
Ngụy Thị Hường THTT Tân An
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến.
Với chủ đề năm học 2020-2021:“Giữ vững Kỷ cương - Nền nếp; Chủ động -
Sáng tạo; Chất lượng - Hiệu quả”. Đồng thời tiếp tục đổi mới phương pháp dạy
học, sử dụng các kỹ thuật dạy học theo hướng dẫn chuyên môn của các cấp để phát
triển năng lực và phẩm chất của học sinh.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, các thầy cô ngành giáo dục nói chung và
bản thân tôi nói riêng đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi vận dụng các phương
pháp giáo dục mới, hiệu quả để đổi mới. Mục đích của việc đổi mới phương pháp
dạy học là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương
pháp dạy học tích cực”, với các kĩ thuật dạy- học tích cực nhằm giúp học sinh phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự
học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác
nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú học tập. Làm cho
học là quá trình kiến tạo, học sinh tự tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai
thác và sử lí thông tin, tự hình thành tri thức, có năng lực và phẩm chất của con
người mới: tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống. Hơn nữa trên thực tế, trong
nhiều năm qua từ một số cuộc thi “quốc tế” cho thấy học sinh của chúng ta luôn
xuất sắc trong kiến thức về lý thuyết nhưng lại kém hơn trong thực hành. Trong xu
thế hội nhập quốc tế, nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ đòi hỏi con người ngày
càng toàn diện hơn. Không chỉ xuất sắc về Kiến thức mà còn phải giỏi về Năng
lực.
Để đáp ứng được những yêu cầu trên thì không thể không kể đến phương
pháp “Bàn tay nặn bột”. Đây không phải là phương pháp mới được vận dụng vào
năm học 2020-2021, mà là một phương pháp đã được vận dụng vào dạy học trong
những năm học gần đây. Nhưng đây luôn là một phương pháp dạy học tích cực,
thích hợp cho việc giảng dạy kiến thức khoa học, tự nhiên và xã hội. Thật vậy
phương pháp “Bàn tay nặn bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học
sinh bằng các thí nghiệm, hiểu biết, tìm tòi, nghiên cứu để chính các em tìm ra câu
trả lời cho các vấn đề đặt ra trong cuộc sống thông qua các tiết học, qua quá trình
làm thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu. Với một vấn đề khoa học đặt ra, học
sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành
các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông
qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Cũng như các phương pháp
dạy học tích cực khác phương pháp “Bàn tay nặn bột” luôn coi học sinh là trung
tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội
kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Mục tiêu của phương pháp “Bàn tay nặn
bột” là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học
sinh. tự nhiên, giúp các em tiếp cận với thế giới xung quanh một cách tự nhiên, gần
gũi thông qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu tìm tòi.
Các em tự rút ra kiến thức cho riêng mình mình. Qua sự tương tác với các học sinh
khác cùng lớp để tìm phương án giải thích hiện tượng.

2
Để đạt được những mục đích đó bên cạnh việc dạy tốt môn Khoa học, tôi đã
đặt ra cho mình mục tiêu giúp học sinh nắm được kiến thức của bài học theo phương
pháp mới, cũng như tạo cơ hội để cho học sinh được rèn luyện Năng lực, Phẩm chất
của người học, được thể hiện mình, được giao tiếp, cộng tác và thấy được niềm vui
trong học tập để phát triển mình. Bản thân tôi luôn thấy rõ ưu điểm vượt trội của
phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến “Một số kinh
nghiệm vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy môn Khoa học lớp 4”
để nghiên cứu và vận dụng vào thực tế giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học môn Khoa học ở Tiểu học, đăc biệt là với học sinh lớp 4 hiện nay.
Tôi đã nghiên cứu và thực hiện sáng kiến này tại lớp 4b Trường Tiểu học thị
trấn Tân An.
1.2. Điểm mới của sáng kiến.
Với Sáng kiến này sẽ góp phần giúp giáo viên lựa chọn nội dung phù hợp
với phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong từng bài dạy và vận dụng có hiệu quả
phương pháp dạy học này. Phương pháp mà trong đó học sinh được độc lập tự chủ,
mạnh dạn nói lên những hiểu biết của mình và được tập thể tôn trọng, đồng thời
được bảo vệ quan điểm của mình trước tập thể bằng cách đề xuất và tự tiến hành
thí nghiệm mà không còn cảm thấy e ngại, rụt rè.
Giúp học sinh thấy mình như một nhà nghiên cứu khoa học nhỏ tuổi. Từ đó
các em say mê học tập hơn. Các em khám phá thế giới tự nhiên không chỉ ở chỗ
độc lập, sáng tạo, mà còn thấy mình ngày càng hiểu biết được nhiều hơn, nghĩ ra
nhiều phương án, nhiều phát minh được tập thể lớp, cô giáo và mọi người xung
quanh chấp nhận.
Giúp các em học sinh hiểu Khoa học chứa đựng nhiều điều thú vị kèm theo sự
say mê từ đó các em có quyết tâm chinh phục, biết thắc mắc và đặt câu hỏi rồi đi tìm
câu trả lời thuyết phục, làm cho hoạt động khám phá diễn ra không ngừng nơi người
học, dần dần hình thành ở các em phương pháp học, phương pháp tiếp cận tri thức
khoa học để đáp ứng được xu thế thời đại- Thời đại bùng nổ thông tin, với một khối
lượng tri tức khổng lồ mà nhà trường không đủ khả năng truyền tải hết.
Qua nhiều năm vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào thực tế giảng
dạy môn Khoa học lớp 4. Bản thân tôi luôn thấy: Phương pháp dạy học này đã thể
hiện được nhiều ưu điểm vượt bậc so với các phương pháp dạy học truyền thống
khác. Việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào tiết dạy giúp học sinh
được thực nghiệm nhiều hơn. Giáo viên có thể khai thác những kiến thức trong đời
sống thực tế của học sinh từ đó giúp học sinh tự tìm hiểu và hình thành kiến thức
mới của bài học. Phát huy được tối đa tinh thần làm việc theo nhóm của học sinh.
Đặc biệt thông qua tiết học đã rèn một cách tối đa về phẩm chất và năng lực
cho học sinh, tạo được sự hứng thú từ phía học sinh, học sinh hào hứng, vui vẻ,
thích học tập và say mê tìm tòi. Giúp học sinh ghi nhớ được kiến thức ngay tại lớp
học, và nhớ lâu hơn. Vì vậy tôi muốn tiếp tục nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào
thực tế giảng dạy môn Khoa học ở Tiểu học, đặc biệt với học sinh lớp 4 để rút ra
những bài học kinh nghiệm trong dạy học nhằm phát huy tối đa tác dụng của

3
phương pháp vào quá trình dạy - học, góp phần nâng cao chất lượng trong công tác
dạy học và giáo dục học sinh phát triển toàn diện tại trường Tiểu học thị trấn Tân
An hiện nay. Đồng thời đáp ứng được nhu cầu đổi mới về giáo dục hiện nay.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu
a. Đối với giáo viên.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ năm học mỗi cán bộ giáo viên đã nhận
thức sâu sắc về các cuộc vận động lớn, các phong trào thi đua của ngành như
phong trào thi đua “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo”, phong
tào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”...và đã nhiệt tình,
hết lòng cùng học sinh thực hiện.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học, mỗi cán bộ giáo viên chủ động xây
dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với lớp mình phụ trách.
Tuy nhiên tôi nhận thấy đội ngũ giáo viên đã được tập huấn về phương pháp “Bàn
tay nặn bột” và có nhiều cố gắng trong việc trao đổi, học hỏi, tự bồi dưỡng cũng
như trong việc đổi mới các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
vào dạy môn Khoa học lớp 4 còn có những hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng dạy và học môn này.
+ Phương pháp Bàn tay nặn bột đòi hỏi phải có nhiều thời gian đối với mỗi
tiết học chứ không chỉ với thời gian hạn chế 35 - 40 phút/tiết học như quy định
hiện nay.
+ Để thực hiện phương pháp này, người giáo viên phải có kiến thức khoa
học tự nhiên vững vàng và khả năng linh hoạt để ứng phó với mọi tình huống bất
ngờ xảy ra trong tiết học. Hai điều này không phải giáo viên tiểu học nào cũng có
được.
+Việc chuẩn bị bài dạy theo phương pháp này còn tốn nhiều thời gian:
nghiên cứu, soạn bài, chuẩn bị đồ dùng dạy học, đồ dùng cho học sinh. Trang thiết
bị chưa đáp ứng được cho việc dạy học theo phương pháp này, chưa có phòng thí
nghiệm.
b. Đối với học sinh.
+ Về phía HS, các em phải có vốn kiến thức thực tế phong phú, phải chủ
động học tập, phải năng động, sáng tạo.
Qua thực tế giảng dạy, quan sát, dự giờ tôi thấy các em đều biết làm việc tập
thể, hợp tác, trao đổi, chia sẻ ý kiến cá nhân, chia sẻ đa chiều, biết làm một số thí
nghiệm đơn giản. Tuy nhiên các em còn lúng túng, rụt rè, nhút nhát trong bước bộc
lộ quan điểm ban đầu, khó khăn trong việc đề xuất câu hỏi. Nhiều học sinh đặt câu
hỏi nêu vấn đề còn chung chung, chưa bám vào nội dung bài học. Trong việc thu
thập kết quả và ghi chép lại cũng gặp không ít khó khăn. Các em không tự chủ
trong việc tìm kiếm tri thức nên không gây được hứng thú trong học tập. Các em ít
tò mò, ít đặt câu hỏi thắc mắc và hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự vật
hiện tượng mà các em được tìm hiểu. Sự lập luận còn kém, các kĩ năng kĩ xảo còn

4
vụng về, lúng túng. Việc vận dụng các kiến thức mà các em thu thâp được vào thực
tiễn còn quá xa, bởi vì các em thiếu kĩ năng thực hành. Các em chưa có thói quen
ghi chép lại những gì mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và
mục đích của thí nghiệm còn kém.
Để xác lập cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát
thực trạng việc học môn Khoa hoch của học sinh lớp 4B trường Tiểu học thị trấn
Tân An để đánh giá chất lượng ban đầu của lớp làm cơ sở để khảo sát thực nghiệm
của Sáng kiến.
Nội dung khảo sát nhằm đánh giá khả năng nắm kiến thức của các em, kĩ
năng vận dụng các kiến thức đã học để làm bài tập, hệ thống kiến thức, trả lời câu
hỏi, vận dụng thực tế.
Kết quả khảo sát đầu năm như sau:
TSHS HS hoàn thành HS chưa hoàn thành
32 17 53,125% 15 46,875%
TS
HS
HS biết vận
dụng
HS chưa biết
vận dụng HS mạnh dạn HS chưa
mạnh dạn
32 TS
TL TS TS TL TL TS TL
17
53,125% 15 46,875% 12 37,5% 20 62,5%
* Nguyên nhân có kết quả trên là do còn một số em chưa quen với phương
pháp này, các em còn lúng túng, rụt rè, nhút nhát trong bước bộc lộ quan điểm ban
đầu, khó khăn trong việc đề xuất câu hỏi, trong việc thu thập kết quả và ghi chép
lại. Các em không tự chủ trong việc tìm kiếm tri thức nên không gây được hứng
thú trong học tập, thờ ơ với việc học. Các em ít tò mò, ít đặt câu hỏi thắc mắc và
hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm
hiểu, sự lập luận còn kém, các kĩ năng kĩ xảo còn vụng về, lúng túng. Việc vận
dụng các kiến thức mà các em thu thập được vào thực tiễn còn quá xa.
2.2. Kết quả, giải pháp thực hiện.
Để vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào giảng dạy môn Khoa học
được hiệu quả tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
2.2.1. Trước hết giáo viên phải nghiên cứu kĩ để hiểu và nắm chắc mục
tiêu, chương trình môn Khoa học lớp 4.
Sau khi học song môn Khoa học lớp 4 học sinh cần đạt được một số kiến
thức cơ bản, ban đầu và thiết thực, một số kĩ năng, thái độ và hành vi:
a. Mục tiêu:
* Một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực.
Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự lớn lên của cơ thể người, cách
phòng tránh một số bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm. Sự trao đổi chất, sự

5
sinh sản của thực vật, động vật, ứng dụng của một số chất, một số vật liệu dạng
năng lượng thường gặp trong đời sôngs và sản xuất.
* Một số kĩ năng ban đầu.
- Ứng xử thích hợp trong một số tình huống.
- Quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành.
- Nêu thắc mắc, biết tìm thông tin để giải đáp, biết diễn đạt những hiểu biết.
- Phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng.
* Một số thái độ hành vi.
- Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh an toàn.
- Ham hiểu biết khoa học, có ý thức tự vận dụng những kiến thức đã học vào
cuộc sống.
- Yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động
bảo vệ môi trường xung quanh.
b. Nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4.
* Chương trình môn Khoa học lớp 4 gồm 3 chủ đề
- Chủ đề: Con người và sức khoẻ (Trao đổi chất ở người, Dinh dưỡng,
Phòng bệnh, An toàn trong cuộc sống)
- Chủ đề: Vật chất và năng lượng (Nước, Không khí, Âm thanh, Ánh sáng,
Nhiệt)
- Chủ đề: Thực vật và động vật (Trao đổi chất ở thực vật, Trao đổi chất ở
động vật, Chuỗi thức ăn trong tự nhiên)
c. Các bài Khoa học lớp 4 có thể áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Tiết
theo
PPCT
Tên bài học Mức độ sử
dụng PPBTNB
Đồ dùng dạy học tối thiểu cần có
Tiết 2
Trao đ
ổi chất
ở người (t1)
Nh
ững thứ con
người nhận và
thải ra môi
trường
Sơ đồ sự trao đổi chất giữa cơ thể người
với môi trường.
Tiết 3 Trao đ
ổi chất
ở người (t2)
Nh
ững thứ con
người nhận và
thải ra môi
trường
Tranh về các cơ quan tham gia quá trình
trao đổi chất (trang 8- sgk). Sơ đồ mối
liên hệ giữa các cơ quan trong quá trình
trao đổi chất
Tiết 20
Nư
ớc có tính
chất gì? Cả bài
Cốc, thìa, một số dụng cụ đựng nước có
hình dạng khác nhau, tấm kính, khăn
bông, khay đựng nước, muối, đường, cát.
Tiết 21 Ba th
ể của
nước Cả bài Đá lạnh, muối, nước lọc, nư
ớc sôi, ống
nghiệm, cốc, đĩa, nhiệt kế