78
NGUYÊN THỊ TUYẾT THU



I1. Phát hiện và đánh giá một tác phẩm văn học theo quan điểm lịch sử là làm cho nó trở nên sống động, giúp chúng ta hiểu được quá khứ, nhận thức rõ hiện tại và định hướng được tương lai. Bài viết của chúng tôi là một nỗ lực như thế, nhằm lý giải những bí ẩn nghệ thuật đã tạo nên giá trị trường tồn của sử thị cổ đại Mahabharata qua hình tượng nhân uật anh hùng.
Mahabharata là “đại sử của dòng Bharata”, mà “Bharata” nghĩa rộng là người Hindi, là Nhân loại. Mahabhardata chính là “Lịch sử Lớn của Nhân loại”), là bức tranh hoành tráng về xã hội Ấn Độ buổi giao thời cuối thời kì công xã thị tộc đầu thời kì chiếm hữu nô lệ, với những chuyển biến lớn lao, dữ đội. Người Ấn Độ đương thời “băn khoăn đi tìm một lẽ sống mà họ cho là tốt đẹp”? Nhân vật anh hùng của sử thi này trở thành điểm hội tụ những khát khao mãnh liệt của dân tộc và nhân loại về sức mạnh thể chất, sức mạnh đạo lý, khát vọng tâm linh. Những ước nguyện cháy bóng đó là thứ nguyên liệu đặc biệt hun đúc nên kiểu mẫu anh hùng riêng của Mahabhardta, mang đặc trưng văn hóa phương Đông: Anh hùng đạo đức - tâm hình, hướng tới sự hoà điệu muôn thuở của vũ trụ.
SẮC DIỆN CỦA NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG SỬ THỊ MAHABHARATA
NGUYÊN THỊ TUYẾT THU?)
Nhân vật anh hùng là yếu tố trung tâm trong thế giới nghệ thuật sử thì. Khác với những sử thi thuần khiết, nhân vật anh hùng của ÄMfœhabharata được chú trọng khắc họa ở cả hai bình đời thường. Mahabharata luôn đặt người anh hùng
diện chiến trận và của mình trước sự lựa chọn giữa những giá trị đối lập: hiện hữu - vô hình, thể xác - tâm linh, luân hồi - giải thoát... Chủ quan hoá xung đột bên ngoài vào bên trong nội tâm nhân vật, khiến người anh hùng một mặt chịu sự ràng buộc của những đam mê trần thế mãnh liệt, những khát vọng tâm linh huyền bí, cao đẹp.
một mặt khôn nguôi vươn tới
2. Con người sử thì thường được “ngoại hoá” bởi sự đồng nhất giữa suy nghĩ và hành động. Hành động là hình thức tồn tại, là tiêu chí giá trị cơ bản của người anh hùng. Hành động trở thành phương tiện nghệ thuật quan trọng để khắc họa tính cách, đặc tả phẩm chất và bộc lộ quan niệm về nhân vật anh hùng.
Trong Mahabhardfa, hành động tồn
tại dựa trên hai hệ giá trị: Dharma của
(*) TS, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
Ta


võ sỹ Kshatriya và Dharma của đạo sỹ Brahmm. Hành động của người anh hùng được thể hiện gắn chặt với các biến cố mà “thích hợp nhất là các xung đột trong trạng thái chiến tranh””” là quan niệm thường thấy trong các sử thi anh hùng. Ở phương diện này, sử thi chú trọng tới hành động lập chiến tích vinh quang trên chiến địa, khẳng định uy danh và sức mạnh vũ lực. Hành động trở thành công cụ chạm khắc chân dung người anh hùng với những đường nét kỳ vĩ, chân xác, có giá trị tạo hình cao, ngợi ca vẻ đẹp của sức mạnh thể chất phi phàm.
Điều biệt là Mahabharata còn có một góc nhìn thứ
đặc trong hai, tạo nên sự phức điệu trong cảm hứng và sự phức tạp trong quan niệm anh hùng. Từ góc nhìn của đạo sỹ Bàlamôn, hứng thú ngợi ca cơ bản đã nghiêng về động cơ hành động - ngợi ca hành động vô cầu và chiến thắng bản năng, ngợi ca lẽ Dharma cao cả. Mahabharata chú tâm đến hành động của nhân vật anh hùng nhưng không phải ở kết quả vật chất trước mắt, mà xem xét nó trong hành trình nhận thức chân lý. Hành động là thực hiện một cuộc hành hương bền bỉ vượt lên mọi cám dỗ phàm trần để đạt tới tuyệt đích tâm linh. Anh hùng trở thành một giá trị được qui ước và người anh hùng là người đi tìm cát tuyệt đích. Với phương Tây, cái tuyệt đích là chiến công dũng mãnh trên chiến địa; Với người Ấn, cái tuyệt đích là khát vọng tâm linh. Trong
Mahabharaia, niệm truyền thống không bị mất đi, mà
anh hùng theo quan
được bổ sung một lớp nghĩa mới. Người anh hùng hành động không chỉ nhân danh vinh quang và lòng dũng cảm, mà còn thực hiện những chuẩn mực đạo đức cao cả, hướng tới hòa hợp và giải thoát.
Quan niệm này chỉ phối nguyên tắc tổ chức hành động của nhân vật anh hùng. Dưới ánh sáng của hệ quy chiếu đạo đức, Mahabharata thiết lập hành động thuyết mình cho sức mạnh của lẽ Dharma, “ở đâu có Dharma ở đó có chiến thắng”, Xuất phát từ mối quan hệ giữa cá nhân và vũ trụ là đặc trưng tư duy phương Đông - tư duy Ấn Độ, Mahabharata thiết
mang dấu ấn của quan niệm “tam vị
lập hành động
nhất thể”, dem phân chia các loại hành động đặc tả phẩm chất cho từng cá nhân anh hùng. Phải nhìn nhận chúng trong tương quan với nhau mới tạo nên khuôn mẫu lý tưởng của nhân vật anh hùng Ấn Độ.
3. Vẻ dẹp đặc trưng của nhân vật anh hùng trong Mahabharata được bộc lộ qua một phương tiện cơ bản khác: ngôn ngữ đối thoại. Ỏ phương tiện nghệ thuật truyền thống này, Mahabharata vừa nối tiếp vừa có nhiều sáng tạo độc đáo, thay đổi quy mô, cấu trúc và chức năng lời thoại. Bên cạnh những đối thoại trao đổi thông tin, thách đấu, thị uy sức mạnh, hạ bệ đối phương vốn là motif quen thuộc, xuất hiện những đối thoại tranh biện về các chuẩn mực đạo đức xã hội, bộc lộ chiều sâu tư tưởng của hình tượng nghệ thuật. Đó là những đối thoại chứa đựng lớp nghĩa 80
NGUYỄN THỊ TUYẾT THU


hàm ẩn được cài đặt bằng những pha gay cấn trong lựa chọn hành dộng, bộc lộ quan điểm đạo đức như gam màu rực sáng trên tượng đài người anh hùng sử thị.
Đặc biệt trong ÄMfœhabharata xuất hiện cä những đối thoại đạo đức-thuyết giáo khổng lô, làm biến động khuôn khổ sử thi. Hiện lên qua đối thoại là người anh hùng luôn khao khát nhận thức quy luật vũ trụ nhân sinh, tìm kiếm sự hài
Dharma cao ca vĩnh hăng. Sức mạnh
hoà giữa Dharma cá nhân và đạo lý được ngợi ca qua lối giao đấu bằng lời, mà chiến thắng thuộc về người am tường lẽ Dharma, sẽ mở được Cửa Trời, hợp nhất với thần linh, thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Một số đối thoại của các anh hùng mang dáng đấp độc thoại cũng đã xuất hiện trong Mahabharafa, đánh đấu một bước đột phá vào thế giới nội tâm, phản ánh đời sống tâm linh. Kiểu tư duy hướng nội này khiến người anh hùng của Mahabharata không còn hoàn toàn được “ngoại hóa” như trong các sử thi thuần khiết khác.
Cùng với những đặc thù trong miêu tả hành động, đối thoại là nét bút uyến chuyển, sinh động tạc dựng chân dung người anh hùng Ấn Độ với vẻ đẹp “uy nghiêm trầm lặng của sức mạnh tỉnh thân”””, Đối thoại trong Mœhabharata là những thuyết giảng đạo lý lập thuyết trên nền tảng Dharma cao cä, đậm chất “thánh kinh”, bộc lộ nét đặc thù trong tâm hồn tính cách Ấn Độ, thiên về đạo đức - tâm linh.
Sự xuất hiện của đối thoại đạo đức - thuyết giáo không chỉ làm nên vẻ đẹp hiển minh cao cả của người anh hùng Ấn Độ góp
Mahabharata đến một tâm cao mới,
mà còn phần dưa khiến nó trở thành “tác phẩm thâm thúy, cao thượng nhất mà nhân loại có thể sáng tác được”),
4. Một số thủ pháp nghệ thuật như: kỳ diệu hóa, so sánh và sử dụng các biểu tượng văn hoá đặc thù trong miêu tả nhân vật anh hùng, vốn không xa lạ với đời sống văn học, nhưng Mahabharata đã sử dụng một cách sáng tạo, khiến chúng bộc lộ một sức mạnh biểu đạt mới.
Kỳ diệu hoá biểu hiện bằng nét bút cường điệu, phóng đại, bằng việc sử dụng các motif thần kỳ, các tác nhân siêu nhiên... gần cho người anh hùng khả năng phi thường, kết tỉnh sức mạnh, tài năng, trí tuệ của cả cộng đồng. Kỳ diệu hoá trong Mahabharata còn thể hiện một triết lý nhân sinh mang màu sắc tâm linh, qua miêu tả cái chết của nhân vật anh hùng với một
mỹ cảm tươi sáng siêu thoát.
Hiệu quả của phép lồng khung, xâu chuối những truyện dân gian qua lời kể của các đạo sỹ là cơ sở để xuất hiện /ốï so sánh ngầm trong Mahabharala. Những triết lý cao siêu, những bài học luân lý được truyền đến người nghe không phải băng lập thuyết khô khan, trừu tượng mà bằng ngụ ngôn sinh động chứa đựng những hình tượng nghệ thuật, hàm ý đối sánh với các anh hùng trong câu chuyện chính. Từ góc nhìn FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
B]


đó, người anh hùng được soi chiếu kỹ lưỡng hơn, bộc lộ phẩm chất đặc thù của mỗi cá nhân.
So sánh nhân vật anh hùng với các đối thể tự nhiên nhằm tôn vinh sức mạnh và tài nghệ của con người ngang tầm vũ trụ, thể hiện cảm quan ngợi ca tuyệt đỉnh vốn là đường nét chủ đạo trong bất kỳ sử thi nào. Nhưng ngay ở địa hạt quen thuộc này, Mfahabharata vẫn tạo được những bất ngờ thú vị, bởi sự tương đồng được phát hiện không phải bằng nhãn quan bên ngoài mà được thâu nhận từ tia sáng nội tâm bên trong, qua cảm nhận và ấn tượng. Đó là nét đặc thù của tư duy hướng nội, cần có cái nhìn không phải của eon mắt mà là của cái tâm.
Việc lựa chọn những biểu tượng văn hoá đặc thù tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng ở chiều sâu tâm linh, bằng gam màu độc đáo chỉ riêng có ở nhân vật anh hùng Ấn Độ, tạo đường viền sắc nét cho mỗi tượng đài anh hùng.
Gần ba mươi thế kỷ đã trôi qua, biết bao thế hệ độc giả tiếp xúc với Mahabharata, mỗi người đều có cách cảm nhận riêng về những ý tưởng mà tác giả gửi gắm qua các hình tượng nghệ thuật. Là tác phẩm lớn nhât trong kho tàng văn học cổ đại Ân Độ, Mahabharata mô tả “những đau buồn của cuộc sống nhân gian với một vẻ đẹp cao cä và diễn ra trên một toàn cảnh lớn”"U), vĩnh hằng được ngợi ca bằng nghệ thuật độc đáo, đã khiến nhân vật anh
Chính những giá trị dạo đức
sử thì Mahabharata trỏ thành tượng đài bất tử tồn tại ngoài dòng chảy của thời gian, đăng quang cho Cái Đẹp, Cái Thiện trên cõi đời. Sử thi như một thể loại văn học đã “một đi không trở lại”, nhưng cảm hứng sử thi
hùng của
hướng tới sự cao cả, thiêng liêng và kỳ diệu thì mãi mãi là nhiệt hứng sáng tạo nghệ thuật muôn đời.
Với “nỗ lực trong nhận thức đời linh người”), Mahabharata đang và sẽ là nguồn đề
sống tâm của con tài mới lạ, hấp dẫn vẫy gọi nhiều công trình nghiên cứu của thế kỷ XXI này - thế kỷ “hội thoại giữa các nền văn . . . , ... q ˆ minh” trong lịch sử phát triển của nhân
loại. I. 1.1.1
(1) Jean Claude Carrlère, Mahabharata - Bài thơ nhân gian, tạp chí Người đưa tin nesco số 9/1989, tr,6.
(2), (7) Mahabharata (Cao Huy Đỉnh và Phạm Thủy Ba dịch), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr.5, tr.426.
(3) Hegel, Mỹ học, tập II (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, 1999, tr. 594.
(4) P.A. Grinser - Sử £h¿ Ấn Độ cổ đại, Nxb Khoa học, Mátxcơdva, 1974, tr.310.
(5) Theo Lưu Đức Trung - Văn học Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.64.
(6) Theo Will Durant - Lịch sử uăn mình Ấn Độ, Nxb Lá Bối, Sài Gòn 1971, tr.381.
(8) The Mahabharata (Volume Ì), Translated by KEisari Mohan Ganguli, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., New Delhn, 2000, tr. 9.