
N
NÂ
ÂN
NG
G
C
CA
AO
O
H
HI
IỆ
ỆU
U
Q
QU
UẢ
Ả
H
HỌ
ỌC
C
T
TẬ
ẬP
P
M
MÔ
ÔN
N
V
VẬ
ẬT
T
L
LÍ
Í
C
CỦ
ỦA
A
H
HỌ
ỌC
C
S
SI
IN
NH
H
L
LỚ
ỚP
P
1
12
2A
A3
3
-
-
T
TR
RƯ
ƯỜ
ỜN
NG
G
T
TH
HP
PT
T
S
SỐ
Ố
4
4
V
VĂ
ĂN
N
B
BÀ
ÀN
N
Q
QU
UA
A
P
PH
HƯ
ƯƠ
ƠN
NG
G
P
PH
HÁ
ÁP
P
H
HO
OẠ
ẠT
T
Đ
ĐỘ
ỘN
NG
G
N
NH
HÓ
ÓM
M,
,
S
SA
AU
U
K
KH
HI
I
H
HỌ
ỌC
C
X
XO
ON
NG
G
C
CH
HƯ
ƯƠ
ƠN
NG
G
S
SÓ
ÓN
NG
G
Á
ÁN
NH
H
S
SÁ
ÁN
NG
G

Trường THPT số 4 Văn Bàn NCKHSPUD 2011 - 2012
GV. Vũ Xuân Quế
2
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ cũng như toàn thể xã hội đã rất quan
tâm và đầu tư cho giáo dục, xác định ‘Đầu tư cho giáo dục là sự đầu tư bền vững và hiệu
quả nhất’. Nền giáo dục nước nhà cũng đã có nhiều cố gắng trong việc tự hoàn thiện mình
bằng những giải pháp như tiến hành cải cách giáo dục (GD), đổi mới chương trình GD
toàn diện. Một trong những đổi mới quan trọng đó là đổi mới về phương pháp giảng dạy.
BGD đã xác định “Khuyến khích tự học”, phải “Áp dụng những phương pháp dạy học tích
cực để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, khắc
phục lối truyền thụ một chiều như trước đây”. Phương pháp và các kĩ thuật dạy học tích
cực thì có nhiều: kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật đắp bông tuyết,
phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp hợp đồng, ... phương pháp hay kĩ thuật mới
nào cũng có những cái hay riêng của nó mà bản thân tôi đã thử nghiệm. Vấn đề là vận
dụng ở đâu, vận dụng như thế nào và phương pháp nào thích hợp nhất với đối tượng lại là
cả một vấn đề cần bàn.
Với đặc thù vùng miền, hơn nữa trường THPT số 4 Văn Bàn là một trường được thành
lập chưa lâu, phong trào học tập của học sinh còn kém, năng lực học sinh đa phần là trung
bình yếu, việc lựa chọn phương pháp hay cách dạy như thế nào để mỗi học sinh tích cực
thì mỗi người có một cách suy nghĩ khác nhau. Vậy phương pháp dạy học nào là phù hợp
nhất với điều kiện hiện tại của trường và phối hợp tốt cùng với các phương pháp truyền
thống khác đã có từ trước, đáp ứng được các yêu cầu
mang lại hiệu quả cao nhất cho tiết học, theo hướng đổi mới ?
Trong quá trình dạy và thử nghiệm, tôi thấy thuyết phục nhất hiện nay là cách dạy: tổ
chức hoạt động nhóm với sự trợ giúp tích cực từ thầy cô. Bởi vì bản thân nó, vốn có khả
năng đáp ứng các tiêu chí xây dựng thành công con người năng động, sáng tạo. Từ thực
nghiệm đổi mới PPDH, đã chứng tỏ qua hoạt động sẽ làm cho mỗi thành viên bộc lộ được
suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình, qua đó được tập thể uốn nắn, điều chỉnh, phát triển
tình bạn, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng... Hoạt động trong
tập thể quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tập sẽ tăng

Trường THPT số 4 Văn Bàn NCKHSPUD 2011 - 2012
GV. Vũ Xuân Quế
3
lên nhất là phải giải quyết vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân
để hoàn thành một nhiệm vụ học tập xác định. Xét về mặt thời lượng 45 phút/ tiết học ở
Việt Nam, nó cũng phù hợp hơn so với nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học khác. Tuy
nhiên, để đánh giá một cách khách quan hơn về phương pháp hoạt động nhóm (HĐN), tôi
đã tiến hành nghiên cứu tác động của phương pháp này qua một chương của Vật lí 12-
Sóng ánh sáng
Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm tương đương là hai lớp 12A3, 12A4
trường THPT số 4 Văn bàn. Lớp thực nghiệm là lớp 12A3 được áp dụng thường xuyên
phương pháp HĐN khi dạy các bài của chương Sóng ánh sáng- (Thuộc chương V chương
trình chuẩn Vật lí 12). Lớp đối chứng là lớp 12A4 giảng dạy theo phương pháp truyền
thống là chủ yếu.
Việc áp dụng phương pháp Hoạt động nhóm đã có ảnh hưởng rất rõ rệt đến kết quả
học tập của học sinh. Lớp thực nghiệm thông qua bài kiểm tra đánh giá đạt kết quả cao
hơn lớp đối chứng. Điểm số trung bình bài kiểm tra sau tác động của lớp thực nghiệm là
5,9 lớp đối chứng là 5,0 Kết quả phép kiểm chứng t-test p = 0,02 < 0,05 có ý nghĩa, có sự
khác biệt lớn giữa điểm trung bình của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Kết quả cho
thấy sự chênh lệch giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng rất có ý nghĩa, không phải
do ngẫu nhiên. Điều đó chứng minh rằng, việc áp dụng phương pháp Hoạt động nhóm đã
nâng cao kết quả học tập môn vật lí của học sinh lớp 12A3 trường THPT số 4 Văn Bàn khi
học xong chương “Sóng ánh sáng” .
GIỚI THIỆU
Trong sách giáo khoa vật lý 12 chương trình cơ bản, chương Sóng ánh sáng được
đánh giá là một chương hay, có nhiều thí nghiệm hỗ trợ có sẵn hoặc khai thác được bằng
thí nghiệm ảo. Xong qua các năm giảng dạy cho thấy một số vấn đề chung như sau: Còn
nhiều học sinh khả năng tư duy kém, rỗng kiến thức từ lớp dưới. Có không ít học sinh khả

Trường THPT số 4 Văn Bàn NCKHSPUD 2011 - 2012
GV. Vũ Xuân Quế
4
năng tính toán rất kém, kể cả việc sử dụng máy tính cầm tay. Đồng thời nhiều học sinh còn
có tư tưởng không đầu tư sâu vào môn vật lí. Với trường THPT số 4 Văn Bàn chúng tôi,
phần lớn giáo viên là trẻ, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, việc khơi gợi hứng thú môn
học và đầu tư các phương pháp giảng dạy tích cực chưa được chú trọng nhiều.
Giải pháp thay thế:
Để khắc phục phần nào các nhược điểm trên, qua một vài năm công tác tôi rút ra:
Nên sử dụng phương pháp hoạt động nhóm là hợp lí nhất. Phương pháp này vừa đảm bảo
tính tập thể, tính hợp tác, tính tích cực và chủ động của học sinh. Tạo cho học sinh có một
nền tảng kiến thức thực sự trong mình nhờ chủ động và sự hỗ trợ kịp thời từ bạn bè, thầy
cô.
Tham khảo: trong quá trình lập đề cương và nghiên cứu tôi đã đọc và tìm hiểu một
số tài liệu về phương pháp giảng dạy liên quan: Phương pháp giảng dạy- Giáo trình
ĐHSP Thái Nguyên; Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực- Nguồn internet;
Cách vận dụng phương pháp hoạt động nhóm trong giảng dạy phổ thông- nguồn
internet và tham khảo ý kiến của bạn bè, đồng nghiệp về cách thức tổ chức hợp lý.
Vấn đề nghiên cứu:
Việc vận dụng phương pháp hoạt động nhóm có làm tăng hiệu quả học tập của học sinh
lớp 12A3- trường THPT số 4 Văn Bàn sau khi học xong chương Sóng ánh sáng hay không
?
Giả thuyết nghiên cứu:
Việc vận dụng phương pháp hoạt động nhóm làm tăng hiệu quả học tập của học sinh lớp
12A3- trường THPT số 4 Văn Bàn sau khi học xong chương Sóng ánh sáng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. Khách thể nghiên cứu
Khách thể được sử dụng để thực hiện nghiên cứu đề tài là học sinh lớp 12ª3 và 12ª4
trường THPT số 4 Văn Bàn vì các đối tượng này có nhiều thuận lợi

Trường THPT số 4 Văn Bàn NCKHSPUD 2011 - 2012
GV. Vũ Xuân Quế
5
Chọn 2 lớp: lớp 12ª3 và lớp 12ª4, là hai lớp có nhiều điểm tương đồng: Dân tộc, ý
thức học tập, tính kỉ luật, đặc biệt là học lực
* Bảng 1: Gới tính và thành phần dân tộc của hai lớp 12ª3 và 12ª4 của trường
THPT số 4 Văn Bàn.
Nhóm
Học sinh các nhóm Dân tộc
Tổng
số Nam Nữ Kinh Tày HMông Dao Thái Giáy
12A3 38 22 16 04 31 0 02 0 01
12A4 39 13 26 03 36 01 0 0 0
Ý thức học tập của học sinh hai lớp: đa số học sinh đều ngoan, dễ tác động và điều
khiển theo ý muốn. Bên cạnh đó cả hai lớp vẫn còn nhiều học sinh năng lực tư duy hạn
chế, trầm, ít tham gia các hoạt động chung của lớp.
* Bảng 2: Kết quả học học tập kì I năm học 2011 – 2012 môn Vật lí của hai lớp
12A3 và 12A4:
Lớp Tổng số HS HK I Điểm trung bình môn học kì I
12A3 38 5,01
12A4 40 5,38
II. Thiết kế nghiên cứu:
Chọn hai lớp: Lớp 12A3 làm nhóm thực nghiệm, lớp 12A4 làm nhóm đối chứng.
Dùng kết quả môn vật lí học kì I và kết quả khảo sát sau khi học xong chương Sóng ánh
sáng làm cơ sở nghiên cứu, đánh giá.
Kết quả:
Bảng 3: Kiểm chứng để xác định nhóm tương đương ( trước tác động)
Thực nghiệm Đối chứng
TBC 5,01 5,38
p = 0,18
p = 0,18 > 0,05 từ đó rút ra kết luận sự chênh lệch điểm trung bình của hai nhóm
thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm được coi là tương đương.

