
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÍCH HỢP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
VÀO GIẢNG DẠY CHƯƠNG III GIA CÔNG
CƠ KHÍ CỦA MÔN CÔNG NGHỆ 8
Lĩnh vực: Công nghệ
Cấp học: Trung học cơ sở
Năm học 2016-2017
MÃ SKKN

PHỤ LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 3
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................... 3
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ........................................................................... 7
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU............................................................................ 7
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ........................................... 7
5. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU ................................................... 7
5.1. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................. 7
5.2. Kế hoạch naghiên cứu: .............................................................................. 7
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ................................................................................. 8
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ .................................................................. 8
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ ...................................................................... 9
3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. .. 11
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ......................................... 22
III. KẾT LUẬN ………………………………………………………………...24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 23

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ, môn Công
nghệ lớp 8 trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về Vẽ kĩ thuật, Cơ khí,
Kĩ thuật điện. Trên tinh thần giáo dục tổng hợp và hướng nghiệp, với xu thế tiếp
cận và liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp gắn liền với
cuộc sống lao động sản xuất của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi địa phương cũng
như trên cả nước.
Trong đó, ngành cơ khí luôn là một trong những ngành then chốt đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, nhân loại được chứng kiến nhiều biến
đổi sâu rộng lớn của thế giới, nhất là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mà đặc trưng là các ngành công nghệ
cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới -
công nghệ nano, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không và vũ trụ
đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị quốc
tế, làm thay đổi diện mạo thế giới đương đại. Trong sự phát triển vĩ đại đó,
ngành công nghiệp cơ khí chế tạo đóng vai trò có tính nền tảng và có sự hiện
diện hầu như trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của cộng đồng quốc tế.
Chính vì vậy, xu hướng phát triển khoa học và công nghệ cơ khí chế tạo vẫn
được chú trọng .
Cùng với sự gia tăng của công nghệ hiện đại, máy móc, thiết bị trong
đời sống của mỗi gia đình cũng như trong từng doanh nghiệp sản xuất, vai trò
của nhóm ngành cơ khí theo đó cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn
Ngày 11 tháng 4 năm 2014, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Bộ Công
Thương đã tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
ngành Cơ khí Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự
và chủ trì Hội nghị. Thực hiện Chiến lược này, trong hơn 10 năm qua, ngành
Cơ khí Việt Nam đã có những thay đổi và phát triển, từng bước hội nhập với

ngành Cơ khí thế giới. Các lĩnh vực như: Sản xuất, lắp ráp ô tô; sản xuất xe
máy; chế tạo thiết bị cơ khí thủy công; chế tạo thiết bị cho các nhà máy nhiệt
điện; công nghiệp hỗ trợ... đều có những bước phát triển và đạt kết quả tích
cực. Năm 2012, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành đạt 227.911 tỷ đồng
(tăng 6 lần so với giá trị sản xuất công nghiệp ngành cơ khí đạt được năm
2000); năm 2013, ước đạt 251.185 tỷ đồng. Về xuất nhập khẩu, năm 2012, giá
trị xuất khẩu cơ khí đạt 12,1 tỷ USD; năm 2013 đạt 13,18 tỷ USD. Đến nay,
hệ thống chính sách để phát triển ngành Cơ khí đã được ban hành tương đối
đầy đủ. Nhìn lại 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả
trong phát triển ngành cơ khí. Giá trị của cơ khí chế tạo, xuất khẩu liên tục
tăng; sức cạnh tranh của các sản phẩm cơ khí ở thị trường trong nước và thị
trường xuất khẩu không ngừng được nâng lên.
Bộ giáo dục đã đưa phần Cơ khí vào giảng dạy trong môn Công nghệ ở
trường Trung học cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục Trung học
cơ sở về quy mô, chất lượng, hiệu quả phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, có tiềm lực để không ngừng hoàn thiện trình độ đào tạo
ban đầu, vươn lên đáp ứng những yêu cầu mới. Nhằm hình thành sớm ở học
sinh những kĩ năng cơ bản của ngành cơ khí và giúp các em có thêm định
hướng cho nghề nghiệp sau này.
Thế nhưng nội dung phần cơ khí trong sách giáo khoa Công nghệ 8 còn
khô khan và còn nặng về lí thuyết, thiếu thực hành và kiến thức học chưa
mang lại niềm hứng thú cho học sinh. Bên cạnh đó trang thiết bị giảng dạy
của nhiều trường còn lạc hậu, thiếu thốn, không có phòng thực hành riêng cho
học sinh. Đặc biệt nội dung phần gia công cơ khí thì còn khô khan, nhàm
chán và xa rời thực tế vì học sinh không được tiếp xúc cũng như thực hành.
Mà đi song song với sự phát triển của ngành cơ khí thì vấn đề ô nhiễm
môi trường cũng là vẫn đề nan giải và cần định hướng và giáo dục cho học
sinh càng sớm càng tốt.

Hiện nay kim loại ở dạng phế liệu, phế thải trong nước ta còn hàng
chục vạn tấn nằm rải rác ở khắp các địa phương. Kim loại màu gồm các loại
đồng, chì, nhôm... ở trong động cơ điện, biến thế điện, các chi tiết xe, máy,
tàu thuyền nhẹ, bình ắc quy hỏng, vỏ đạn các loại, xác máy bay. Kim loại đen
ở các loại máy, các loại pháo, xe tăng, tàu, thuyền, cầu cống hư nát, trong đó
có một khối lượng lớn thép không rỉ, hợp kim có độ bền vật liệu cao,v.v...
Các nhà máy sản xuất thép đang ngày đêm thải ra môi trường một
lượng chất thải, phế thải lớn. Các chuyên gia môi trường nhận định, nếu tất cả
các dự án thép được cấp phép và triển khai đúng cam kết thì đến năm 2020,
ngành thép sẽ thải ra 174 triệu tấn CO2 và lúc đó, riêng ngành thép sẽ “giáng”
lên đầu mỗi người dân Việt Nam thêm 1,5 tấn khí CO2”. Theo tính toán, sản
xuất 1 tấn thép sẽ thải ra từ 0,5-1 tấn xỉ, 10.000m3 khí thải, 100kg bụi. Rất
nhiều các chất ô nhiễm như: axit, kiềm, các nguyên tố hợp kim... thải ra môi
trường. Trong các vùng luyện kim, khí quyển bị nhiễm bẩn chiếm tỷ lệ gần
60%. Ngoài nguyên liệu chính là thép phế, sắt xốp, gang thỏi hoặc gang lỏng,
vôi, việc sản xuất thép còn sử dụng năng lượng như than, gas, điện, dầu, oxy,
nước và các chất phụ trợ như hợp kim, điện cực, khí trơ, vật liệu đầm lò. Quá
trình sản xuất thép sinh ra các chất thải khí, rắn và tiếng ồn. Trong một số
trường hợp, nước làm mát không được tuần hoàn tuyệt đối cũng phát thải ra
môi trường.
Các kim loại nặng như Pb, Hg, Cr, Cd, As, Mn,... thường có trong nước
thải công nghiệp. Hầu hết các kim loại nặng đều có độc tính cao đối với con
người và các động vật khác. Chì (Pb): chì có trong nước thải của các cơ sở
sản xuất pin, acqui, luyện kim, hóa dầu. Chì có khả năng tích lũy trong cơ thể,
gây độc thần kinh, gây chết nếu bị nhiễm độc nặng. Chì cũng rất độc đối với
động vật thủy sinh. Các hợp chất chì hữu cơ độc gấp 10 – 100 lần so với chì
vô cơ đối với các loại cá. Thủy ngân (Hg): thủy ngân là kim loại được sử
dụng trong nông nghiệp (thuốc chống nấm) và trong công nghiệp (làm điện
cực). Trong tự nhiên, thủy ngân được đưa vào môi trường từ nguồn khí núi