
1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến ngành Giáo dục thị xã Bình Long
.
Tôi ghi tên dưới đây:
Số
TT
Họ và
tên
Ngày
tháng
năm sinh
Nơi công
tác
Chức
danh
Trình độ
chuyên
môn
Tỷ lệ (%)
đóng góp vào
việc tạo ra
sáng kiến
1 LÊ THỊ
CẢNH 22/8/1970
Trường
TH An
Lộc B, số
4 đường
Hồ Xuân
Hương,
phường
Phú Thịnh,
thị xã Bình
Long.
Giáo
viên
chủ
nhiệm
(lớp 2)
ĐHSP
Tiểu học.
100%
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Biện pháp nâng cao hiệu quả
học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng
kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Đạo đức)
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 09/9/2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1.Tính mới của sáng kiến:
5.1.1. Thực trạng:
Môn Đạo đức là một trong những môn học bắt buộc để giáo dục nhân cách
cho học sinh, nó là môn học cơ bản trang bị cho học sinh các chuẩn mực đạo
đức, lối sống lành mạnh và cách sống có lí tưởng. Từ đó, các em biết cách vận
dụng hành vi, chuẩn mực đạo đức đó vào cuộc sống.
Mục tiêu của môn Đạo đức ở lớp 2 là giúp cho học sinh có những hiểu biết
ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức, pháp luật và thẩm mĩ cơ bản,
phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình,
nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo
những chuẩn mực hành vi đạo đức đó. Nó từng bước hình thành cho học sinh kĩ
năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, lựa

2
chọn và thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức trong những tình huống cụ thể
của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè và người thân cùng thực hiện. Không
những thế, nó còn hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, quý trọng con
người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái chưa
đúng, chưa tốt.
Tôi đã giảng dạy trong ngành giáo dục được 30 năm, trong quá trình giảng
dạy tôi nhận thấy chất lượng học tập và thực hành môn Đạo đức của học sinh
chưa đạt kết quả cao. Một số em có những biểu hiện chưa tốt trong cách ứng xử
với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè; có em chưa vâng lời ông bà, cha mẹ,
thầy cô, anh chị, chưa có ý thức tự quản, bảo vệ cây xanh, giữ gìn vệ sinh chung
cho trường lớp và nơi công cộng,... Những tình trạng ấy vẫn xảy ra ở học sinh
với các mức độ khác nhau. Đặc biệt có những em khi ở trên lớp thì có biểu hiện
ngoan, lễ phép,... nhưng ngược lại về nhà thì lại chưa vâng lời, nói năng chưa lễ
phép với ông bà, cha mẹ, anh chị. Mặt khác, một số phụ huynh do hoàn cảnh gia
đình khó khăn nên chưa quan tâm, giúp đỡ, động viên và khích lệ con em mình
thực hiện những hành vi đạo đức đến nơi đến chốn; chưa tạo được mối liên hệ
giáo dục thường xuyên giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Họ đã “khoán trắng”
việc chăm sóc, giáo dục con em mình cho nhà trường.
5.1.2. Tính mới:
Trong giai đoạn hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho học sinh không phải là
vấn đề đơn giản. Trong xã hội có nhiều phim ảnh, mạng xã hội,... có nội dung
không chuẩn mực với hành vi đạo đức đã tác động không tốt tới các em học
sinh.Tâm lí học sinh Tiểu học thích “bắt chước” nên hành vi đạo đức của các em
có thể thu nhận qua việc giao tiếp, qua tranh ảnh, sách báo, truyện, đài, phim,
kịch,... Nhưng các em chưa biết phân biệt để lựa chọn hành vi đạo đức phù hợp
cho mình mà lại bắt chước cái xấu, trái với chuẩn mực hành vi đạo đức một cách
vô thức. Do đó, đòi hỏi người thầy phải có những phương pháp giáo dục phù
hợp, giúp đỡ học sinh phát triển nhân cách một cách hoàn thiện, tránh cho các
em tiếp xúc với những hành vi tiêu cực, làm sao để cho các em có được lối sống
thích nghi với thời đại. Song cũng cần phải cho học sinh thấy được những nét
đẹp, những truyền thống cao quý của dân tộc. Chính vì điều đó, trong thời gian
qua, tôi đã suy nghĩ để tìm ra biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và thực
hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2.
Khi nhìn nhận thấy học sinh bị lệch chuẩn hành vi đạo đức, tôi tìm hiểu về
hoàn cảnh gia đình của các em, các yếu tố dẫn đến hành vi lệch chuẩn đó; tôi
đến từng nhà của học sinh để tìm hiểu thêm nguyên nhân tác động đến các em,
thường xuyên trao đổi với gia đình của học sinh để nắm bắt tình hình của các em
khi ở nhà. Bằng tình yêu thương thực sự của mình, tôi luôn gần gũi chia sẻ,
thông cảm, động viên, giúp đỡ, giáo dục các em.
Khi giảng dạy, tôi luôn tìm các phương pháp phù hợp lồng ghép lại với
nhau để giáo dục các em một cách hoàn mĩ nhất.
Tâm lí học sinh Tiểu học thường thích bắt chước nên tôi thường xuyên lên
Internet sưu tầm các tranh ảnh, clip,... có nội dung giáo dục lành mạnh phù hợp

3
với nội dung bài giảng cũng như các hoạt động ngoại khóa để lồng ghép giáo
dục các em.
Năm học 2020-2021, tổng số học sinh lớp tôi chủ nhiệm là 36 em, qua giao
tiếp, khảo sát đầu năm học (chưa áp dụng biện pháp của sáng kiến) học sinh
hoàn thành tốt 10 em, đạt tỉ lệ 27,8 %, học sinh hoàn thành 26 em, đạt tỉ lệ
72,2%; đến cuối học kỳ I (đã áp dụng biện pháp của sáng kiến) học sinh hoàn
thành tốt 22 em, đạt tỉ lệ 61,1 %, học sinh hoàn thành 14 em, đạt tỉ lệ 38,9 %.
5.2. Nội dung sáng kiến:
5.2.1. Biện pháp nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho
học sinh lớp 2.
Để nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2,
tôi đã thực hiện biện pháp sau:
- Linh động chọn phương pháp dạy sao cho phù hợp với nội dung từng bài.
- Tìm hiểu tâm lí, nhận thức của học sinh.
- Lựa chọn, sử dụng triệt để, hiệu quả đồ dùng dạy học.
- Thông qua các môn học khác để dạy đạo đức cho học sinh.
- Xây dựng các kiến thức chuẩn mực và hành vi đạo đức tốt cho học sinh
dựa vào các hoạt động ngoại khoá.
- Kết hợp với các môi trường giáo dục để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho học sinh.
5.2.2. Tổ chức thực hiện các biện pháp.
5.2.2.1. Linh động chọn phương pháp dạy sao cho phù hợp với nội dung
từng bài.
Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng. Do vậy, khi giảng
dạy, tôi đã lựa chọn kết hợp giữa các phương pháp cho phù hợp với đặc trưng
của môn học. Khi lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học môn Đạo đức,
tôi căn cứ vào: Mục tiêu bài giảng; Đặc điểm của học sinh; Điều kiện thực tế.
Mỗi phương pháp cần phải sử dụng đúng thời điểm của tiết dạy.
Ví dụ: Khi dạy bài 11 "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" (tiết 1)
+ Hoạt động 1: Quan sát mẫu hành vi.
Bước 1: Cho học sinh đóng vai diễn lại kịch bản có mẫu hành vi đã
chuẩn bị.
Bước 2: Yêu cầu học sinh đàm thoại để nhận xét về cuộc nói chuyện
điện thoại vừa xem.
+ Hoạt động 2: Thảo luận nhóm:
Bước 1: Học sinh được thảo luận ghi việc nên làm và không nên làm
khi gọi điện thoại.
Bước 2: Học sinh trình bày nội dung được thảo luận.
+ Hoạt động 3: Liên hệ thực tế:
Trong hoạt động này học sinh được luyện tập theo mẫu hành vi chuẩn.
Hay là khi dạy Bài 2 “Biết nhận lỗi và sửa lỗi”
Các phương pháp cần xác định là: kể chuyện, nêu gương, thảo luận
nhóm, động não, tập luyện theo mẫu hành vi, đóng vai, tổ chức trò chơi. Phương
pháp kể chuyện được sử dụng trong hoạt động 1- Tiết 1. Tôi kể chuyện Cái bình

4
hoa với kết thúc mở. Sau đó chia nhóm, giao việc để các nhóm thảo luận và trả
lời câu hỏi phân tích truyện xác định ý nghĩa của hành vi nhận lỗi và sửa lỗi.
Sang hoạt động 2, tôi tiếp tục giao việc cho các nhóm thảo luận và bày tỏ ý kiến,
thái độ của mình về những hành vi đúng, chưa đúng. Ở tiết 2 - Trong hoạt động
1, học sinh được đóng vai theo tình huống, các em lựa chọn và thực hiện hành vi
nhận lỗi và sửa lỗi. Chuyển sang hoạt động 2, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi Ghép đôi - Qua trò chơi, học sinh biết cách ứng xử các tình huống nhận lỗi
và sửa lỗi.
5.2.2.2. Tìm hiểu tâm lí, nhận thức của học sinh.
Tìm hiểu chung về nhận thức, tâm lí của học sinh để định hướng các biện
pháp giáo dục đạo đức là yêu cầu cần thiết đối với người thầy. Điều này sẽ giúp
các thầy cô giáo hiểu rõ học sinh: Các em nghĩ gì? yêu gì? chưa yêu gì? Các em
nghĩ đúng hay chưa đúng? Qua đó mà tìm ra cách định hướng khi truyền đạt nội
dung giáo dục, thông tin giảng dạy sẽ đến với mỗi em một cách dễ dàng, phù
hợp, đi sâu vào nhận thức của học sinh.
Vì học sinh Tiểu học rất thích khen, nên tôi nắm bắt được tâm lí này của
các em để kịp thời động viên, khích lệ học sinh học tập, rèn luyện.
Trẻ em thường hay nói thật, nói những gì mà các em nghĩ, đây là ưu điểm
của học sinh chúng ta. Nếu chúng ta biết cách khai thác sẽ đem lại hiệu quả giáo
dục tích cực. Vì vậy, tôi đã đặt những câu hỏi mang tính khơi gợi, tạo sự hứng
thú cho các em hăng hái nói nhiều hơn, thật thà hơn, giúp các em chủ động hơn
trong mỗi tiết học. Tôi chỉ là người tổ chức, hướng dẫn học sinh mỗi câu trả lời
nhằm khuyến khích những suy nghĩ đúng đắn và sớm giải thích, bác bỏ những
tư tưởng lệch lạc nơi các em. Cách làm này giúp cho bài học đạo đức thực sự
khắc sâu hơn, mỗi câu trả lời hồn nhiên của các em trong các tiết học sẽ góp
phần nhận thức bài học cuộc sống cho mình.
Trong các tiết học, tôi luôn tạo không khí thoải mái gần gũi với học sinh,
làm cho các em tự tin biểu lộ những suy nghĩ trong sáng, thật thà của mình:
“Bây giờ cô trò mình sẽ tâm sự cùng nhau nhé!”
Ví dụ: Trong bài “Quan tâm, giúp đỡ bạn”
Tôi nói: “Cô biết trong lớp mình có rất nhiều em đã quan tâm, giúp đỡ
bạn, em nào xung phong kể lại cho cô và các bạn cùng nghe.” Có nhiều em kể
trước lớp những việc làm quan tâm, giúp đỡ bạn. Tôi đề nghị cả lớp tuyên
dương những bạn đã làm được việc tốt đó.
Đối với công việc này, tôi kiên trì, nhẫn nại, vì thông thường các em rất ít
nói ra những cảm nhận sâu kín của mình, bởi lẽ chưa tìm được sự tin cậy, chia
sẻ ân cần của thầy cô. Cho nên, để thuyết phục được các em tạo nên sự tin cậy là
cả một quá trình. Hơn thế nữa, khi nhận được những lời tâm sự thật lòng của các
em tôi đáp lại sự tin cậy ấy bằng cách cởi bỏ những thắc mắc của các em, thuyết
phục các em đến với cái tốt một cách tự nhiên, trong sáng. Như vậy, lâu ngày
các em sẽ xem cô giáo như là người mẹ tin cậy biết lắng nghe và giúp các em
giải quyết những khó khăn, thắc mắc trong cuộc sống.
5.2.2.3. Lựa chọn, sử dụng triệt để, hiệu quả đồ dùng dạy học.

5
Để thực hiện đổi mới phương pháp, việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất
quan trọng. Đồ dùng dạy học có tầm quan trọng trong sự thành công của một tiết
dạy. Vì vậy, trước mỗi tiết dạy tôi đã chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho
tiết dạy của mình. Mỗi khi thiết kế bài học tôi đã căn cứ vào mục tiêu, nội dung
tính chất, hình thức của bài học để lựa chọn thiết bị dạy học cho phù hợp, dễ sử
dụng.
Hiện nay, trang thiết bị và đồ dùng dạy học môn Đạo đức còn hạn chế về
tranh ảnh nên tôi đã tích cực sưu tầm thêm các tranh ảnh và những nội dung
giảng dạy khác trên Internet để phục vụ cho công tác giảng dạy tốt. Ngoài ra, tôi
sử dụng các đồ dùng tự làm chuẩn bị trước mỗi tiết học và những đồ dùng cần
thiết cho từng hoạt động của từng bài. Ví dụ: Khi dạy bài 11 “Lịch sự khi nhận
và gọi điện thoại ” tôi chuẩn bị một số đồ dùng như: Bộ đồ chơi điện thoại hoặc
là điện thoại thật loại để bàn sử dụng trong tiểu phẩm ở hoạt động 1 - Tiết 1.
Cuối tiết dạy phần củng cố, tôi giới thiệu đến học sinh một clip ngắn nói về cuộc
nhận và gọi điện thoại.
5.2.2.4. Thông qua các môn học khác để dạy đạo đức cho học sinh.
Dạy môn Đạo đức thông qua các môn học khác là hình thức giáo dục rất
quan trọng. Dạy đạo đức cho học sinh không chỉ bó hẹp ở một môn học Đạo đức
mà có thể nói rằng dạy đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi và tất cả các môn học.
Ví dụ: Trong dạy môn Tự nhiên và Xã hội, học sinh được nhận biết các
loài vật sống dưới nước, trên cạn và nêu được ích lợi của chúng. Khi học đạo
đức bài 14: “Bảo vệ loài vật có ích” học sinh sẽ tiếp thu và có hành vi bảo vệ
loài vật có ích một cách nhanh hơn, tốt hơn.
5.2.2.5. Xây dựng các kiến thức chuẩn mực và hành vi đạo đức tốt cho học
sinh dựa vào các hoạt động ngoại khoá.
Trước khi cho học sinh tham gia chào cờ hoặc sinh hoạt ngoại khóa, tôi đều
dặn các em phải tập trung quan sát, lắng nghe tiếp thu các hành vi chuẩn mực
đạo đức.
Ví dụ: Thông qua các tổ chức Đoàn - Đội, các buổi sinh hoạt Đội, sinh
hoạt Sao nhi đồng, thông qua các buổi chào cờ dạy cho các em những tấm
gương tốt ở trường, ở lớp, đồng thời cũng nhắc nhở những em chưa thật sự cố
gắng. Từ đó kích thích tinh thần phấn đấu vươn lên trong học tập, lao động, rèn
luyện đạo đức của các em. Điển hình như các phong trào: “Nuôi heo đất tình
thương”, “Mua tăm ủng hộ người mù”, “Cây mùa xuân cho bạn”, “Áo trắng tặng
bạn”, “Kế hoạch nhỏ”, … giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, ý
thức tiết kiệm để làm những việc có ích. Ngoài ra, các cuộc giao lưu như: Kể
chuyện đạo đức; Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11,
phong trào “Nghĩa tình biên giới”,… giáo dục cho học sinh tinh thần: “Uống
nước nhớ nguồn”, “Tôn sư trọng đạo”.
5.2.2.6. Kết hợp với các môi trường giáo dục để nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi luôn kết hợp chặt
chẽ với các lực lượng giáo dục. Cùng với nhà trường, gia đình cũng góp phần
quan trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Vì thế, tôi đã có sự