
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
Tiếng Việt của người Việt là một kho báu.Con người dần tìm hiểu,nghiên
cứu chiếm lĩnh kho báu ấy qua từng giai đoạn, từng thời kỳ và qua từng lứa
tuổi.Đối với học sinh tiểu học, tìm hiểu, nghiên cứu Tiếng Việt dành cho các em,
bước đầu có phần nhẹ nhàng, đơn giản, nhưng điều đơn giản đây không phải là “
bình thường” hay “ không quan trọng” mà là một bàn đạp, một nền tản để các em
thâm nhập vào toàn bộ Tiếng Việt nắm hiểu và sử dụng Tiếng Việt như sử dụng
kho báu để đạt hiệu quả cao.Dạy Tiếng Việt ở bậc tiếu học nói chung và lớp 4 nói
riêng, ta cần phải nắm rõ nhiệm vụ của từng phân môn. Trong bộ môn Tiếng Việt
có rất nhiều phân môn: Tập đọc; Luyện từ và câu; Kể chuyện; Tập làm văn.Trong
số các phân môn đó thì tập làm văn có vị trí rất lớn trong chương trình Tiếng Viêt,
góp phần hệ thống lại kiến thức tiếng mẹ đẻ cho học sinh, làm phong phú tâm hồn
các em, góp phần tích lũy được vốn sống bằng những hiểu biết và cảm xúc của bản
thân thông qua hoạt động quan sát hằng ngày trong cuộc sống.Cần quan sát thường
xuyên và quan sát bằng nhiều giác quan, đó là yêu cầu quan trọng để có vốn sống
phong phú, có cái nhìn về thế giới xung quanh tinh tế hơn, nhạy cảm hơn, phù hợp
với tâm lí lứa tuổi ngây thơ,hồn nhiên giàu cảm xúc.Ở lớp 4 chương trình Tập làm
văn có rất nhiều thể loại. Đối với thể loại văn miêu tả là một thể loại gắn liền nhiều
nhất với hoạt động quan sát, qua miêu tả về vật, về phong cảnh và nhất là tả người,
sẽ thể hiện tình cảm chân thật, bộc lộ cá tính năng lực, ngôn ngữ và khả năng cảm
thụ sáng tạo cho mỗi học sinh.Để giúp các em đạt được điều này, tôi xin giới thiệu
đề tài : “CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 VIẾT VĂN MIÊU TẢ ĐẠT
KẾT QUẢ CAO.”
- Thế giới phong phú không chỉ bởi tự bản thân nó, mà còn bởi những cách
nhìn nhận và tái hiện của mỗi con người...Hiểu biết, nhận xét và cảm thụ sâu sắc
về thực tế cuộc sống.Đây chính là điều kiện quan trọng để học tập làm văn.
- Các em khám phá thế giới xung quanh bằng con mắt bỡ ngỡ kì thú, trong
sáng,trìu mến và đầy cảm xúc. Những bức tranh miêu tả thiên nhiên và con người
của các em thường êm dịu, hài hòa, sâu lắng và thơ mộng. Các em hết sức mẫn
cảm với cái đẹp tinh tế và tâm hồn luôn luôn rộng mở.
- Thể hiện qua văn miêu tả của trẻ em là những góc nhìn và cảm nhận lung
linh biến hóa không dứt.Đọc văn miêu tả của các em ta sẽ có cảm giác rất thú vị.Ở
đó ta sẽ gặp những bất ngờ ngay trong những gì ta tưởng như đã quá quen thuộc.

2
- Quan sát cảm nhận thế giới xung quanh rồi dùng phương tiện ngôn ngữ
nói, viết để tái hiện lại cả một quá trình tư duy. Với cách nhìn riêng, sự lựa chọn
riêng và một bản sắc cảm xúc riêng. Mỗi bài văn miêu tả phần nào có thể xem đó
là sáng tác thể hiện trí thông minh, khả năng cảm thụ cái đẹp và nhu cầu tạo ra cái
đẹp trong bản thân mỗi học sinh.
- Thực tế học sinh lớp tôi: Ngay từ đầu năm học, tôi đã nhận thấy khả năng cảm
thụ văn học của các em chưa cao. Hầu hết khi làm văn, các em chỉ làm đúng chứ
chưa hay,các câu văn viết chưa có hình ảnh, chưa sinh động, vốn từ còn nghèo.Qua
tìm hiểu tôi thấy những học sinh, nhất là những em khá, giỏi muốn làm văn tốt
song ở các em còn lúng túng rất nhiều trong vấn đề này.
- Khả năng quan sát tích lũy vốn từ các em chưa cao.
- Nếu cứ với cách dạy môn tập làm văn theo như hướng dẫn của sách giáo
viên, thì học sinh vẫn chưa đạt được khả năng viết văn tốt, nhất là đối với những
học sinh khá, giỏi ( theo thực trạng chất lượng phân môn tập làm văn của lớp ).
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
Trong cuộc sống, giao tiếp là hình thức cơ bản để con người phát triển
tư duy và hình thành nhân cách.Đối với học sinh vùng nông thôn như lớp tôi, điều
kiện để các em phát triển đa chiều các mối quan hệ giao tiếp không được mở rộng
như ở thành thị, chưa nhạy bén trong va chạm, vốn sống các em chưa thật phong
phú. Vốn từ hạn chế.
Một số gia đình chưa thực sự quan tâm nhiều đến việc học của con em .
Óc khái quát chưa cao, thường chú trọng đi sâu vào những chi tiết cụ thể,
các em thiếu khả năng tổng hợp vấn đề.
Sự nhận biết các biện pháp tu từ trong các bài thơ, đoạn văn còn mơ hồ chưa
chính xác,việc sử dụng các biện pháp tu từ vào làm văn rất ít, bài văn viết ý còn
khô khan, nghèo nàn,...
Trẻ rất giàu khả năng sáng tạo, trong tư duy của mỗi em đều có những sở
trường riêng. Ở độ tuổi học lớp 4, trẻ em thích tỏ ra mình là người lớn và say mê
nghệ thuật, ham học hỏi,ham hiểu biết. Luôn hồn nhiên ngây thơ, trong sáng.Trẻ
em thường thể hiện nét ngộ nghĩnh và cảm nhận thế giới xung quanh theo cách
riêng với trí tưởng tượng phong phú.

3
Trẻ được sự chăm sóc tốt của gia đình, được giáo dục trong môi trường lành
mạnh, trong xã hội phát triển, tiến bộ.Học sinh có động cơ học tập đúng đắn và
muốn tìm tòi thế giới muôn màu , muôn vẻ xung quanh ta.
*Nguyên nhân:
Đối với trường tiểu học , đặc biệt là các trường vùng nông thôn, đa số các
em gặp nhiều khó khăn trong việc học tập.Nhất là bộ môn tập làm văn, luyện từ và
câu.Ở trình độ các em thì khi nói, viết câu còn cứng nhắc, cấu trúc câu còn rập
khuôn,chưa thể hiện sự sáng tạo, chưa nắm bắt và sử dụng các biện pháp tu từ khi
viết văn nên dẫn đến câu văn còn khô khan, ý còn nghèo, bài văn diễn đạt chưa
sinh động. Một phần do tài liệu sách báo tham khảo dành cho các em còn hạn chế,
môi trường học hỏi còn đóng khung.
Trong chương trình tập làm văn lớp 4, văn miêu tả chiếm gần 50% thời
lượng của cả chương trình,. Điều này cho thấy văn miêu tả chiếm vị trí rất quan
trọng trong phân môn tập làm văn.Xuất phát từ những thực trạng và lí do như đã
nêu, nên tôi chọn và nghiên cứu đề tài này.
*. Giới hạn nghiên cứu đề tài:
-Học sinh lớp 4D, trường tiểu học Giao Châu.
-Bộ môn Tiếng Việt cùng một số môn học khác trong chương trình lớp 4.
2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1*Tổ chức học sinh quan sát, tìm ý đối tượng miêu tả và xây dựng đoạn văn
cho học sinh:
Quan sát đa chiều và chính xác về đối tượng miêu tả theo yêu cầu là tìm
được những chi tiết miêu tả tiêu biểu không để lẫn nó với đối tượng khác.Quan sát
đầy đủ toàn diện bản chất của đối tượng và quan trọng là để nắm được cái sắc sảo
riêng, cái dáng vẻ đặc biệt của người của vật của phong cảnh được nói đến.
Để quan sát có chất lượng, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát theo
trình tự nhất định ( chung -riêng, trong ra ngoài, xa-gần và ngược lại.). Quan sát
bằng nhiều giác quan rồi ghi chép lại bằng những chi tiết đặc sắc theo phần gợi ý
sách giáo khoa, nhờ đó mà bài văn của các em trở nên sinh động, mới mẻ hơn.
Ví dụ: Đối tượng miêu tả là một đồ chơi mà em thích
Giáo viên có thể cho học sinh ở nhà ghi chép ý quan sát hoăc học sinh mang
đồ chơi mà mình thích đến lớp để quan sát và ghi những chi tiết quan sát được

4
( mắt, mũi, tay, chân, thân hình...) vào giấy, sau đó sắp xếp các ý để tạo thành một
dàn ý.Chẳng hạn dàn ý tả một chú gấu bông như sau:
1.Mở bài: Giới thiệu đồ chơi mà em thích nhất-là chú gấu bông.
2.Thân bài: Hình dáng bên ngoài:Gấu bông không to, gấu đang ngồi, dáng
tròn.
-Bộ lông màu trắng mịn như bông.
-Hai mắt: đen láy
-Trên cổ thắt một cái nơ màu đỏ chói.
-Tay chân đang đưa về phía trước như đang tập thể dục
3.Kết luận :Em yêu gấu bông, ôm gấu bông em rất thích.
Từ dàn bài này, HS tham khảo và sẽ viết được bài văn tả chú gấu bông.
* Hay đối tượng miêu tả là một cây có bóng mát.
Giáo viên dặn học sinh về nhà quan sát cây có bóng mát. Đến lớp ,GV tổ
chức cho các nhóm học tập học ngoài trời-Các em tùy chon một cây có bóng mát
và quan sát ( nhóm trưởng hướng dẫn các bạn quan sát ). Các em vừa quan sát,
thảo luận, đưa ra ý kiến, đúc kết những ý kiến hay (mỗi em có ghi chép đầy đủ các
chi tiết quan sát).Kiểm tra xem :-Trình tự quan sát của em có hợp lí không?
-Em đã quan sát bằng những giác quan nào?
- Cây em quan sát có gì khác với những cây cùng loài?

5
Sau khi quan sát xong, các em sắp xếp các chi tiết đã được quan sát thành một dàn
ý.
Ví dụ: Dàn bài tả cây phượng vĩ trước sân trường em.
1.Mở bài: Giới thiệu cây muốn tả: Cây phượng ở trước sân trường em.
2. Thân bài: Tả bao quát: Cây đứng sừng sững như chiếc ô khổng lồ.
Tả từng bộ phận:
+ Gốc: to, rễ trồi lên mặt đất.
+ Thân: Ôm kín vòng tay, màu nâu, hơi sần sùi
+ Tán lá: Xòe rộng che rợp góc sân, lá nhỏ, xếp đều nhau.
+ Hoa : đỏ rực, cánh hoa như cánh bướm.
3.Kết luận: Cảm nhận của em về cây phượng: Phượng gắn liền với em
suốt một thời học sinh, phượng làm đẹp thành phố, làm đẹp sân trường. Em rất yêu
phượng.
* Trong những trường hợp, giáo viên không thể tổ chức học sinh quan sát
trực tiếp bằng vật thật, bằng sự tham quan trực tiêp, thì ngoài việc dặn học sinh về

