
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
****************
BỘ MÔN TÂM LÝ HỌC
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
BIÊN SOẠN:
TS. TRẦN VĂN TÍNH

2
CHƯƠNG 1: TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
Tâm lý học sư phạm là một trong những ngành ứng dụng được phát triển sớm nhất
của khoa học tâm lý. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc
dạy học và giáo dục đối với trẻ từ mẫu giáo đến học sinh và sinh viên. Cụ thể tâm lý học
sư phạm tìm cơ chế tâm lý của qúa trình học sinh lĩnh hội nền văn hoá vật chất, tinh thần
của xã hội và biến nó thành vốn riêng của mình; tìm mối quan hệ giữa tri thức tiếp thu
được với sự phát triển các chức năng tâm lý cấp cao của học sinh, sinh viên; tìm cơ chế
lĩnh hội của từng lứa tuổi khác nhau, tổ chức các hoạt động phù hợp với sự phát triển trí
tuệ và sự phát triển tâm lý. Việc nghiên cứu những vấn đề này thể hiện mối liên hệ chặt
chẽ của ngành tâm lý học lứa tuổi và ngành tâm lý học sư phạm.
Tâm lý học sư phạm xuất hiện từ bao giờ? Năm 1889, Đại hội đầu tiên của các nhà
tâm lý học trên thế giới đã họp ở Pari, một trong những hướng ứng dụng đầu tiên của
khoa học tâm lý là việc vận dụng tri thức tâm lý học vào công tác giảng dạy và giáo dục ở
nhà trường.
Ví dụ như những kết quả thực nghiệm trong tâm lý học đại cương về quy luật tâm
sinh lý của Weber, Faisner, quy luật nhớ của Ebingauz, nghiên cứu cảm giácvận động của
Weent... Nhưng việc ứng dụng trực tiếp từ kết quả nghiên cứucủa tâm lý học đại cương đã
rất hạn chế và mâu thuẫn với kinh nghiệm của giáo viên. Ví dụ: Ebingauz nghiên cứu sự
ghi nhớ những từ vô nghĩa thì ít giúp ích cho giáo viên là những người cần biết quy luật
nhớ những tài liệu có ý nghĩacủa học sinh. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga
K.D.Usinxki trong tác phẩm “con người là đối tượng của giáo dục” đã có cống hiến lớn
cho sự phát triển tư tưởng tâm lý sư phạm. Ông cho rằng muốn giáo dục con người thì
trước hết phải hiểu biết con người về tất cả mọi mặt, và đã kêu gọi tất cả các nhà giáo
dục: “Các bạn hãy nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các bạn
muốn điều khiển và các bạn hãy hành động căn cứ trên những quy luật này và những
hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng chúng vào đó”; Nhà tâm lý học người Mỹ W.
James, trong tác phẩm “Nói chuyện với các giáo viên về tâm lý học” đã cho rằng: khi biết
được những quy luật tâm sinh lý hay những hình thức và tốc độ phản ứng vận động thì

3
người giáo viên sẽ hiểu được đời sống tinh thần của trẻ và những quy luật lĩnh hội tài liệu
học tập.
Do đó, những hiện tượng tâm lý trẻ em và thanh niên diễn ra trong quá trình giảng
dạy và giáo dục ở nhà trường cần phải được nghiên cứu riêng và trở thành đối tượng của
ngành tâm lý học sư phạm.
Trong hội nghị tâm lý học sư phạm đầu tiên ở nước Nga được tổ chức vào đầu thế
kỷ XX, các nhà tâm lý học đã khẳng định rằng chỉ có thể gắn tâm lý học với thực tiễn sư
phạm bằng cách nghiên cứu thực nghiệm trong chính quá trình dạy học và giáo dục. Do
vậy, cần giải quyết đúng đắn vấn đề lý luận và phương pháp luận của tâm lý học sư phạm
và tâm lý học lứa tuổi mà trước hết là nhuồn gốc phát triển tâm lý có quan hệ với lý luận
dạy học. Việc xác định các nguyên tắc, các con đường, các biện pháp dạy học và giáo dục
phụ thuộc vào quan niệm về nguồn gốc phát triển tâm lý trẻ.
Các nhà tâm lý học Mácxít cho rằng yếu tố bẩm sinh di truyền là tiền đề của sự
phát triển tâm lý, giáo dục có vai trò chủ đạo và hoạt động cá nhân có tính chất quyết định
trực tiếp đến sự phát triển của mỗi cá nhân. Trong những điều kiện giáo dục thuận lợi như
nhau thì trẻ nào có được những ưu thế về bẩm sinh di truyền thì sẽ phát triển tốt hơn.
Ngược lại những trẻ có yếu tố bẩm sinh di truyền tương đối ngang bằng nhau thì trẻ nào
được sống trong điều kiện giáo dục thuận lợi hơn sẽ phát triển tốt hơn. Sức mạnh của giáo
dục là khả năng tăng tốc sự phát triển theo định hướng xã hội đúng đắn, là phát hiện tiềm
năng tâm lý làm cho mỗi cá nhân có diều kiện bộc lộ tự do và phát triển tối ưu năng lực
và nhân cách của mình.
Từ những kiến giải trên, ta thấy rằng những lĩnh vực của tâm lý học sư phạm bao
trùm hai khoa học: Tâm lý học và Giáo dục học.
Những mục đích của Tâm lý học sư phạm: Tâm lý học sư phạm quan tâm trước hết
đến việc ứng dụng các tri thức khoa học về tư duy của con người và nhân cách của họ vào
quá trình sư phạm, bao gồm những vấn đề như: động cơ, định hướng, kiểm tra, đánh giá...
Tâm lý học sư phạm cũng có mục đích tìm hiểu về người học và quá trình hướng dẫn, đào
tạo họ, nhờ quá trình đó mà người học được định hướng phát triển và trưởng thành. Vì
vậy, Tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ chọn lọc, tổ chức, giải thích, kết hợp các sự kiện,
tài liệu, kỹ thuật, nguyên tắc từ lâu đài đồ sộ của tâm lý học để ứng dụng thực tiễn vào

4
quá trình giáo dục. Như vậy, Tâm lý học sư phạm có mục đích cung cấp cho giáo viên
những hiểu biết tâm lý học đúng đắn, khoa học về trẻ em và thanh thiếu niên; một cái
nhìn sâu sắc về bản chất của sự học; một nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của sự khác biệt
cá thể, tri thức về sự trưởng thành và phát triển của trẻ em, hiểu biết về những vấn đề
hành vi của trẻ em, thanh thiếu niên và khả năng ứng xử với chúng. Nhờ đó, người làm
công tác giảng dạy, giáo dục nắm được những nguyên lý cơ bản để giải quyết những vấn
đề nảy sinh trong quá trình sư phạm và học có thể đánh giá các biện pháp được sử dụng
nhằm đạt được mục tiêu đào tạo.
1.1. Sự ra đời của Tâm lý học dạy học đại học
1.1.1. Nguyên nhân khách quan
a. Sự phát triển của đào tạo đại học trên thế giới và ở Việt Nam
Hệ thống giáo dục đại học của các nước trên thế giới có một lịch sử phát triển khá lâu
đời và không ngừng phát triển. Số trường đại học và cao đẳng của Nhật Bản (tính đến
1994) là 1.208 với tổng số sinh viên là 3.266.275. Nước Mỹ có trên 3.000 trường đại học;
Hàn Quốc có 314 trường đại học và cao đẳng, với 2.196.940 sinh viên và 54.135 giáo
chức. Thái Lan có 53 trường đại học với 872.630 sinh viên và có 23.121 giáo chức (năm
1995). Các nước thuộc Liên Xô trước đây có khoảng 870 trường đại học, với 5,2 triệu
sinh viên và có trên 70.000 phó tién sĩ và 19.000 tiến sĩ khoa học tham gia công tác đào
tạo đại học và trên đại học (số liệu của những năm 80); Các nước á Phi, Mỹ La Tinh,
Brazin có 6.260.000 sinh viên (những năm 80 ).
Giáo dục đại học Việt Nam có một lịch sử phát triển lâu đời. “Quốc Tử Giám” được
mở năm 1076 tại Hà Nội có thể được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đầu
thế kỷ XX, kiểu đại học phương Tây du nhập vào nước ta. Năm 1902, Đại học Y-Dược
được thành lập. Một số trường cao đẳng và đại học khác được thành lập từ năm 1906 đến
1939 và được tập hợp lại thành Đại học Đông Dương đặt tại Hà Nội, chung cho cả Việt
Nam, Lào, Campuchia. Số lượng sinh viên của trường này đạt quy mô cao nhất là 1.200
vào năm 1942. Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) hình thành ba
trung tâm đại học mới tại Việt Bắc, Liên khu IV và Nam Ninh (Trung Quốc). Đấy là cơ
sở đại học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Sau giải

5
phóng (1954), các trường đại học di chuyển về Hà Nội. Năm 1956 ở Hà Nội có các
trường Tổng hợp, Sư phạm, Bách khoa, Y-Dược, Nông nghiệp, Kinh tế- tài chính và nghệ
thuật. Cho đến năm 1975 ở miền Bắc đã có 30 trường đại học với 8.400 giảng viên và
56.000 sinh viên. Cũng trong thời gian đó, ở miền Nam có 4 viện đại học công lập, 3 đại
học cộng đồng và 11 đại học tư, có tổng số sinh viên là 166.000. Sau ngày Việt Nam
thống nhất (1975), các trường đại học, cao đẳng (hiện nay, do sát nhập một số trường để
thành lập các đại học quốc gia nên số trường đại học chỉ còn 199, trong đó có 91 trường
công lập và 18 trường dân lập và một số cao đẳng cộng đồng) với khoảng 36.500 giảng
viên, trong đó 31% là nữ, 14% có học vị Phó tiến sĩ, Tiến sĩ và gần 930.000 sinh viên,
trong đó có khoảng 589.000 sinh viên chính quy.
Như vậy, số trường đại học trong nước và trên thế giới tăng rất nhanh, số lượng sinh
viên có tới hàng chục triệu và số lượng cán bộ khoa học giảng dạy đại học cũng không
ngừng tăng lên và đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy thay đổi theo chiều
hướng tăng nhanh các cán bộ có trình độ học vị, học hàm cao, có năng lực đào tạo đại học
và trên đại học. Thực tiễn đó đã lôi cuốn sự chú ý đặc biệt của các nhà tâm lý học, giáo
dục học và các nhà phương pháp vào việc nghiên cứu các cơ sở khoa học cho công tác
giảng dạy và giáo dục đại học nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo các chuyên gia có trình độ
chuyên môn cao .
b. Nhu cầu xã hội đối với chuyên gia
Do sự thúc đẩy phát triển xã hội và đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ
thuật, nhu cầu của xã hội đối với chuyên gia đã có nhiều thay đổi. Trong xã hội cũ, tính
chất bảo thủ và lạc hậu của nhà trường đại học so với xã hội đã luôn luôn tồn tại. Việc
giảng dạy của nhà trường đại học cũ là hướng vào quá khứ. Tức là, xã hội yêu cầu người
chuyên gia tích luỹ càng nhiều tri thức càng tốt bằng tri thức của mình , có quan niệm ai
nhớ giỏi là người uyên bác, là nhà bác học. Nội dung tri thức, cách sắp xếp , tổ chức và
chuyền đạt thông tin do thầy giáo quy định. Phương pháp giảng dạy là thầy giải thích tài
liệu, củng cố tài liệu, rồi kiểm tra, còn sinh viên tiếp nhận tài liệu, ghi nhớ chúng.
Xã hội ngày nay có nhu cầu khác hẳn đối với các chuyên gia, nền sản xuất hiện đại đòi
hỏi chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải có kỹ năng tư duy sáng tạo, biết đặt ra
những nhiệm vụ mới một cách độc lập, có nguyên tắc, năng động, có khả năng thích ứng