78

1. Không thể phủ nhận, thủ pháp so sánh được sử dụng rất phổ biến trong sử thi. Nguyễn Văn Khoả trong cuốn "Anh hùng ca Hômerởơ"” (Nxb Trung học chuyên nghiệp, H, 1978) đã dành riêng hai trang sách để phân loại và giải thích về thủ pháp so sánh trong sử thi Iiát - Ôđixê, sau khi khẳng định thủ pháp so sánh là một trong những biện pháp kĩ thuật quan trọng của sử thị. Nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn khi bàn về "Những đặc điểm của sử thì anh hùng" cũng nhấn mạnh: “một nét nổi bật gây ấn tượng sâu sắc, đặc biệt kì thú đốt uới độc gia (...) là cách nói ví Uuon rất giàu hình anh, tràn ngập trong khắp tác phẩm”.
Tuy đếểu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính chất hoành tráng, đồ sộ của sử thi, song, thủ pháp so sánh ở mỗi tác phẩm thuộc các dân tộc khác nhau lại không giống nhau về cấu tạo và giá trị. Sự khác biệt này do những đặc trưng trong tư duy của từng dân tộc quy định. Tìm hiểu nét riêng và chung của thủ pháp so sánh trong các bộ sử thị đó, chúng ta có điểu kiện lí giải sự đa đạng và thống nhất của nền văn hoá nhân loại.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở phạm vị đối chiếu thủ pháp so sánh trong hai bộ sử thì đại điện cho hai nền văn hoá tiêu biêu nhất của nhân loại, đó là sử thì Hiát - Ôđixẻ của Hì Lạp và sử thi Ramayana của Ấn Độ. Việc đối chiếu này ít nhiều giúp ta hiểu được nỗi lòng
PHAM PHƯƠNG CHỊ


71(Í PWÁP.‹0 4MW7XðMỆ (71 “/ÁÁT - Â9/XÉ; 6Í 7H @WWAWM: AAI/ØW U1////
PHAM PHƯƠNG CHI”'
của nhà sử học Michelet (1798 - 1874) "ở phương Tây cúi Ø cũng chật hẹp. Hì Lạp nhỏ bé... Hãy để cho tôi hướng UỀ châu A cao cqd 0à Đông phương thâm trầm trong phút giây”,
2. Điểm tương đồng đầu tiên về nghệ thuật so sánh trong hai cuốn sử thi là mật độ sử dụng dày đặc và cường độ xuất hiện cao. Không một nhân vật, một hình tượng sư thị nào lại không được đặc tả bằng thủ pháp so sánh; từ nhân vật chính là Xita, Rama, Hanuman, Asin, Uylixo.. cho đến những nhân vật phụ như Đaxaratha. Kôxalya... Không những thế. mọi trạng thái, mọi tình huống của cuộc sống thường nhật cũng được trang hoàng bởi những chùm hoa so sánh rực rỡ. Nếu là nỗi đau thất vọng thì được ví như "mặt trăng sau bì nguyệt thực”"”, nếu là tình trạng bị giam giữ thì được ví như “sao Rôhint trong sự hừn hẹp của Kêtu”U” nếu là nỗi cô đơn buồn tủi không bạn bè thì được ví như “một bông sen không có ong qua lại”"”, nếu là cảnh huống hạn hán thì được ví như "về mùa thu, nhờ cö gió bấc nổi lên làm cho một uườn câ mới tưới, ráo ngay trong chốc lát” nếu là một cảnh rượt đuổi kinh hoàng thì được ví như "con phượng hoàng đen uò chim săn môi bhoẻ uà nhanh hơn hết các loài chim ”"” hay được ví như "1ä cá hoảng hốt nấp uào khấp hang hốc của một cửa biển chắc chăn, để trốn mội con cá heo hung tợn ăn thịt bất cứ cát gì nó bắt được"...

'* Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
TẠI


Trong khi. sức mạnh của phép tu từ ân dụ là tính chất biểu cảm thì “sức mạnh của so sánh là nhận thúc""”. Cương độ. mật độ so sánh trong sử thì thê hiện khát vọng khám phá thế giới và khát vọng phô trương kết qua khám phá của con người cổ đại. Dù là phương Đông hay phương Tây, thì không gian khai phóng. thoáng mở của thời Rì "mội đi bhông trở lạt” đó, vẫn chắp cánh cho trí tuệ eon người được thoả sức thể hiện cái ham muốn nồng nhiệt được nhận thức các quy luật thiên nhiên, từ đó, tìm một chỗ đứng bình đẳng, tự tin trước thế giới.
3. Phạm vị nhận thức của con người cổ đại Hi Lạp hay Ấn Độ chủ yếu dừng lại ở đối tượng thiên nhiên. Điều này được thê hiện qua tỉ lệ ưu thế của các phép so sánh với thiên nhiên ở cả hai bộ sử thì (15% ở Ramayana, 60% ö Thiát - Odixô). Thế giới thần linh trong vế “để so sánh” của sử thì lát cũng có nguồn gốc thần thoại như sử thì ømayana.
Như vậy. trong cảm quan Hi Lạp, Ấn Độ cổ đại, con người mang trong hình hài của nó cái “(hán thể uũ trụ” (chữ dùng Bakhatin). Đây là dâu ấn của thời đại con người còn đồng nhất với tự nhiên.
4. Thủ pháp so sánh trong ca hai
cuốn sử thị đều có những công thức cô
định. Nếu như nỗi buồn trong sử thi Namayana luôn được ví như mặt trăng vào kì nguyệt thực. mũi tên phóng đi luôn sánh với chớp rạch hoặc con rắn chui vào lòng đất, người đẹp bị bao vây như eon nai giữa bầy sư tử... thì vị ngọt trong sử thị /át luôn là vị ngọt của mật, người anh hùng luôn sánh tựa Dót. tên bắn phải như mưa... Các công thức so sánh đó đã đi vào lời ăn tiếng
nói của nhân dân và trở nên quen thuộc như thành ngữ, tục ngữ của người Việt.
5. Tuy nhiên, cấu trúc của phép so sánh chi tiết trong sử thi Iliát có nhiều điểm riêng so với cấu trúc so sánh của sử thị Ramayana. Trong khi cấu trúc so sánh phổ biến của sử thi Ramayana là A như B thì ở sử thi lliat, công thức đó đảo ngược lại: cũng như B (đặc tính của B), A (hoạt động của A). Ví dụ: “như bhi trên núi một con chó đuổi con nai con ra khỏi hang, săn nó qua các thung lùng 0à núi đồi bhúc bhuỷyu, dù nai bia có thoát được mắt chó, nóp mình giữa bụi bờ chó cũng theo dấu uết không ngừng đuổi theo, tìm cho h được mới thôi, Hecto cũng 0ậy, chàng không thể nào thoát bhỏi người con chạy nhanh của Pêlể"”*},
Có khi. sử thi Iát - Ôđixê cũng sử dụng kiểu cấu tạo *A như B" nhưng vế "để so sánh” thường là một câu chuyện được tường thuật một cách tỉ mí. Chính vì thế, các phép so sánh trong sử thì Hiát - Ôđixê thường dài, nhiều khi khiến độc giả quên là đang theo đõi cốt truyện chính mà bị cuốn vào những mầu chuyện nho nhỏ như chuyện đóng tàu, chuyện rượt rừng, chuyện hoa hoạn...
đuổi trong
6. Về giá trị, phép so sánh trong lát cho ta một thế giới đặc trưng Hì Lạp. Nếu như thế giới sử thi của lamayana có dãy Himalaya như "mặt trời giữa đám đồ uật tiếp sinh lực của
(11)
nó ”'`””eó đòng sông êm ä trôi "như mội
nàng trinh nữ bến lên ngượng ngùng U¡ buổi giao hoan đầu tiên""”, có loài chim Chakravakl, những dàn VỊt giới, quả bimba chín đó, có thần Indra, thần Garudda Rôhini, có kinh Vêda... thì thế giới của Hi lạp lại hiện lên thần thoại với thân Dớt tối cao, nữ thần Apôlông xinh đẹp, nữ thần Thêtix, Calipxô; với 80
PHAM PHƯƠNG CHỈ


những mùa vàng chín rực, với biên cả mênh mông...
Cả hai cuốn sử thi đều hướng về nhận thức cứi tuyệt đối nhưng nếu như cái tuyệt đối của Ấn Độ hiện hữu trong các thiên thể thuộc chiều cao như mặt trăng, mặt trời, sao... thì biển lại là cái tuyệt đốt tối têu trong tư duy Hỉ Lạp. Hầu hết các phép so sánh tạo ấn tượng của sử thi J1 đều sử dụng hình ảnh biển hoặc mang bóng dáng của biển phép so sánh với thiên nhiên).
Biển Địa Trung Hải quanh năm dạt đào sóng võ đã hình thành ở con người cổ đại Hi Lạp khát vọng đi xa, thực hiện tiếng gọi vĩnh cửu của tâm thức hướng ngoại. Trong khi đó, con người Ấn Độ lại hướng tới chiều sâu tâm linh thăm thắm.
Và cũng chính nếp tư duy hướng ngoại ấy đã quy định tính chất quyết liệt. trào đâng nóng bỏng của các phép so sánh trong sử thị Hì Lạp. Vì thế. nếu như các hình ảnh "để so sánh” của sử thì Ramayana khắc hoạ sự vật ở đặc tính tĩnh thì ở sử thì 1⁄ét, các sự vật đó lại cuộn lên trong mọi vận động có thể có. Lửa trong cảm quan Ấn Độ là cột, là "cục than hồng"”"”, là "cây axôba đỏ thăm những chùm hoa"''”: lửa trong mắt nhìn Hi Lạp lại “Đốc lên trong các thung lùng của ngọn núi bhô, bốc cháy cuồn cuộn, lan ra khắp nơi"05) lại “phun ra đột ngột, hhông ngót bốc lên ngùn ngụ?09 . Điều này được thể hiện rõ nhất là những so sánh độc đáo của [lát thường được dùng để miêu tả các tình thế gay cấn như một cuộc rượt đuổi hay cảnh sụp đổ huy hoàng. Trong thực tế, đó là những sự kiện có tính khoảnh khắc. Song, nếu như nghệ thuật so sánh trong sử thị #œmayana làm chậm hoá những khoảnh khắc huy hoàng để
(38% tổng số
chiêm nghiệm thì nghệ thuật so sánh của //¿át lại thúc đẩy sự kiện đó thêm hối hả, dôn dập để ngưỡng phục trong kinh hoàng. Đặc sắc của lối so sánh đó phản ánh phong cách sôi nổi, trẻ trung phương Tây, có phần khác với phương Đông trầm mặc, uy nghiêm.
7, Các phép so sánh trong sử thì Ấn Độ mang tính chất cường điệu, luôn có xu hướng đi cao hơn, xa hơn khả năng tưởng tượng vốn có của con người, để đạt tới hạt nhân triết lí. Trong khi đó, hạt nhân triết lí của phép so sánh trong sử thi lHiớt - Ôđixê lại tổn tại ngay trong ban thân mối liên hệ của hai vế so sánh. Đó là những so sánh hợp lí đến không ngờ, kiểu như: “hai người quần nhau, một người đuổi mãi uân bhông được, một người chạy mãi uân bhông thoát chẳng hhúác gì năm mở, bên trốn, trốn chẳng xong, bên đuổi cũng không đuổi kịp”°”. Các hình ảnh so sánh của sử thị lát - Ôđixê mang tính cụ thể, dễ mường tượng, trong khi đó, các phép so sánh của sử thi Ramayana lại mang tính trừu tượng. Vì thế, người ta khó hình dung được nhân vật Hanuman hiện lên như thế nào qua một loạt phép so sánh: "chẳng hay có phảút là Indra, thần sét, hay Yama, hay Vanura Hay thần Chandra hay Kubêra... đó là thần Chết hiện thân hoặc giả ngọn lửa của Visnu”"''”, Luôn đối chiếu hai sự vật gần nhau của sử thì 1át, đó là thành quả của cái nhìn duy lí trong cảm quan phương Tây. Đối với một nền văn hoá ngôn ngộn suy tư như Ấn Độ, sự vật được cảm nhận bằng cái nhìn duy cảm với ước vọng về khả năng tâm linh siêu phàm có thể kéo gần lại những sự vật xa nhau vời vợi.Œ XIN xử
(Xem tiếp trang §1) 81
THỦ PHÁP SO SÁNH...
(Tiếp theo trang 80)
(1) Võ Quang Nhơn (1999), Văn học đân gian - nhưng công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, H, tr. 172
(2) Chuyển dẫn từ Lưu Đức Trung (1999), Văn học An Độ, Nxb Giáo dục, H, tr.64
(3) Ramayana, tập 2 (1988), Nxb Văn học, H, tr. 188:
(4) Ramayana, tập 32 (1988), Nxb Văn học, H, tr. 158
(5) Ramayana, tập 3 (1988), Nxb Văn học, H, tr. 165
(6) Hiát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học, H, tr. 123
(7) liát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học, H, tr. 119
(8) Iiát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học, H, tr. 109
(9) Hiát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học, H,tr. 153
(10) Chuyển dẫn từ Đỉnh Trọng Lạc (1998), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Ciáo dục, H, tr. 193
(11) Ramayana - tập 3, (1988), Nxb Văn học, H, tr. 30
(12) Ramayana - tập 2. (1988), Nxb Văn học, H, tr. 74
(13) Ramayana - tập 3, (1988), Nxb Văn học, H; tr. 27
(14) Ramayanda - tập 3, (1988), Nxb Văn học, H, tr. 99
(15) Hiát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học,
H.†‡F. 1B
(16) IHát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học, H, tr. 109
(17) Hiát - Ôđixê, (2001), Nxb Văn học, H,.w 155
(18) Ramayana - tập 3, (1988), Nxb Văn học, H, tr. 3ã1