, Nhiều phép so sánh được tung ra để
đặt tình cảnh vướng mắc không gỡ được
của vua †J)axaratha vào lòng dâm dục: “Nhà
vua tự trói buộc mình bằng một lời nguyền
để rồi tư tiêu diệt mình, như một con hươu
sÉ7)
“ông ngày càng đau khổ như một con hươu
:ˆ __ Ä ` Phn 8 xe. ` ä
lúc thấy một con hổ cát" ` “ông quần quai
bị mắc bây bởi một sợi dây oan nghiệt
như một con rốn độc ngạt thở uì bị bùa
mê”?)... Các hình ảnh đưa ra để so sánh ở
đây diễn tả đúng tình cảnh bị động của vua
Đaxaratha. Dục vọng đã cướp đi sức mạnh
của con người. Trước dục vọng, con người bị
tha hoá.
Tóm lại, câu chuyện lĐaxaratha cho
thấy tác hại của lòng dục, đúng như Rama
nhận xét: “nhục dục là mối dục uọng mãnh
hệt nhất trong con người, thậm chí mạnh
hơn cũ lòng tham uòng. Kẻ nào đeo đuổi
lòng ham muốn mà quên đi mọi quyền lợi,
sẽ mang lại nôi cơ cực cho những người như
"33 (
vua Đaxaratha”d”.
Quan niệm về cái nhục cảm, nhục dục
như vậy liên quan đến triết lí nhân sinh
nhà Phật cho rằng nguyên nhân của khổ là
“cái nhân dục vô nhai, nó làm cho con
người tái sinh hoài; dục vọng đó kết hợp với
sự ham thích, dâm dật, lúc nào cũng muốn
thoa mãn cho được, nguyên nhân là cái
^ˆ^ ^ˆ^ ... ^»» l1
ham mê, ham mê cái thực thế”°”).
Triết lí nhà Phật trong khi chỉ ra căn
nguyên của nỗi khổ, cũng vạch ra con
đường thoát khổ là điệt dục. Phải tẩy chay
lòng hám dục, cuộc sống mới an bằng.
tránh được hoa diệt vong.
Không phải ngâu nhiên mà sử thì
lamayana dành 23 chương (chương 6, 9
khúc ca V) kể về buồng ngủ của Ravana.
Hình ảnh những phụ nữ nằm ngủ chồng
chất tạo thành không khí dâm dục đặc
quánh bao quanh Ravana: “nàng thì gối
đầu lên ngực của nàng khác trong khi một
người thứ ba ngả lên đầu người này; một
nàng đang nằm trên vạt áo người khác,
trong khi một người thứ ba lại ngủ trên
ngực của người này. Cứ thế đấy, họ ngu
chung ngủ chạ, kẻ này tựa vào vai kế
kia”°”. Hơn nữa, khi miêu tả phòng múa
của Ravana, hình ảnh những phụ nữ này
được xếp lẫn lộn với đống đồ đạc, thức ăn
thức uống của chủ nhân (gà, công, nai
quay, thịt lợn xông khói tẩm bơ, gà gô, cá
và thỏ”, “các thức uống ngon: xúp mặn, vị
hơi chua...) cho thấy xu hướng vật chất hóa,
dung tục hóa cái nhục cảm của Ravana.
Trong sử thì #amayana, Ravana biểu
tượng cho lòng ham muốn vô độ của con
ö0
PHAM PHƯƠNG CHỈ
người. Quá trình Rama tiết diệu Ravana
chính là hành trình gian khổ của mỗi cá
nhân thực hành diệt dục để đạt được hạnh
phúc đích thực, hành trình con người
“thoát khỏi mọi nỗi đau khổ nhờ tự huỷ
diệt được mình - theo nghĩa tỉnh thần” để
đạt đến cõi Niết Bàn -— sự “an tính”, cân
bằng, giao hòa.
Như vậy, việc chú ý đến cái nhục cảm
của Ấn Độ chỉ là “cách thức lấy vẻ đẹp của
thế giới vật chất như một phương tiện để
hướng đạo khát vọng các tín đồ tới vẻ đẹp
tâm linh của giác ngộ chân thành ''”. Tại
các chùa chiền Ấn Độ, sự xuất hiện các bức
tranh phụ nữ gợi cảm là để nhấn mạnh uào
bức thông điệp của Đấng giác ngô uề sự chế
ngự, Uuượt qua cạm bây quyến rũ của dục
0uong. Vượt qua cái ảo ảnh, giả nguy của cái
đẹp, con người sẽ tìm thấy cái đẹp đích
thực ở cõi thanh tĩnh, an bằng.
Như thế, nhục cảm một khi đã tước bỏ
tất ca ý nghĩa xã hội văn hoá nó trở thành
lực cản cho sự tồn tại của thế giới. Nhục
cảm phải gắn với thế giới thanh sạch, hài
hoà, an bằng mới là cái đẹp đích thực trong
cảm quan Ấn Độ.
Đến đây, chúng ta có thể hình thành
một cách cơ bản quan niệm về cái đẹp nhục
cảm của Ấn Độ qua sử thi Ramayana: cái
đẹp nhục cảm lò giá trị phổ biến, tự nhiên
của cuộc sống, găn uới bhủ năng sinh sản
để duy trì sự sinh tồn của thế giới; gắn uới
những hành u¡ uăn hoá của con người như
tình yêu, đúc hạnh, nhân cách... để gìn giữ
sự an băng, sạch trong của thế giới.
Quan niệm cái đẹp nhục cảm như trên
xuất phát từ đặc trưng tôn giáo chi phối
mọi mặt của đời sống trong truyền thống
văn hoá Ấn Độ. Tuy nhiên, “mặc dù được
chỉ dân theo các quy luật, cách thức của mĩ
học tôn giáo nhưng cảm xúc vẫn luôn chỉ
phối trong quá trình sáng tạo nên họ không
thể không mang vào... những tình căm
^ 3 ss(13
nhân bản”2?),
Điều này chính Krishna
KripalanI trong cuốn ELiferature oƒ Modern
India - A panoramic glmpse đã khắng
định: “Sự biểu đạt đầy tính dục rõ ràng
không mâu thuẫn với trạng thái thăng hoa
về tinh thần và lòng mộ đạo một cách sùng
kính” (CSuch ©eXPresslon wWas
obvIiously not Inconsistent with flights of
spiritual eestasy or moral piety") '”.Ø
,P.E
erotIc
CHÚ THÍCH
(1) Evanina “Tình yêu và hôn nhân trong
văn học An Độ thởơi trung đại”, Tạp chí Văn học
nước ngoài, số 4/1996, tr.91
(2) Jawaharlal Nehru Phớt hiện Ấn Đô, tập
1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990, tr.106
(3) lamayana, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
1988, tr.135
(4) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội,
1988, tr.136
(5) Ramayana, tập 1. Nxb Văn học, Hà Nội,
1988. tr.135
(6) lamayana, tập 1. Nxb Văn học, Hà Nội,
1988, tr.178
(7) Ramayana, tập 1. Nxb Văn học, Hà Nội,
1988, tr.146
(8) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội,
1988 tr.146
(9) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội,
1988. tr.146
(10) Ramayana, tập 1. Nxb Văn học, Hà
Nội, 1988, tr.171
(11) Lê Xuân Khoa Nhập môn triết học Ấn
Đó, Trung tâm học liệu - Bộ giáo dục, Sài Gòn,
197, rác
(12) Ramayana, tập 2, Nxb Văn học, Hà
Nội, 1988, tr.146 — 147
(18) Lương Duy Thứ (chủ biên) Đại cương
Uăn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1996, tr.200
(14) Krishna Kripalanl erature oƒ
Modern India a panoramic gimpse, Nation book
trust, India, 1982, tr.73