
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến ngành Giáo dục thị xã Bình Long
Tôi ghi tên dưới đây:
Số
TT
Họ và tên
Ngày
tháng
năm sinh
Nơi công
tác (hoặc
nơi
thường
trú)
Chức
danh
Trình độ
chuyên
môn
Tỷ lệ
(%)
đóng
góp vào
việc tạo
ra sáng
kiến
(ghi rõ
đối với
từng
đồng tác
giả, nếu
có)
1
NGUYỄN
HOÀNG
MỸ
30/12/1974
Trường
Tiểu học
An Lộc A
Giáo
viên dạy
lớp
Bốn/1
ĐHSP
Tiểu học 100%
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến : “Phương pháp giúp học
sinh yêu thích môn Khoa học lớp 4.”
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư sáng kiến.
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy - học môn khoa học lớp 4
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 20 /4/ 2020

2
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1 Tính mới của sáng kiến:
Như chúng ta đã biết, đối tượng HS lớp Bốn là những học sinh 10 tuổi, độ
tuổi mà ngày xưa ông bà ta thường nói “ Ăn chưa no, lo chưa tới”. Tâm lí của
các em cũng rất đặc biệt: Nhận thức thường là cảm tính, lí tính chưa thực sự phát
triển. Tư duy trực quan chiếm ưu thế. Năng lực tập trung không lưu.Trí nhớ theo
kiểu máy móc tốt. Đặc biệt là những biểu hiện tâm lí của các em dễ bị dao động
theo tác động của môi trường sống.
Các em rất thích tìm hiểu về khoa học và có một lượng tri thức khoa học
nhất định về nhiều lĩnh vực tuy chưa có hệ thống. Các em rất thích đọc các loại
sách về khoa học, thích làm thí nghiệm dù các hiện tượng khoa học đó các em
đã gặp trong đời sống nhưng tôi biết các em hứng thú vì các em đã hiểu được
“Vì sao?” và gọi đúng tên khoa học của nó. Đó là ham thích khám phá khoa học.
Hiện tại, để có thể đáp ứng được những ham thích của các em, tôi đã thực hiện
một số hoạt động trên lớp về bộ môn này. Thực sự các em cũng chính là nguồn
cảm hứng để tôi có thể chọn lựa hoặc thay đổi phương pháp, linh hoạt trong
từng điều kiện và hoàn cảnh cũng như nội dung bài dạy. Mối quan hệ thầy và trò
đã là niềm say mê của tôi trong việc hướng dẫn các em tìm tòi, khám phá các tri
thức khoa học.
Hiểu được sự cần thiết của khoa học trong đời sống và đặc điểm tâm lí của
học sinh tiểu học, để thực hiện tốt những giờ Khoa học có hiệu qủa tôi đã nghiên
cứu và viết ra đề tài: “Phương pháp giúp học sinh yêu thích môn Khoa học
lớp 4.” Tính mới của sáng kiến do tôi thực hiện đã khắc phục được nhược điểm
học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động do giáo viên truyền đạt có sẵn
trong sách giáo khoa. Áp dụng giải pháp này tạo cho học sinh chủ động sáng
tạo, lĩnh hội tri thức mới, ham học hỏi, ham nghiên cứu khoa học giúp các em
tự tin khắc sâu kiến thức.Vật làm thí nghiệm đơn giản dễ làm gắn liền với đời
sống thực của các em.
5.2 Nội dung sáng kiến:
a. Khai thác vốn hiểu biết của học sinh trước khi truyền đạt kiến
thức mới.
Mỗi em học sinh từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên, ít nhiều các em cũng đã
tiếp cận với những vấn đề khoa học. Kiến thức khoa học đã tiềm ẩn trong các
em. Vậy người thầy làm thế nào để có thể khơi gợi những năng lực tiềm ẩn ấy ở
các em? Khơi gợi như thế nào để hiệu quả nhất, phù hợp nhất? Để lí giải câu hỏi

3
này đòi hỏi người thầy phải có định hướng trước khi tổ chức các hoạt động học
tập. Một số biện pháp nhằm khơi gợi khả năng của các em như:
Giáo viên nêu một hiện tượng có trong đời sống hàng ngày mà các em đã
từng gặp để các em suy đoán, trả lời. Từ đó, người thầy sẽ dắt các em đi tiếp
cuộc hành trình cho đến khi phát hiện chân lí của vấn đề.
Ví dụ: Mở đầu bài “ Không khí cần cho sự sống” , giáo viên nêu câu hỏi:
“Nếu lấy tay bịt mũi và ngậm miệng lại, em cảm thấy thế nào?” Học sinh sẽ có
nhiều cách trả lời như:
- Ngạt thở
- Khó chịu
- Tức ngực
Tiếp đó giáo viên yêu cầu học sinh giải thích hiện tượng ấy bằng những
điều đã biết trong thực tế, các em sẽ giải thích theo kiểu của mình… Lúc ấy các
em đã chủ động bước vào bài học mới.
Giáo viên nêu kết luận sai về một hiện tượng liên quan đến bài cần dạy,
bằng vốn hiểu biết của mình, các em sẽ lý giải để phủ định ý đó.
Ví dụ: Dạy bài “ Nước có tính chất gì?, giáo viên yêu cầu học sinh :
Quan sát vật thật theo nhóm để rút ra tính chất không màu, không mùi,
không vị của nước.
Làm thí nghiệm chứng minh nước không có hình dạng nhất định: chảy
lan ra mọi phía, chảy từ cao xuống thấp, thấm qua một số vật và hòa tan
một số chất.
Học sinh còn được thảo luận các câu hỏi gợi ý các em tìm tòi , phát hiện
ra cách tiến hành thí nghiệm chứ không đơn thuần làm thí nghiệm một
cách máy móc theo yêu cầu của GV. Ví dụ:
+ Làm thế nào để biết được một vật cho nước thấm qua hoặc không?
+ Làm thế nào để biết được một chất có hòa tan hay không hòa tan
trong nước?
Việc phối hợp nhiều PPDH như trên đã làm cho các hoạt động của HS đa
dạng, phong phú, lôi cuốn mọi học sinh cùng tích cực tham gia.
Ví dụ: Dạy bài “Ánh sáng cần cho sự sống”, giáo viên nêu: “Có một ý kiến cho
rằng ánh sáng không cần thiết đối với người bị mù bẩm sinh.” Theo em điều đó
đúng hay sai? Vì sao?

4
- Học sinh sẽ có các đáp án cho câu hỏi này tuỳ theo khía cạnh các em xét.
Chắc chắn sẽ có em biết liên hệ với bài học hôm trước để có thể cho rằng ý kiến
ấy sai… Giáo viên sẽ tuỳ theo tình huống mà dẫn dắt nhận định vấn đề cho đúng
đắn.
b. Kích thích tư duy quan sát, kĩ năng sáng tạo của học sinh khi thực
hiện các thao tác.
* Đây là mục tiêu giáo viên đặt ra khi tổ chức hoạt động thực hành, thí
nghiệm. Những thao tác các em thường làm như: sưu tầm mẫu vật và trình bày,
thực hành thí nghiệm và ghi lại các nhận xét trên phiếu của nhóm rồi trình bày,
làm đồ dùng thí nghiệm đơn giản… Trong tác phẩm “ Bàn tay nặn bột”của
Geoger Charpak, ông đã viết: “Thao tác là để hiểu biết”. Vâng, chỉ có thao tác
mới làm tăng sức thuyết phục các em khi tiếp thu kiến thức. Để đạt hiệu quả cao
trong thao tác, các em không chỉ thực hiện mà còn phải ghi nhận lại tất cả những
điều quan sát được khi thao tác, nhận xét và kết luận. Một số biện pháp cụ thể
tôi đã thực hiện để đạt mục tiêu này đó là tổ chức cho các em:
- Thao tác trong nhóm: Đối với các thí nghiệm phức tạp như bài “Không khí
cần cho sự cháy”; “Tại sao có gió?”; “Không khí gồm những thành thành phần
nào?”
- Thao tác cá nhân: Đối với các thí nghiệm đơn giản như bài “Nóng, lạnh và
nhiệt độ”; “Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt”; “Bóng tối”; “Ánh sáng”
- Giáo viên chỉ nêu hiện tượng, không định hướng kết quả mà chỉ yêu cầu
học sinh tự nghĩ ra một thí nghiệm nhỏ để tìm ra vật liệu rồi từ đó đối chiếu kết
quả. Các em sẽ có cuộc tranh luận nho nhỏ để khám phá.
Ví dụ: Dạy bài “Ba thể của nước”, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh nêu “Làm
sao để nhận biết nước có thể chuyển từ thể này sang thể khác? Làm điều đó với
những vật liệu nào?” Học sinh trình bày rất tự nhiên và hợp lí.
*Sự hiểu biết về thế giới xung quanh không thể đến với các em như một trò
ảo thuật mà phải để nó đến bằng chính những điều các em khám phá được. Phải
giúp các em xây dựng kiến thức từ phát minh của mình qua các thao tác. Để
giúp cho các em có thể thao tác được, bản thân người thầy phải tạo cho các em
một môi trường thuận lợi và chuẩn bị những điều có thể khích lệ các em. Người
thầy luôn đứng ở vị trí hướng dẫn tận tình, không bỏ mặc các em trong hoàn
cảnh ấy và theo hướng xác định với hệ thống câu hỏi dẫn dắt như: “Em sẽ làm gì
đây? Điều gì sẽ xảy ra? Tại sao làm như thế? Còn cách nào khác nữa không?
Em có đồng ý không? Theo em, giải thích như vậy đã hợp lý chưa?...”

5
c. Tận dụng thực tế xung quanh khi tìm hiểu bài.
*Việc tận dụng thực tế xung quanh cũng là một điều hết sức cần thiết để
dạy – học. Nhờ đó mà kiến thức của các em không tách rời thực tế mà nó có
được từ thực tế khách quan sinh động, từ trong nhịp sống hằng ngày của con
người, từ trong những điều con người phải làm để tồn tại.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh?” Giáo viên yêu cầu học
sinh trả lời cá nhân các câu hỏi:
+ Nêu cảm giác của em lúc khoẻ.
+ Em đã từng mắc bênh gì? Khi bị bệnh đó, em cảm thấy trong người như
thế nào?
+ Em đã làm gì khi bị bệnh?
d. Hệ thống kiến thức.
* Từ trước đến giờ, điều mà học sinh Tiểu học sợ nhất là học thuộc lòng
những con chữ khô khan trong sách giáo khoa như một con vẹt và rất ít học sinh
có thể nhớ nằm lòng các kiến thức cần ghi nhớ trong quyển sách Khoa học. Đó
là điều mà tôi luôn băn khoăn cứ sau khi học sinh học xong một chương hay
trước khi các em kiểm tra học kì. Sau một số năm thực nghiệm với những đối
tượng khác nhau và nhiều cách khác nhau, tôi đã dùng một số biện pháp cụ thể
sau:
- Dùng sơ đồ để hệ thống kiến thức sau mỗi bài dạy. Người sáng tạo sơ đồ có
thể là giáo viên hoặc học sinh.
- Học sinh dựa vào sơ đồ để trình bày lại những kiến thức cần ghi nhớ.
- Dùng sơ đồ câm, bài tập trắc nghiệm dưới nhiều hình thức để kiểm tra kiến
thức.
- Hệ thống cả chương bằng sơ đồ hay biểu bảng.
* Muốn các biện pháp trên đạt hiệu quả, bản thân người thầy phải nắm thật
vững hệ thống kiến thức và các mối liên quan giữa một chuỗi các sự vật hiện
tượng để kết nối bằng sơ đồ, dẫn dắt học sinh đi từng bước để xây dựng và hoàn
tất sơ đồ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Không khí cần cho sự cháy” Giáo viên chỉ cần ghi bảng như
sau:
* Vai trò của ôxi với sự cháy:
- Khí ôxi sự cháy