TÀI LIỆU ÔN TẬP MÔN KIẾN THỨC CHUNG KỲ THI TUYỂN CÔNG CHỨC THÀNH PHỐ HÀ NỘI NĂM 2015
Chuyên đề 1
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Cải cách hành chính (CCHC) là một khái niệm đã được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu hành chính trên thế giới đưa ra, dựa trên các điều kiện về chế độ chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu nghiên cứu, do đó hầu hết các định nghĩa này là khác nhau. Tuy nhiên, qua xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ, khái niệm về CCHC có thể hiểu như sau: CCHC là sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. CCHC không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế- xã hội của một quốc gia. Tùy từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mối quốc gia, trọng tâm, trọng điểm CCHC hướng tới mục tiêu hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành chính.
II. ĐẶC TRƯNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
1. Một số đặc trưng về cải cách hành chính ở Việt Nam
- Cải cách được tiến hành trong khuôn khổ hệ thống chính trị một đảng duy nhất cầm quyền. Mặt thuận lợi từ đặc trưng này chính là ở chỗ dễ tạo sự đồng thuận trong hoạch định chính sách, biện pháp, thể chế cho cải cách.
- CCHC diễn ra cùng một lúc với khá nhiều cuộc cải cách khác, ví dụ như cải cách kinh tế, cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách giáo dục ... Đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung nhằm bảo đảm mục tiêu chung của phát triển.
- CCHC được triển khai trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành chính gồm 6 lĩnh vực cải cách, mỗi lĩnh vực lại bao gồm một loạt các lĩnh vực thành phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của CCHC ở Việt Nam.
2. Những kinh nghiệm thực tiễn về CCHC ở nước ta
- Cải cách hành chính không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng.
Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống một đảng duy nhất cầm quyền. Đặc trưng này chi phối nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề CCHC. CCHC muốn tiến hành dược, muốn duy trì và đẩy mạnh, trước hết phải
là một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải cách, càng không thể có những kết quả tích cực. CCHC không tách rời sự lãnh đạo của Đảng vừa là bài học kinh nghiệm, vừa là đặc trưng cải cách của Việt Nam. Mặt thuận lợi của vấn đề này chính là ở chỗ sự hiện diện của các tổ chức Đảng, của các đảng viên đang giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Các thành viên này có trách nhiệm triển khai Nghị quyết Đảng về CCHC thông qua các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ là một yếu tố bảo đảm CCHC
đạt kết quả.
Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo triển khai CCHC của đất nước. Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ có trách nhiệm cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch CCHC, trên cơ sở đó các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch CCHC của mình nhằm bảo đảm mục tiêu chung của cải cách là xây dựng được một nền hành chính mạnh, hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụ.
- Cải cách hành chính triển khai với nhiều nội dung, vì vậy hết sức khó
khăn và phải làm lâu dài.
So với nhiều nước có tiến hành CCHC thì CCHC ở Việt Nam được triển khai trên nhiều lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục tới con người, các cơ chế hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính v.v.... Có thể nói gần như các yếu tố cấu thành cơ bản của nền hành chính quốc gia đều đòi hỏi phải cải cách, thay đổi. Chính vì vậy, việc triển khai không đơn giản và cũng không thể sớm đạt kết quả. Vấn đề này chi phối trước hết công tác xây dựng kế hoạch CCHC của các bộ, ngành và địa phương. Kế hoạch phải bao quát đủ các lĩnh vực cải cách, cụ thể hóa vào phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan. Kể đến là công tác triển khai, kiểm tra việc thực hiện trong thực tiễn.
- Bảo đảm tính đồng bộ của CCHC với các cuộc cải cách khác trong hệ
thống chính trị.
Việt Nam cùng một lúc tiến hành một loạt các cải cách: cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục v.v... Mỗi cuộc cải cách theo đuổi các mục tiêu, kết quả riêng, tuy nhiên có rất nhiều vấn đề đan xen giữa các cuộc cải cách, thậm chí có vấn đề không thể nói chỉ thuộc một cuộc cải cách riêng biệt. Chính vì vậy, tính đồng bộ giữa các cuộc cải cách có ý nghĩa quan trọng, nó tạo ra sự thống nhất ở tầm vĩ mô như hoạch định thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm các cuộc cải cách có thể tốt hơn, không gặp trở ngại.
2
Tuy nhiên, thực tiễn có lúc không diễn ra như vậy. Từ góc độ cục bộ của ngành, lĩnh vực, đã có lúc các bộ chuẩn bị các dự án luật trình Quốc hội thông qua và khi ban hành mới thấy rõ sự cản trở về CCHC đang được triển khai, làm
cho thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý của các bộ phức tạp hơn; người dân, tổ chức phải vất vả hơn trong giải quyết công việc của mình.
- Cải cách hành chính đòi hỏi phải có những thí điểm
Trong quá trình cải cách, nhiều vấn đề trì trệ của nền hành chính được phát hiện và các giải pháp được đề xuất để thay đổi. Thông thường, các giải pháp đó về bản chất khác hẳn giải pháp hiện hành, lại chưa được kiểm nghiệm tính đúng đắn và chưa được thể chế hóa. Do vậy, hết sức cần thiết có sự thí điểm để qua thực tiễn xem xét tính phù hợp của các giải pháp. Một loạt các cơ chế có tính cải cách đang được triển khai trong quá trình cải cách đã ra đời theo cách như vậy.
III. MỤC TIÊU VÀ TRỌNG TÂM CCHC CỦA CHÍNH PHỦ
Mục tiêu và trọng tâm CCHC được Chính phủ xác định cụ thể tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020
1. Mục tiêu
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
2. Trọng tâm CCHC
Cải cách thể chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công.
IV. CCHC CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI (GIAI ĐOẠN 2011-2015)
3
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XV tiếp tục xác định đẩy mạnh CCHC là một trong hai khâu đột phá trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thành phố. Chính vì vậy, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Chương
trình số 08-CTr/TU ngày 18/10/2011 về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng và phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011- 2015” và được UBND thành phố Hà Nội cụ thể hóa bằng Quyết định số 1909/QĐ-UBND ngày 08/5/2012 về việc ban hành Kế hoạch CCHC nhà nước của thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015.
1. Mục tiêu chung
Xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, vì dân. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác CCHC; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách của Thành phố, giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong việc tuân thủ các thủ tục hành chính (TTHC); hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Thành phố tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện và hoạt động theo pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ năng lực, trình độ và chuyên nghiệp; từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công; bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trọng tâm CCHC là cải cách TTHC, bảo đảm tính công khai, minh bạch, thuận lợi cho tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp; tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Thủ đô, trước hết là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý các cấp từ Thành phố đến cơ sở.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, yêu cầu đối với các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị là phải nhận thức đầy đủ, xác định rõ công tác CCHC là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và là một trong những khâu đột phá của Thành phố. Gắn công tác CCHC với việc thực hiện 09 Chương trình công tác của Thành uỷ Hà Nội giai đoạn 2011-2015, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2015
- 100% các TTHC có liên quan đến tổ chức và cá nhân đều được thực hiện thông qua cơ chế một cửa, một cửa liên thông; trên 80% người dân và doanh nghiệp hài lòng về hiệu quả giải quyết TTHC và sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước thuộc Thành phố; 100% hồ sơ hành chính được giải quyết đúng hạn, cắt giảm trên 30% chi phí tuân thủ TTHC.
- Đào tạo, tuyển dụng 1000 công chức nguồn; 90% cán bộ, công chức cấp xã đạt tiêu chuẩn theo chức danh; 70% cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố có cơ cấu chức danh theo vị trí việc làm; 100% cán bộ, công chức có máy vi tính, sử dụng thư điện tử, phần mềm quản lý văn bản, hồ sơ trong công việc.
- Trên 70% người dân hài lòng về chất lượng dịch vụ công trong các lĩnh
4
vực giáo dục và đào tạo, y tế.
- Bảo đảm 100% trụ sở cấp xã trên địa bàn Thành phố đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; trên 80% văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính được thực hiện trên mạng điện tử; 100% các sở, ban, ngành, quận, huyện, thị xã và 50% các xã, phường, thị trấn hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin nội bộ; 100% các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định; 100% các cơ quan hành chính của Thành phố áp dụng và được cấp chứng chỉ ISO 9001: 2008.
3. Các nhiệm vụ trọng tâm
3.1. Cải cách thể chế
Cải cách thể chế nhằm tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách của Thành phố, nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thực hiện các quy định về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính khả thi của văn bản, đồng thời đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy của Thành phố; đổi mới và nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền, bảo đảm chính sách đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, cụ thể, đúng quy định; chuẩn hoá quy trình ban hành quyết định hành chính, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành.
- Hoàn thiện các quy định của Thành phố về xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế theo hướng tạo lập cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, đất đai, nguồn nhân lực nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ công trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; về tuyển dụng công chức, viên chức gắn với việc xây dựng các quy định về thu hút, tuyển dụng tài năng trẻ, nguồn nhân lực chất lượng cao về làm việc tại các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập của Thành phố.
3.2. Cải cách thủ tục hành chính
Cải cách TTHC được xác định là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của tổ chức và cá nhân. Cải cách TTHC cần đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, liên thông giữa các TTHC liên quan; đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện; bình đẳng của các đối tượng thực hiện TTHC; tiết kiệm thời gian và chi phí của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước; phù hợp với mục tiêu quản lý hành chính nhà nước.
Nhiệm vụ cụ thể:
5
- Các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết TTHC phải tổ chức hướng dẫn và tư vấn miễn phí cho các tổ chức, cá nhân đến giao dịch giải quyết TTHC; bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, công bằng, kịp
thời, chính xác, không gây phiền hà trong quá trình giải quyết TTHC; rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ hành chính.
- Thực hiện đồng bộ, nâng cao chất lượng, hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan: Văn phòng UBND Thành phố, các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, UBND cấp xã.
- Thí điểm thực hiện mô hình cung cấp dịch vụ công theo cơ chế một cửa tại một số doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Thành phố.
- Đối với UBND cấp huyện, thực hiện thống nhất cơ chế một cửa, một cửa liên thông tập trung tại một đầu mối duy nhất là bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC thuộc Văn phòng HĐND và UBND.
- Tiếp tục tập trung rà soát, đơn giản hóa TTHC trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là TTHC liên quan tới người dân, doanh nghiệp; gắn việc rà soát TTHC với rà soát chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị; kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ hoặc bãi bỏ TTHC và quy định có liên quan đến TTHC không hợp pháp, không cần thiết, không hợp lý.
- Tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định về kiểm soát TTHC, đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các TTHC theo đúng quy định pháp luật.
- Rà soát, đánh giá, kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC các lĩnh vực: Đăng ký doanh nghiệp, quy hoạch, đầu tư, xây dựng cơ bản, nhà đất, lao động, thương binh và xã hội, hộ khẩu, hộ tịch...
3.3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đảm bảo cho hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Thành phố tới cơ sở thông suốt, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; thực hiện và hoạt động theo pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp. Rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của các cơ quan chuyên môn và tương đương trực thuộc UBND Thành phố và UBND cấp huyện. Xử lý, giải quyết dứt điểm sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa một số sở và các phòng, ban, đơn vị trực thuộc một số sở. Thu gọn đầu mối các phòng, ban, đơn vị trực thuộc các cơ quan chuyên môn và tương đương trực thuộc UBND Thành phố.
6
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy và sắp xếp lại các ban quản lý, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Thành phố và các quận, huyện, thị xã, nhất là các đơn vị sự nghiệp cung cấp
dịch vụ công ở các lĩnh vực: Đô thị, đất đai, xây dựng, quy hoạch, công thương, nông thôn, y tế, giáo dục, dạy nghề. Kiên quyết giải thể hoặc sáp nhập những đơn vị hoạt động kém hiệu quả, không có khả năng phát triển hoặc đã hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ.
- Thực hiện phân công, phân cấp, ủy quyền rành mạch, hợp lý, ổn định. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế tiếp tục phân công, phân cấp, ủy quyền đối với các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã, UBND các xã, phường, thị trấn giải quyết những công việc, thủ tục hành chính mà ở cấp đó đủ điều kiện đảm nhiệm; chú trọng các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, xây dựng, đất đai, giải phóng mặt bằng. Kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa phân cấp quản lý kinh tế - xã hội với phân cấp ngân sách và phân cấp về quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức. Xác định rõ trách nhiệm, bảo đảm đủ các nguồn lực cần thiết để các cơ quan, đơn vị thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Đồng thời, có biện pháp quản lý thống nhất sau khi phân công, phân cấp, ủy quyền; thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện.
- Thực hiện xã hội hóa, đổi mới cơ chế cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực: Giao thông đô thị, vệ sinh môi trường, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao.
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế, kinh phí đối với cơ quan hành chính và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
3.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức
Xác định đây là nội dung trọng tâm, quan trọng trong công tác CCHC, các cấp, các ngành của Thành phố cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức một cách đồng bộ, thực sự trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất và năng lực, tạo bước chuyển biến mạnh về phẩm chất, đạo đức, về chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính, về ý thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Xây dựng, ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản quy định riêng về quản lý cán bộ, công chức (theo Luật Cán bộ, công chức) và các văn bản quy định riêng về quản lý viên chức (theo Luật Viên chức).
7
- Xây dựng vị trí, cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh công chức, viên chức ở các phòng, ban, đơn vị của các cơ quan chuyên môn và tương đương trực thuộc UBND Thành phố, các cơ quan chuyên môn và tương đương trực thuộc UBND cấp huyện để làm căn cứ tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, xác định lại định mức biên chế. Chuẩn hóa chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, cán bộ nghiệp vụ chuyên ngành đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô. Thực hiện giao biên chế ổn định tương ứng với thời kỳ ổn định ngân sách. Từng
bước tinh giản biên chế. Có lộ trình cụ thể giảm hợp lý cấp phó của các sở, ngành, các đơn vị cấp 2, phó trưởng phòng chuyên môn của các sở, ngành và biên chế bộ phận phục vụ trong các cơ quan hành chính.
- Đổi mới phương thức tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức để chọn đúng người đủ tiêu chuẩn, chuyên môn, bố trí đúng việc; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm có đủ phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức. Rà soát, đánh giá, phân loại chất lượng, sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cho phù hợp, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Thành phố, của từng địa phương, đơn vị trước mắt và lâu dài. Việc bố trí, phân công nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức cần bảo đảm sự ổn định, chuyên môn hóa; đồng thời, thực hiện điều động, luân chuyển để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
- Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường đào tạo nâng cao phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước v.v... , đặc biệt chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thực thi nhiệm vụ, công vụ phù hợp vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện đúng quy định về bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành hàng năm đối với cán bộ, công chức.
- Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã bảo đảm đồng bộ, đáp ứng các yêu cầu: Đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý và chất lượng tốt; có phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, tận tụy với công việc, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt tiêu chuẩn quy định trở lên.
- Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức. Nghiên cứu xây dựng cơ chế đặc thù của Thủ đô để có chính sách hỗ trợ, đãi ngộ ngoài lương hợp lý, bảo đảm ổn định đời sống đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, công vụ theo quy định.
Ngân hàng trắc nhiệm câu hỏi tiếng anh công chức hành chính năm 2014 có đáp án
http://123doc.org/document/2235730-ngan-hang-trac-nhiem-cau-hoi-tieng-anh-cong-chuc-hanh- chinh-nam-2014-co-dap-an.htm?ref=keyword_hot_sale
Full câu hỏi và trả lời môn kiến thức chung về quản lý nhà nước ôn thi công chức
http://123doc.org/document/2393570-full-cau-hoi-va-tra-loi-mon-kien-thuc-chung-ve-quan-ly- nha-nuoc-on-thi-cong-chuc.htm
8
- Tăng cường quản lý và kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức, viên chức; xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm, đưa ra khỏi bộ máy những người không đủ phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
3.5. Cải cách tài chính công
Thực hiện có hiệu quả quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước của Thành phố; quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập của Thành phố. Chú trọng đổi mới cơ chế tài chính đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch, từng bước điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công cho phù hợp với chất lượng dịch vụ và mức sống của người dân. Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ người thuộc diện chính sách và người nghèo được thụ hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Tiếp tục đổi mới cơ chế phân cấp quản lý ngân sách. Thực hiện đồng bộ khoán biên chế và chi phí hành chính ở cấp xã, phường, thị trấn. Nghiên cứu điều chỉnh nâng cao mức khoán chi phí hành chính một cách hợp lý ở tất cả các cấp trong điều kiện cho phép để đáp ứng yêu cầu và khối lượng công việc ngày càng cao. Thí điểm thực hiện cơ chế cấp phát ngân sách trên cơ sở kết quả công việc theo chỉ đạo của Trung ương.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở y tế, giáo dục, đào tạo công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch; chuẩn hóa chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục.
- Đổi mới cơ chế quản lý và sử dụng tài sản công thuộc các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước 100% vốn nhà nước thuộc Thành phố. Thường xuyên kiểm ra, đánh giá công tác quản lý tài chính đối với các quỹ tài chính nhà nước thuộc Thành phố để nâng cao hiệu quả sử dụng các quỹ tài chính.
- Thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các quy định pháp luật về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí; phòng, chống tham nhũng trong quản lý tài chính công.
3.6. Hiện đại hóa hành chính
Hiện đại hóa hành chính trên cơ sở đổi mới phương thức và lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Giảm mạnh hội họp và giấy tờ hành chính, mở rộng việc giao ban, họp trực tuyến. Các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính được thực hiện dưới dạng điện tử. Triển khai có hiệu quả áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Thành phố. Phát triển đồng bộ và song hành giữa hiện đại hóa công sở và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông trong hoạt động quản lý, điều hành, giải quyết thủ tục hành chính và xây dựng cơ quan điện tử.
Nhiệm vụ cụ thể:
9
- Thực hiện các quy định về văn hóa công sở; đề cao kỷ luật, kỷ cương, nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc.
- Xây dựng mô hình khung hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 cho các loại hình cơ quan hành chính nhà nước trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Thành phố. Tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy định mới; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức của lãnh đạo, công chức các đơn vị về hệ thống quản lý chất lượng; tăng cường kiểm tra, giám sát việc xây dựng, áp dụng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng.
- Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, điều hành, giải quyết thủ tục hành chính và xây dựng chính quyền điện tử. Bố trí camera giám sát hoạt động giao dịch tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Đầu tư máy móc, trang thiết bị công nghệ thông tin đồng bộ cho UBND cấp xã nhằm thực hiện tốt công tác cải cách hành chính
- Quy hoạch và xây dựng công sở theo hướng tập trung, từng bước hiện đại, có đủ điều kiện, phương tiện làm việc, tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức khi đến liên hệ và giải quyết công việc.
4. Các giải pháp chủ yếu
CCHC là công việc khó khăn, phức tạp, đụng chạm đến tư tưởng, thói quen, thậm chí đến cả lợi ích của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ; có nơi, có lúc, có việc vẫn còn tồn tại hậu quả của cơ chế cũ, quan liêu, bao cấp trong tư duy và hành động đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện công tác CCHC. Chính vì vậy, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra, Thành phố cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo thực hiện đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành từ Thành phố đến cơ sở đối với công tác CCHC; bảo đảm cho công tác CCHC thực sự là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên và là khâu đột phá của Thành phố; gắn với tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên đối với công tác CCHC; đặc biệt là nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị đối với công tác CCHC. Củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo CCHC các cấp. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ quan chuyên trách làm công tác CCHC theo hướng ở mỗi ngành, mỗi cấp bố trí bộ phận cán bộ, công chức thường xuyên tham mưu, giúp việc về công tác CCHC. Bố trí đủ biên chế cán bộ, công chức chuyên trách làm việc tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính của UBND cấp xã, UBND cấp huyện, các cơ quan chuyên môn và tương tương trực thuộc Thành phố.
10
- Có chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở điều kiện, thẩm quyền, khả năng của Thành phố; chú
trọng quan tâm đối với cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính của UBND cấp xã, UBND cấp huyện, các cơ quan chuyên môn và tương tương trực thuộc Thành phố.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về CCHC. Thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn một số lĩnh vực, cơ quan, đơn vị để chỉ đạo điểm về công tác CCHC. Kết quả thực hiện công tác CCHC của các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Phát huy vai trò giám sát của HĐND, MTTQ và các đoàn thể nhân dân đối với việc tổ chức thực hiện công tác CCHC tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc Thành phố. Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ đối với các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức; kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm khắc đối với các trường hợp sai phạm.
- Tổ chức điều tra xã hội học để đánh giá, nhận xét về trách nhiệm phục vụ của các cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính, trước hết là ở một số lĩnh vực trọng điểm, như: Quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch, kiến trúc, tài nguyên, môi trường, lao động, thương binh và xã hội...Bố trí camera giám sát hoạt động giao dịch tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính. Coi trọng tiêu chí về kết quả triển khai thực hiện CCHC trong công tác thi đua, khen thưởng và bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò, trách nhiệm và chất lượng hoạt động của HĐND và đại biểu HĐND các cấp. Nâng cao chất lượng giám sát của HĐND trong hoạt động CCHC. Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Bảo đảm kinh phí cho việc thực hiện CCHC. Tổ chức nghiên cứu, trao đổi, học tập kinh nghiệm với các địa phương trong và ngoài nước. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo về CCHC.
Câu 1: Nghĩa vụ của cán bộ công chức ?
Trả lời
Nghĩa vụ của cán bộ công chức được quy định tại điều 8,9,10 Luật Cán bộ
công chức:
1. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân
dân
- Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
- Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
11
nhân dân.
- Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
2. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ
- Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn được giao.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
- Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được
giao.
- Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
3. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu
Ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này, cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
- Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về
kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công
chức;
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;
- Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;
12
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Câu 2. (30 điểm - thang điểm 100)
Anh/Chị hãy phân định cán bộ với công chức. Ý nghĩa của
việc phân định này.
Đáp án:
Nêu được khái niệm cán bộ (02 điểm):
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trược thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Nêu được khái niệm công chức (02 điểm):
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương , cấp tỉnh, huyện; trong cơ quan, đone vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lí của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lí của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Nêu được khái niệm Cán bộ xã, phường, thị trấn (02 điểm):
(gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kì trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Chỉ ra những điểm chung giữa cán bộ với công chức(12 điểm):
- Là công dân Việt Nam; (02 điểm)
- Trong biên chế; (02 điểm)
lí của đơn vị sự nghiệp công lập
- Hưởng lương từ ngân sách nhà nước (trừ công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật); (02 điểm)
13
- Giữ một công vụ, nhiệm vụ thường xuyên; (02 điểm)
- Làm việc trong công sở; (02 điểm)
- Được phân định theo cấp hành chính. (02 điểm)
Chỉ ra những điểm khác biệt (06 điểm):
- Khác biệt về cơ cấu hình thành: (02 điểm)
+ Cán bộ: do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ.
+ Công chức: do tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh.
- Khác biệt về đặc điểm hoạt động: (02 điểm)
+ Cán bộ: Hoạt động gắn với quyền lực chính trị; chịu trách nhiệm chính
trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
+ Công chức: hoạt động gắn với quyền lực công; chịu trách nhiệm trước
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Khác biệt về thời gian làm việc: (02 điểm)
+ Cán bộ: làm việc theo nhiệm kỳ
+ Công chức: làm việc lâu dài
- Ngoài những điểm khác biệt trên, pháp luật còn quy định công chức làm
việc ở cả trong bộ mãy lãnh đạo đơn vị sự nghiệp công lập. (01 điểm)
Nêu được ý nghĩa của việc phân biệt cán bộ với công chức (05 điểm):
- Là căn cứ để quy định cơ chế quản lí phù hợp với từng vị trí, chức danh
của cán bộ, công chức ở các cấp đơn vị hành chính. (01 điểm)
- Là căn cứ để quy định tiền lương của cán bộ, công chức. (01 điểm)
- Là căn cứ để quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức. (01 điểm)
- Là căn cứ để quy định quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức. (01
điểm)
- Là căn cứ để quy định các vấn đề về bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
bộ đề thi công chức anh văn trình b có đáp án chi tiết http://123doc.org/document/2229034-bo-de-thi-cong-chuc-anh-van-trinh-b-co-dap-an-chi- tiet.htm?ref=keyword_hot_sale câu hỏi ôn thi luật cán bộ công chức http://123doc.org/document/2311707-cau-hoi-on-thi-luat-can-bo-cong-chuc-bao-mat-khong-hien-thi- 54-trang.htm Tuyển tập bộ câu hỏi lời giải thi công chức môn kiến thức chung full 2014 http://123doc.org/document/2271489-tuyen-tap-bo-cau-hoi-loi-giai-thi-cong-chuc-mon-kien-thuc- chung-full-2014.htm
đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… cán bộ, công chức. (01 điểm).
Câu 3. Chất lượng thực thi công vụ của CBCCVC phụ thuộc
vào 3 yếu tố:
14
1. Phụ thuộc vào kiến thức, kỹ năng và thái độ đối với công việc của bản
thân cán bộ, công chức, viên chức.
2. Phụ thuộc vào công tác tổ chức, môi trường tổ chức. Đó là sự phân công công việc, tính chất công việc, môi trường làm việc, điều kiện làm việc của CBCCVC.
3. Sự động viên, khuyến khích của người lãnh đạo, quản lý, tạo động lực cho CBCCVC từ chế độ, chính sách đãi ngộ và cơ hội thăng tiến phát triển đối với CBCCVC.
Nội dung IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực thi
công vụ:
1. Từng bước đổi mới công tác quản lý CBCCVC. Trước hết là đổi mới trong tuyển dụng CBCCVC. Tổ chức thi tuyển hay xét tuyển phải dựa vào tiêu chí năng lực phù hợp và cạnh tranh một cách khách quan thì mới tìm và tuyển được người giỏi, có tài năng vào công vụ. Những người tham gia tuyển dụng phải công tâm, khách quan và không chịu bất cứ áp lực nào can thiệp vào kết quả tuyển dụng.
2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC theo hướng hiệu quả,
thiết thực. Có 4 nội dung quan trọng cần được chú trọng cải cách:
2.1. Thực hiện đúng quy trình đào tạo: Xác định nhu cầu đào tạo - Lập kế hoạch đào tạo - Tổ chức đào tạo - Đánh giá đào tạo. Xây dựng nội dung chương trình, tài liệu, phương pháp đào tạo theo hướng đổi mới, cập nhật, thực hiện đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) trên cơ sở năng lực thực tiễn làm việc, chú trọng phát triển các kỹ năng thực thi công vụ.
2.2. Xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn cao, thành thạo về phương pháp đào tạo.
2.3. Xây dựng phát triển một số cơ sở đào tạo CBCC ngang tầm, có đủ các điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi giảng viên với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.4. Xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp, tạo điều kiện tốt cho công tác
ĐTBD.
3. Sử dụng CBCCVC hợp lý, hiệu quả. Từng bước triển khai mỗi vị trí công việc phải có mô tả công việc giúp cho việc tuyển dụng, phân công theo dõi kết quả thực hiện công việc.
Đổi mới công tác đánh giá CBCC hướng tới đánh giá dựa trên kết quả
thực thi công vụ.
Xác định vai trò của người đứng đầu, chú trọng vai trò của người thủ trưởng trong phân công, sử dụng, đánh giá và chịu trách nhiệm với kết quả thực hiện công việc của cán bộ, công chức, viên chức. 4. Tạo động lực cho CBCCVC trong thực thi công vụ. Thực hiện đổi mới
15
công tác thi đua khen thưởng, các chính sách về lương và đãi ngộ. Bô phao tổng hợp kiến thức ôn thi thuế (3 trong 1) http://123doc.org/document/2273823-bo-phao-tong-hop-kien-thuc-on-thi-thue-3-trong-1.htm
tin học và tiếng anh thi công chức http://123doc.org/document/2283934-tin-hoc-va-tieng-anh-thi-cong-chuc.htm
Chuyên đề 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và các đoàn thể nhân dân.
I. CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Vị trí pháp lý, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định tại
Điều 4, Hiến pháp năm 2013:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết và tất yếu để bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
16
- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn phát triển kinh tế - xã hội để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật; đồng thời Đảng là lực lượng lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Vị trí pháp lý của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
quy định tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị trường. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
17
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế hóa
chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, thống nhất.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
18
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức trung tâm thực hiện quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội theo quy định của pháp luật; thay mặt nhân dân thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Để Nhà nước hoàn thành nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật,
thực hiện quyền lực nhân dân giao phó, phải thường xuyên chăm lo kiện toàn các cơ quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi; thường xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm...; nghiêm trị những hành động gây rối, thù địch; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội, xây dựng và tham gia quản lý nhà nước.
Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, cần thấy rằng:
Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo của Đảng cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động lộng quyền, lạm quyền, coi thường và vi phạm pháp luật;
Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc chứ không phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của thiểu số;
Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phải luôn luôn bảo đảm sự thống nhất để tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức mạnh của Nhà nước chính là thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Vị trí pháp lý, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân được quy định tại Điều 9, Hiến pháp năm 2013:
“ 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
19
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Gần 1000 câu trắc nhiệm tin học mới ôn thi công chức 2014 có đáp án- có word excel 2007 phần cuối
http://123doc.org/document/2280680-gan-1000-cau-trac-nhiem-tin-hoc-moi-on-thi-cong- chuc-2014-co-dap-an-co-word-excel-2007-phan-cuoi.htm?ref=keyword_hot_sale
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”.
III. BẢN CHẤT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Do đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền
tảng sau:
- Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính trị với một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Đồng thời, cơ sở kinh tế này tạo ra các xung lực để đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, nâng cao khả năng tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế.
- Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp giữa công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị nước ta không chỉ là hình thức tổ chức của chính trị nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân mà còn là hình thức tổ chức đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân, là biểu tượng của đại đoàn kết toàn dân tộc.
20
- Cơ sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là các căn cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất nguyên chính trị và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố vừa bảo đảm tính định hướng chính trị vừa bảo đảm tính năng động và khả năng thích ứng của hệ thống chính trị trước sự vận động phát triển của đất nước và thế giới.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do nhân dân giao phó và uỷ quyền. Về thực chất, hệ thống chính trị không phải là một hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự uỷ quyền của nhân dân, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Trong chế độ do nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực chính trị, nhân dân uỷ quyền cho một hệ thống các tổ chức bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ; mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các tổ chức này được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ và vì các mục tiêu dân chủ. Điều đó bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là một hình thức thực hành dân chủ, tổ chức các quá trình dân chủ vừa là công cụ bảo đảm dân chủ trong xã hội, một trường học dân chủ để giáo dục ý thức dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.
IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền, mặc dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị Việt Nam ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, về thực chất chế độ chính trị không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân) vừa là tổ chức đóng vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị của mình.
21
Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó
quy định tính nhất nguyên tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống và của từng thành viên trong hệ thống chính trị.
2. Tính thống nhất của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành một thể thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát huy “tính hợp trội” của hệ thống, tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành viên và của toàn bộ hệ thống chính trị.
Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản bảo đảm cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tính thống nhất của hệ thống chính trị còn thể hiện ở mục tiêu chính trị là xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống chính trị được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cấp cơ sở.
Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong Điều lệ của từng tổ chức.
3. Hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân
Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có tính chính trị vừa có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội như những lực lượng chính trị áp bức xã hội như trong các xã hội bóc lột mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện ngay trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
22
Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý nghĩa: hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức
trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
4. Hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp và dân
tộc
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai cấp và dân tộc hoà đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn kết, hợp tác để cùng phát triển. Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ thống chính trị (kể cả thời kỳ còn mang tên hệ thống chuyên chính vô sản) vấn đề dân tộc, quốc gia luôn là cơ sở đoàn kết mọi lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
TEST level PRE INTERMEDIATE INTERMEDIATE bộ đề thi anh văn công chức b kèm đáp án HOT
http://123doc.org/document/2228992-test-level-pre-intermediate-intermediate-bo-de-thi-anh-van- cong-chuc-b-kem-dap-an-hot-2014.htm
Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp đều mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy hệ thống chính trị luôn là đại biểu cho dân tộc, là yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân và là hệ thống của dân, do dân, vì dân.
ôn thi nhanh công chức giáo dục http://123doc.org/document/2255320-on-thi-nhanh-cong-chuc-giao-duc.htm 30 bài kiểm tra tiếng anh LEVEL PRE – INTERMEDIATE INTERMEDIATE có đáp án http://123doc.org/document/2269238-30-bai-kiem-tra-tieng-anh-level-pre-intermediate- intermediate-co-dap-an.htm
23
Chuyên đề 3
TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA BỘ MÁY HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước được thiết lập để thực thi quyền hành pháp (quyền tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước). Hệ thống các cơ quan nhà nước đứng đầu là Chính phủ và thực hiện quyền hành pháp được gọi là bộ máy hành chính nhà nước (hay hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước).
2. Đặc điểm của bộ máy hành chính nhà nước
Như vậy, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước được thành lập, tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật để thực hiện quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước. Do vậy, bộ máy hành chính nhà nước cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của bộ máy nhà nước; ngoài những đặc điểm chung nói trên, bộ máy hành chính nhà nước còn có những đặc điểm riêng như sau:
Một là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong phạm vi, lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Quốc hội có chức năng chủ yếu trong hoạt động lập pháp; Toà án có chức năng xét xử; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát. Chỉ bộ máy hành chính nhà nước mới có quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà nước về văn hoá, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội,... Đó là hệ thống các đơn vị cơ sở như công ty, tổng công ty, nhà máy, xí nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế; trong lĩnh vực giáo dục có trường học; trong lĩnh vực y tế có bệnh viện...
24
Hai là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của bộ máy hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp hành - điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó. Các cơ quan hành chính nhà nước có quyền thành lập ra các cơ quan chuyên môn để giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hoàn thành nhiệm vụ.
Ba là, bộ máy hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất. Bộ máy hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước đều có hệ thống các đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Bốn là, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Tất cả các cơ quan hành chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ trực thuộc trên - dưới, trực thuộc ngang - dọc, quan hệ chéo... tạo thành một hệ thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.
Năm là, bộ máy hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành, kiểm tra... hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dưới quyền và các đơn vị cơ sở trực thuộc của mình.
II. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo làm nền tảng cho cho tổ chức và hoạt động của của bộ máy hành chính nhà nước. Một số nguyên tắc cơ bản gồm:
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước
Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện
cụ thể ở các hình thức hoạt động của các tổ chức Ðảng:
- Trước hết, Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng việc đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Trên cơ sở đường lối chủ trương, chính sách của Ðảng. Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước xem xét và đưa ra các quy định quản lý của mình để từ đó đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng sẽ được thực hiện hóa trong quản lý hành chính nhà nước.
25
- Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ. Các tổ chức Ðảng đã bồi dưỡng, đào tạo những Ðảng viên ưu
tú, có phẩm chất và năng lực gánh vác những công việc trong bộ máy hành chính nhà nước, đưa ra các ý kiến về việc bố trí những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, ý kiến của tổ chức Ðảng là cơ sở để cơ quan xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.
- Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước. Thông qua kiểm tra xác định tính hiệu quả, tính thực tế của các chủ trương chính sách mà Ðảng đề ra từ đó khắc phục khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công tác lãnh đạo.
- Sự lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được thực hiện thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức Ðảng và của từng Ðảng viên. Ðây là cơ sở nâng cao uy tín của Ðảng đối với dân, với cơ quan nhà nước.
- Ðảng chính là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân. Sự lãnh đạo của Ðảng là cơ sở bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, lôi cuốn nhân dân lao động tham gia thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước ở tất cả các cấp quản lý.
Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước là nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước, cần được vận dụng một cách khoa học và sáng tạo cơ chế Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong quản lý hành chính nhà nước, tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Ðảng cũng như khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, đường lối, chính sách của Ðảng không được dùng thay cho luật hành chính, Ðảng không nên và không thể làm thay cho cơ quan hành chính nhà nước. Các nghị quyết của Ðảng không mang tính quyền lực- pháp lý. Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước không thể tách rời sự lãnh đạo của Ðảng.
2. Nguyên tắc dựa vào dân, sát dân, lôi cuốn dân tham gia quản lý,
phục vụ lợi ích chung của quốc gia và lợi ích của công dân.
Nguyên tắc hoạt động của nền hành chính Nhà nước ta là bảo vệ và phục vụ lợi ích chung của quốc gia và phục vụ lợi ích của công dân một cách mẫn cán, có hiệu lực và hiệu quả.
Bộ máy hành chính nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ, ít tầng, nấc, gần
dân nhất để giải quyết mọi công việc hàng ngày của dân một cách nhanh nhất.
Mọi hoạt động thuộc hành chính nhà nước đều có mục đích phục vụ dân
và phải do dân giám sát.
3. Nguyên tắc quản lý bằng pháp luật.
26
Nền hành chính dân chủ và có hiệu lực phải là một nền hành chính quán triệt sâu sắc và thể hiện đầy đủ nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Một nền hành
chính như vậy phải thực thi có hiệu lực quyền hành pháp trong khuôn khổ quyền lực nhà nước thống nhất. không phân chia, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các chức năng của quyền lực nhà nước.
Khác với thuyết “phân lập ba quyền” của Nhà nước tư sản, Nhà nước Việt Nam có sự phân định rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của ba loại cơ quan nhà nước: Quốc hội (lập pháp); Chính phủ (hành pháp); Toà án, Viện kiểm sát (tư pháp), có sự phân công, phối hợp và thống nhất giữa ba cơ quan này trong một tổng thể quyền lực nhà nước thống nhất không phân chia.
4. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Xuất phát từ bản chất của một Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, đặc điểm của một nhà nước đơn nhất và để phù hợp với những nhiệm vụ chính trị của thời đại, nền hành chính nhà nước ta phải bảo đảm tăng cường tính thống nhất, tập trung cao, có quyền lực chính trị cũng như quyền lực kinh tế tập trung vững chắc vào Nhà nước (trung ương), song song với việc mở rộng tính dân chủ mạnh mẽ cho chính quyền địa phương theo tinh thần vận dụng hợp lý các phương thức tập quyền, phân quyền, tản quyền, uỷ quyền, đồng quản lý... trên cơ sở nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ. Mọi biểu hiện của tư tưởng phân tán, vô chính phủ, có màu sắc “cát cứ địa phương” hay “phép vua thua lệ làng” hoặc mọi biểu hiện của bệnh tập trung quan liêu đều không được chấp nhận và phải được ngăn chặn kịp thời.
5. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và lĩnh vực với quản lý
theo lãnh thổ.
Yêu cầu quản lý thống nhất theo ngành và lĩnh vực nhằm bảo đảm sự phát triển thống nhất về các mặt: chiến lược, quy hoạch và phân bố đầu tư; chính sách về tiến bộ khoa học - công nghệ; thể chế hoá các chính sách thành pháp luật; đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức khoa học kỹ thuật và công chức lãnh đạo, quản lý, không phân biệt thành phần kinh tế - xã hội, lãnh thổ và cấp quản lý.
Yêu cầu quản lý thống nhất theo lãnh thổ là bảo đảm sự phát triển tổng thể các ngành, các lĩnh vực, các mặt hoạt động chính trị - khoa học - văn hoá - xã hội trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ nhằm thực hiện sự quản lý toàn diện của nhà nước và khai thác có hiệu quả tối đa mọi tiềm năng trên lãnh thổ, không phân biệt ngành, thành phần kinh tế - xã hội và cấp quản lý.
Quản lý theo ngành hay lĩnh vực và quản lý theo lãnh thổ phải được kết hợp thống nhất theo luật pháp và dưới sự điều hành thống nhất của một hệ thống hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương tới địa phương và cơ sở.
III. TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương
1.1. Chính phủ
27
a) Vị trí, chức năng của Chính phủ
Vị trí, chức năng của Chính phủ được quy định tại Điều 94, Hiến pháp
năm 2013.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được quy định tại Điều 96, Hiến
pháp năm 2013.
c) Cơ cấu tổ chức của Chính phủ
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ do Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ quy định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, cơ cấu tổ chức của Chính phủ có những yếu tố cấu thành khác nhau.
Chính phủ gồm có:
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các Phó Thủ tướng;
- Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Số Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc
hội quyết định.
Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của
Chủ tịch nước.
Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
d) Hoạt động của Chính phủ
Hoạt động của Chính phủ được tiến hành theo ba hình thức:
- Hình thức thứ nhất là các phiên họp của Chính phủ (hoạt động của tập thể Chính phủ). Luật Tổ chức Chính phủ quy định chế độ cụ thể về các kỳ họp (hàng tháng) của Chính phủ.
Hoạt động và quyết định mang tính tập thể của Chính phủ trên những lĩnh vực cụ thể được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ. Điều này nhằm tăng cường tính trách nhiệm của tập thể Chính phủ trước các vấn đề quan trọng của đất nước. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định các công việc sau đây phải do tập thể Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số:
+ Chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ;
28
+ Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cả nhiệm kỳ, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
+ Dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, năm năm, hàng năm, các công trình quan trọng; dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương; tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm trình Quốc hội;
+ Đề án về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trình Quốc hội;
+ Các chính sách cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ,
các vấn đề quan trọng về quốc phòng an ninh, đối ngoại;
+ Các đề án trình Quốc hội về việc thành lập, sáp nhập, giải thể bộ, cơ quan ngang bộ; việc thành lập mới, nhập chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, việc thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; quyết định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
+ Quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ;
+ Các báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước
- Hình thức thứ hai là sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng là những người giúp Thủ tướng phụ trách một hoặc một số lĩnh vực theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng uỷ nhiệm thay mặt Thủ tướng lãnh đạo công tác của Chính phủ.
- Hình thức thứ ba là hoạt động của các Bộ trưởng với tư cách là thành viên tham gia vào công việc chung của Chính phủ và với tư cách là người đứng đầu một cơ quan ngang bộ.
1.2. Bộ và cơ quan ngang Bộ
a) Vị trí, chức năng
Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành (hoặc các ngành) hoặc lĩnh vực (hoặc các lĩnh vực) công tác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước đối với các loại dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực. Cơ quan ngang Bộ là khái niệm dùng để chỉ cơ quan nhà nước có địa vị pháp lý ngang với Bộ (như Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước...).
Trên thực tế, có thể chia các bộ thành 2 nhóm: bộ quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực và bộ quản lý nhà nước theo ngành.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ.
29
Bộ do Quốc hội quyết định thành lập, do đó trên nguyên tắc chung, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và văn bản quy phạm dưới luật.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ được quy định Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 của Chính phủ.
c) Cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ
Số lượng các đơn vị trong cơ cấu tổ chức mỗi bộ tùy thuộc vào từng loại bộ đã nêu trên và do Chính phủ quy định trong nghị định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của bộ.
Theo Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18-4-2012 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ bao gồm:
- Các tổ chức giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước:
+ Vụ;
+ Văn phòng Bộ;
+ Thanh tra Bộ;
+ Cục;
+ Tổng cục và tổ chức tương đương.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại Nghị định quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng Bộ:
+ Các đơn vị nghiên cứu chiến lược, chính sách về ngành, lĩnh vực;
+ Báo; Tạp chí; Trung tâm Thông tin hoặc Tin học;
+ Trường hoặc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; Học viện thuộc Bộ.
- Bộ trưởng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh sách các đơn vị sự
nghiệp công lập khác thuộc Bộ đã được cấp có thẩm quyền thành lập.
- Số lượng cấp phó của người đứng đầu các tổ chức thuộc Bộ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều 15 Nghị định 36/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ không quá 03 người.
2. Bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương
a) Vị trí pháp lý của Uỷ ban nhân dân
Vị trí pháp lý của Ủy ban nhân dân được quy định tại Điều 114, Hiến
pháp 2013:
30
- Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
- Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân từng cấp được quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Ở mỗi cấp, Uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng khái quát lại có thể có những loại nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Quản lý nhà nước ở địa phương trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và môi trường, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh, truyền hình và các lĩnh vực xã hội khác, quản lý nhà nước về đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm hàng hoá.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.
- Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân; thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, nhiệm vụ động viên, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương, quản lý hộ khẩu, hộ lịch ở địa phương, quản lý việc cư trú, đi lại của người ngoài ở địa phương.
- Phòng chống thiên tai, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; chống tham nhũng, chống buôn lậu, làm hàng giả và các tệ nạn xã hội khác.
- Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao động tiền lương, đào tạo đội ngũ công chức, viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ cấp xã, bảo hiểm xã hội theo sự phân cấp của Chính phủ.
- Tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương theo quy định
của pháp luật.
- Tổ chức, thực hiện việc thu, chi ngân sách của địa phương theo quy định của pháp luật; phối hợp với các cơ quan hữu quan để bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các loại thuế và các khoản thu khác ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân thực hiện việc quản lý địa giới đơn vị hành chính, xây dựng đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương đưa ra Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình cấp trên xét.
31
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ.
b) Cơ cấu của Uỷ ban dân nhân
Uỷ ban nhân dân gồm:
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
- Các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
- Các uỷ viên ủy ban.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là đại biểu Hội đồng nhân dân. Các thành viên
khác của Uỷ ban nhân dân không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.
Kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
Trong nhiệm kỳ nếu khuyết Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch Uỷ ban nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu. Người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân.
Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân, số thành viên Uỷ ban nhân dân do Chính phủ quy định trên cơ sở quy mô dân số, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực và nhằm bảo đảm hoạt động thống nhất quản lý ngành.
Về nguyên tắc, số lượng các cơ quan chuyên môn được xác định trên nhu cầu hoạt động quản lý tại địa phương. Không nhất thiết ở trung ương có cơ quan chuyên môn nào (bộ) thì ở địa phương phải có những cơ quan tương ứng.
Số lượng các cơ quan chuyên môn do Chính phủ quy định.
d) Hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Uỷ ban nhân dân là một thiết chế tập thể, nhưng Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban
nhân dân phải thảo luận tập thể và ra quyết định theo đa số.
32
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ việc thi hành nghị quyết sai trái các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Uỷ ban nhân dân; chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; cùng tập thể Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Chủ tịch phân công công tác cho Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân.
Đề thi thử tiếng anh B công chức có đáp án chi tiết
http://123doc.org/document/2255944-de-thi-thu-tieng-anh-b-cong-chuc-co-dap-an-chi- tiet.htm?ref=keyword_hot_sale
bộ đề thi và đáp án thi trắc nghiệm ngành thuế
http://123doc.org/document/2130597-bo-de-thi-va-dap-an-thi-trac-nghiem-nganh-thue.htm
tài liệu ôn thi kiến thức chung- kỳ thi tuyển công chức thái bình
http://123doc.org/document/2130602-tai-lieu-on-thi-kien-thuc-chung-ky-thi-tuyen-cong-chuc-thai- binh.htm
Môn kiến thức chung thi công chức thuế (CC THUE)
http://123doc.org/document/2169223-mon-kien-thuc-chung-thi-cong-chuc-thue-cc-thue.htm
tài liệu môn hành chính nhà nước thi công chức- quản lý nhà nước về kinh tế
http://123doc.org/document/2169218-tai-lieu-mon-hanh-chinh-nha-nuoc-thi-cong-chuc-quan-ly-nha- nuoc-ve-kinh-te.htm
tài liệu ôn thi công chức giáo dục 12 7 2014
http://123doc.org/document/2168482-tai-lieu-on-thi-cong-chuc-giao-duc-12-7-2014.htm
500 câu trắc nghiệm thuế có đáp án
http://123doc.org/document/2194767-500-cau-trac-nghiem-thue-co-dap-an.htm
33
Uỷ ban nhân dân làm việc theo chế độ tập thể, trong đó mỗi thành viên Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công việc trước Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan nhà nước cấp trên. Trong tập thể Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người đứng đầu, lãnh đạo công việc của Uỷ ban nhân dân, chỉ đạo các thành viên khác thực hiện công việc được phân công. Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số những việc quan trọng như chương trình làm việc, kế hoạch và ngân sách; các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế, xã hội; thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân, đề án thành lập mới, sát nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn; vạch và điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính ở địa phương.
Chuyên đề 4
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ
I. CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1. Khái niệm cán bộ, công chức
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008 (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010) thì:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, những người làm việc trong các tổ chức kinh tế của nhà nước không phải là cán bộ và cũng không phải là công chức. Đó là những người làm việc trong những thực thể hoạt động dựa trên nguyên tắc lợi nhuận.
2. Phân định cán bộ và công chức
34
Đối với nhóm lực lượng vũ trang, công an nhân dân, những người là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, hạ sỹ quan chuyên nghiệp cũng không thuộc vào phạm vi công chức.
2.1. Các điểm giống nhau
Theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì cán bộ và công
chức có những tiêu chí chung:
- Là công dân Việt Nam;
- Trong biên chế;
- Hưởng lương từ ngân sách nhà nước (riêng trường hợp công chức làm việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì tiền lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật);
- Giữ một công vụ, nhiệm vụ thường xuyên;
- Làm việc trong công sở;
- Được phân định theo cấp hành chính (cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; cán bộ cấp xã; công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; công chức cấp xã).
2.2. Các điểm khác nhau
Bên cạnh các điểm giống nhau, giữa cán bộ và công chức được phân biệt
theo tiêu chí riêng, gắn với cơ chế hình thành:
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ.
Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua con đường bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ.
Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo các văn bản Pháp luật tương ứng chuyên ngành điều chỉnh hoặc theo Điều lệ.
35
Do đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định, những ai là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội sẽ được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội quy định cụ thể; những ai là cán bộ trong cơ quan nhà nước sẽ được xác định theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định khác của pháp luật có liên quan và do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể.
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì tiêu chí để xác định công chức gắn với cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh.
Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng (thi tuyển, xét tuyển), bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh thì được xác định là công chức.
Công chức là những người được tuyển dụng lâu dài, hoạt động của họ gắn với quyền lực công (hoặc quyền hạn hành chính nhất định) được cơ quan có thẩm quyền trao cho và chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Việc quy định công chức trong phạm vi như vậy xuất phát từ mối quan hệ liên thông giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Đây là điểm đặc thù của Việt Nam, rất khác so với một số nước trên thế giới nhưng lại hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể và thể chế chính trị ở Việt Nam.
Việc quy định công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập là phù hợp với Hiến pháp của Việt Nam, thể hiện được trách nhiệm của Nhà nước trong việc tổ chức cung cấp các dịch vụ công thiết yếu và cơ bản cho người dân, bảo đảm sự phát triển cân đối giữa các vùng, lãnh thổ có mức sống chênh lệch, thực hiện mục tiêu dân chủ và công bằng xã hội.
2.3. Ý nghĩa của việc phân định cán bộ và công chức
Việc phân định cán bộ và công chức của Luật Cán bộ, công chức là căn cứ để quy định cơ chế quản lý phù hợp với cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; cán bộ cấp xã, công chức cấp xã. Với những quy định mới này, pháp luật về cán bộ, công chức đã tiếp tục quy định những vấn đề thể hiện tính đặc thù trong hoạt động công vụ của cán bộ khác với hoạt động công vụ của công chức liên quan đến các nội dung như: quyền và nghĩa vụ, bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; đào tạo, bồi dưỡng; điều động, luân chuyển; đánh giá;
Bên cạnh các quyền và nghĩa vụ chung mà cán bộ và công chức đều có, đối với cán bộ do chịu sự điều chỉnh của cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm nên cán bộ còn phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, nhân dân và trước cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Điểm này thể hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ.
36
Đối với công chức, do chịu sự điều chỉnh của cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm nên công chức còn phải chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Điểm này thể hiện trách nhiệm hành chính của công chức.
Việc quy định đánh giá cán bộ đã có những nội dung khác với đánh giá công chức. Theo Luật quy định, đánh giá cán bộ thực hiện theo 5 nội dung, trong đó có những nội dung khác với đánh giá công chức là: cán bộ phải đánh giá năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm trong công tác; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Còn đánh giá công chức gồm 6 nội dung đánh giá. Điểm khác với đánh giá cán bộ là việc đánh giá công chức gắn với năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhịêm vụ; thái độ phục vụ nhân dân.
Việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với cán bộ cũng khác với công chức. Cán bộ có 4 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm), còn công chức có 6 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc)...
3. Phân loại công chức
Theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì công chức được
phân loại như sau:
a) Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân thành loại A,
loại B, loại C và loại D, cụ thể như sau:
- Loại A gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp
hoặc tương đương.
- Loại B gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên chính
hoặc tương đương.
- Loại C gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc
tương đương.
- Loại D gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc tương
đương và ngạch nhân viên.
b) Căn cứ vào vị trí công tác, công chức được phân loại như sau:
- Công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
- Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
II. CÔNG VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ
1. Hoạt động công vụ và nguyên tắc thi hành công vụ của cán bộ,
công chức
Theo quy định tại các Điều 2 và Điều 3 của Luật cán bộ, công chức năm 2008, hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật cán bộ, công chức và các quy định khác có liên quan.
Trong khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải tuân thủ các nguyên
37
tắc sau:
“1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
2. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân.
3. Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát.
4. Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả.
5. Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ”.
2. Trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức
2.1. Trách nhiệm công vụ
Trách nhiệm công vụ là một khái niệm mang tính chính trị, tạo nên hình ảnh của chế độ, của nhà nước trong mắt người dân. Đó là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó.
Trách nhiệm trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả công vụ. Kết quả công vụ và trách nhiệm công vụ tạo nên hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức.
Hai nhân tố này luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu nói kết quả công vụ là mục tiêu, là mong muốn của chủ thể quản lý thì trách nhiệm công vụ là phương thức, cách thức để thực hiện mục tiêu của chủ thể quản lý.
Một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm với tinh thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận của cán bộ, công chức.
2.2. Trách nhiệm của cán bộ, công chức
Trách nhiệm của cán bộ, công chức là vấn đề quan trọng đang được Đảng
và Nhà nước quan tâm, chấn chỉnh.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã xác định yêu cầu của cải cách hành chính phải bảo đảm phân định rõ trách nhiệm giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tụy phục vụ nhân dân.
38
Nội dung này đã được Nhà nước thể chế hóa trong các quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008. Trước hết, Điều 3 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định các nguyên tắc trong thi hành công vụ: “Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát”, “ Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ”. Các nguyên tắc này đều xuất phát từ yêu cầu hoạt động công vụ, bảo đảm thẩm quyền phải gắn với chức trách được giao. Điều đó tạo tiền đề và cơ sở nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Để cụ thể hóa các nguyên tắc trách nhiệm, Điều 5 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 khi quy định cụ thể các nguyên tắc quản lý cán bộ, công
chức đã nhấn mạnh nguyên tắc: “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng”. Trong quản lý cán bộ, công chức (bao gồm cả việc quản lý thực thi công vụ) vấn đề trách nhiệm cá nhân và thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng nhằm xác định trách nhiệm trong hoạt động công vụ; nhờ đó việc xử lý các sai phạm hoặc việc khen thưởng, đánh giá được thực hiện một cách chính xác và kịp thời.
bộ câu hỏi và bài tập ôn thi công chức thuế 2014 ( để lại mail để lấy đáp án)
http://123doc.org/document/2263531-bo-cau-hoi-va-bai-tap-on-thi-cong-chuc-thue-2014-de-lai- mail-de-lay-dap-an.htm?ref=keyword_hot_sale
Trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008, trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở việc thực hiện các nghĩa vụ: trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến thể chế chính trị, chế độ nhà nước và nhân dân (Điều 8); trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong thi hành công vụ (Điều 9); đặc biệt là trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu (Điều 10). Mặt khác, các quy định liên quan đến đạo đức, văn hóa giao tiếp cũng như những việc cán bộ, công chức không được làm cũng thể hiện bổn phận của cán bộ, công chức - với tư cách là một mặt không thể thiếu được trong trách nhiệm của cán bộ, công chức; các quy định để khắc phục tình trạng trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ cũng được nhấn mạnh và quy định thuộc về những việc không được làm để đề cao trách nhiệm công vụ đối với cán bộ, công chức. Tương ứng với các quy định này, trong nội dung quản lý cán bộ, công chức đã có nhiều quy định liên quan đến xem xét, đánh giá trách nhiệm công vụ. Khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 56 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định trách nhiệm là một trong năm nội dung cần thiết khi đánh giá cán bộ và là một trong sáu nội dung cần thiết khi đánh giá công chức. Tính trách nhiệm trong hoạt động công vụ còn thể hiện ở quy định về việc xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ (khoản 1 Điều 30) và từ chức, miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo, quản lý (Điều 54), đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Khi cán bộ, công chức thấy không đủ sức khỏe, năng lực, uy tín thì có thể xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm - điều này bên cạnh sự thể hiện phẩm chất, lòng tự trọng và văn hóa còn thể hiện tính trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với hoạt động công vụ. Việc đánh giá công chức đã được Điều 57 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 giao trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng công chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên quản lý trực tiếp, mà không phải do tập thể đánh giá, bỏ phiếu như trước đây. Thẩm quyền quyết định và trách nhiệm trong hoạt động công vụ luôn luôn gắn với người đứng đầu hoặc người có thẩm quyền quyết định. Điều này phù hợp với nguyên tắc đề cao trách nhiệm trong hoạt động công vụ và quản lý cán bộ, công chức.
III. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
39
Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức là những vấn đề cơ bản của chế độ công vụ, được quy định trong Luật cán bộ, công chức. Nghĩa vụ và
quyền của cán bộ, công chức thể hiện mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với Nhà nước, nhân dân trong quá trình thực thi công vụ. Đây là những chế định quan trọng để điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Mặt khác, nó còn là căn cứ để Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình đối với cán bộ, công chức, nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết của một chủ thể công quyền đối với đối tượng quản lý của mình là cán bộ, công chức (phương tiện làm việc; đời sống vật chất, tinh thần; an toàn, an ninh cho cán bộ, công chức trong công vụ).
Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức thường gắn liền với nhau. Nghĩa vụ là những việc mà cán bộ, công chức có trách nhiệm và bổn phận phải thực hiện. Quyền của cán bộ, công chức là các điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt các nghĩa vụ đó. Các quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức thường được quy về hai nhóm. Trước hết, bản thân cán bộ, công chức là công dân nên họ có các nghĩa vụ và quyền như mọi công dân. Thứ hai, đặc điểm và lao động của cán bộ, công chức có những điểm khác với các dạng lao động khác trong xã hội nên họ có các nghĩa vụ và quyền mang tính đặc thù của hoạt động công vụ. Trong quá trình thực hiện công vụ, cán bộ, công chức được giao một số quyền lực công nhất định (không phải là quyền theo nghĩa thông thường). Đó là giới hạn về khả năng thực hiện các hành vi được pháp luật quy định, mặt khác, đó cũng là nghĩa vụ mà cán bộ, công chức phải thực hiện các quyền hạn đó. Quyền hạn được coi là phương tiện pháp lý để cán bộ, công chức thực thi công vụ, không phải là những đặc quyền, đặc lợi. Nghĩa vụ và quyền là hai mặt của một vấn đề, tạo nên địa vị pháp lý của cán bộ, công chức.
1. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức
Dưới góc độ pháp lý, nghĩa vụ của cán bộ, công chức được hiểu là bổn phận phải thực hiện hoặc không được thực hiện những việc hay một hành vi nào đó do pháp luật quy định. Bổn phận đó, vừa để công chức rèn luyện, phấn đấu, vừa là cơ sở để cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát, đánh giá trong quá trình sử dụng, quản lý cán bộ, công chức. Chúng ta đều biết, cán bộ, công chức là những người tự nguyện gia nhập vào hoạt động công vụ, được tuyển dụng theo chế độ thuận nhận, làm việc trong các cơ quan nhà nước để phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, được nhận tiền lương từ ngân sách Nhà nước - thực tế là từ tiền đóng thuế của người dân. Vì vậy, công chức phải có nghĩa vụ phục vụ nhân dân. Khác với các hoạt động lao động khác trong xã hội, lao động của cán bộ, công chức mang tính đặc thù, đòi hỏi phải có trí tuệ, sức sáng tạo cao, phải tận tụy và công tâm; sử dụng quyền lực nhà nước để thực thi công vụ. Các hoạt động công vụ được thực hiện bởi cán bộ, công chức có ảnh hưởng rất lớn đối với mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, góp phần quan trọng tạo nên sự hùng mạnh của quốc gia.
40
Nghĩa vụ của cán bộ, công chức thường được xác định theo hai nhóm chính: trước hết, đó là nhóm nghĩa vụ liên quan đến sự trung thành với thể
chế, với quốc gia; thứ hai đó là nhóm nghĩa vụ liên quan đến thực thi công vụ, thể hiện ở sự tận tụy, công tâm, trách nhiệm và tuân thủ luật pháp.
Qua thời gian thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Cán bộ, công chức năm 2008, theo đó nghĩa vụ của cán bộ, công chức đã được bổ sung và hoàn thiện:
“Điều 8. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và
nhân dân
1. Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
2. Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
nhân dân.
4. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Điều 9. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ
1. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn được giao.
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
3. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn
kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
4. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được
giao.
5. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu
Ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này, cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
1. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về
41
kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
2. Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công
chức;
3. Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
4. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;
5. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”
Ngoài các nhóm nghĩa vụ, Luật cán bộ, công chức năm 2008 còn quy định những việc cán bộ, công chức không được làm như là một nội dung tất yếu mà cán bộ, công chức có bổn phận phải thực hiện khi tham gia công vụ. Đây là điểm mới, thể hiện tính pháp quyền cao của hoạt động công vụ trong điều kiện hội nhập quốc tế, cụ thể:
- Những việc không được làm liên quan đến đạo đức công vụ:
+ Không được tham gia đình công.
Quy định này xuất phát từ yêu cầu xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, yêu cầu xây dựng một nền công vụ liên tục, thống nhất, thông suốt và ổn định. Nghĩa vụ của công chức là phục vụ nhân dân, là trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cán bộ, công chức chỉ có thể có quyền khiếu nại, kiến nghị nhưng không thể và không được phép tham gia đình công.
+ Không được sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật; lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi.
Quy định như vậy để bảo đảm thực hiện sự minh bạch, công khai trong công vụ và xây dựng đạo đức của công chức theo nguyên tắc cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Góp phần thực hiện tốt việc phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong hoạt động công vụ.
+ Không phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo dưới mọi hình thức.
42
Quy định này xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng về một nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xuất phát từ nguyên tắc, pháp luật là tối thượng và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Do đó, hoạt động công vụ phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Vì vậy, liên
quan đến vấn đề dân tộc, giới tính, thành phần xã hội và tín ngưỡng tôn giáo, luật quy định công chức không được phép phân biệt đối xử trong hoạt động công vụ.
- Những việc không được làm liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự: Luật cán bộ, công chức năm 2008 có một điều quy định những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự, theo đó cán bộ, công chức phải thực hiện theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.
Gắn với việc quy định nghĩa vụ của cán bộ, công chức, nhóm nghĩa vụ liên quan đến đạo đức công vụ (bao hàm cả văn hóa giao tiếp) được quy định thành một mục riêng của chương nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức.
Quy định này nhằm nhấn mạnh nghĩa vụ tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, công chức là một yêu cầu tất yếu để thực hiện việc tiếp tục đổi mới hoạt động công vụ. Gắn với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, cán bộ, công chức phải có bổn phận và nghĩa vụ xây dựng văn hóa công sở. Nội dung chính của quy định này đòi hỏi cán bộ, công chức phải có các hành vi, ứng xử và tác phong văn hóa khi giao tiếp giữa đồng nghiệp với nhau, giao tiếp với cấp trên và cấp dưới, ngôn ngữ giao tiếp, trang phục phải chuẩn mực. Khi giao tiếp với nhân dân không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn phiền hà cho nhân dân. Cụ thể như sau:
“ Điều 15. Đạo đức của cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong hoạt động công vụ.
Điều 16. Văn hóa giao tiếp ở công sở
1. Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức phải có thái độ lịch sự,
tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng,
vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
3. Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp.
Điều 17. Văn hóa giao tiếp với nhân dân
1. Cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn,
phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ.”
43
Quy định trên nhấn mạnh nghĩa vụ tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, công chức là một yêu cầu tất yếu để thực hiện việc tiếp tục đổi mới hoạt
động công vụ. Gắn với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, cán bộ, công chức phải có bổn phận và nghĩa vụ xây dựng văn hóa công sở. Nội dung chính của quy định này đòi hỏi cán bộ, công chức phải có các hành vi, ứng xử và tác phong văn hóa khi giao tiếp giữa đồng nghiệp với nhau, giao tiếp với cấp trên và cấp dưới, ngôn ngữ giao tiếp, trang phục phải chuẩn mực. Khi giao tiếp với nhân dân không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn phiền hà cho nhân dân.
2. Quyền của cán bộ, công chức
Quyền của cán bộ, công chức phải đi đôi với nghĩa vụ, là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện tốt các nghĩa vụ. Quyền của cán bộ, công chức bao gồm quyền hạn, quyền lợi và các điều kiện bảo đảm thi hành công vụ.
Quyền của cán bộ, công chức là các quy định liên quan đến chính trị, tinh thần và vật chất khi thi hành công vụ, cụ thể như các quy định về việc tham gia hoạt động chính trị theo quy định của pháp luật; được khen thưởng, tôn vinh khi hoàn thành xuất sắc công vụ; được hưởng chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và các chính sách ưu đãi...
Bên cạnh các quyền về vật chất và tinh thần, trong thi hành công vụ, cán bộ, công chức còn được giao quyền hạn tương xứng với nhiệm vụ, được pháp luật bảo vệ, được cung cấp các điều kiện làm việc theo quy định để thực thi công vụ. Việc quy định quyền của công chức là sự thể hiện thái độ, sự quan tâm của nhà nước và nhân dân đối với đội ngũ công chức trong nền hành chính nhà nước. Đồng thời, nhấn mạnh “quyền” của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ không phải là “vô hạn” mà gắn liền với nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân. Trong khi mọi người dân được làm những việc mà pháp luật không cấm thì cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định rõ cán bộ, công chức có các
quyền sau:
“Điều 11. Quyền của cán bộ, công chức được bảo đảm các điều kiện
thi hành công vụ
1. Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ.
2. Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy
định của pháp luật.
3. Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
4. Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ.
5. Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
Điều 12. Quyền của cán bộ, công chức về tiền lương và các chế độ liên
quan đến tiền lương
44
1. Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
2. Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế
độ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 13. Quyền của cán bộ, công chức về nghỉ ngơi
Cán bộ, công chức được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động. Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ, công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ.
Điều 14. Các quyền khác của cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu bị thương hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và các quyền khác theo quy định của pháp luật.”
Môn kiến thức chung thi công chức thuế (CC THUE)
http://123doc.org/document/2169223-mon-kien-thuc-chung-thi-cong-chuc-thue-cc- thue.htm?ref=keyword_hot_sale
Câu hỏi ôn thi chính sách bảo hiểm y tế
http://123doc.org/document/2478367-cau-hoi-on-thi-chinh-sach-bao-hiem-y-te.htm
45
Bên cạnh đó, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định thêm một chương riêng (Chương VII) quy định các điều kiện bảo đảm thi hành công vụ gồm: công sở, nhà ở công vụ, trang thiết bị làm việc trong công sở, phương tiện đi lại để thi hành công vụ. Quy định này để nhằm nhấn mạnh rằng: việc hoàn thành tốt công vụ của cán bộ, công chức không thể thiếu trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các điều kiện làm việc liên quan. Đặc biệt, liên quan đến trách nhiệm của Nhà nước bố trí phương tiện đi lại để thi hành công vụ cho cán bộ, công chức, Luật đã quy định trường hợp cơ quan không bố trí được phương tiện đi lại thì cán bộ, công chức được thanh toán chi phí đi lại theo quy định của Chính phủ .
Chuyên đề 5
I. KHÁI NIỆM BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiện nay các cơ quan nhà nước trong Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam gồm:
- Các cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã);
- Các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ; các bộ, cơ quan ngang
bộ; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã;
- Các cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tối cao; Toà án quân sự; các Toà án nhân dân địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện); Toà án khác do luật định; Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
- Các cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát
quân sự; Viện kiểm sát nhân dân địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện).
46
- Chủ tịch nước là một thiết chế nhà nước, thể hiện sự thống nhất của quyền lực, thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tồn tại tương đối độc lập với các cơ quan nhà nước khác.
II. ĐẶC ĐIỂM CÁC CƠ QUAN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
Thứ nhất, mỗi cơ quan nhà nước là một tổ chức công quyền có tính độc lập tương đối với cơ quan nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm những cán bộ, công chức được giao những quyền hạn nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước làm cho nó khác với các tổ chức khác là tính quyền lực nhà nước. Chỉ cơ quan nhà nước mới có quyền lực nhà nước, được nhân dân giao cho. Các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của nhân dân, giải quyết các vấn đề quan hệ với công dân. Mỗi cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền do pháp luật quy định - đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp lý mà nhà nước trao cho để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Yếu tố cơ bản của thẩm quyền là quyền ban hành những văn bản pháp luật có tính bắt buộc chung, văn bản áp dụng pháp luật phải thực hiện đối với các chủ thể có liên quan (có thể là cơ quan, tổ chức nhà nước khác, công chức, viên chức, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân).
Thứ ba, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có những giới hạn về không gian (lãnh thổ), về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước phụ thuộc vào địa vị pháp lý của nó trong bộ máy nhà nước. Giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước là giới hạn mang tính pháp lý vì được pháp luật quy định.
47
Cơ quan nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình và trong phạm vi đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình. Cơ quan nhà nước có quyền, đồng thời có nghĩa vụ phải thực hiện các quyền của mình. Khi cơ quan nhà nước không thực hiện hay từ chối thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật là vi phạm pháp luật.
Thứ tư, mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt động
riêng do pháp luật quy định.
III. CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1. Quốc hội
1.1. Vị trí pháp lý của Quốc hội
Theo Điều 69, Hiến pháp năm 2013:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70, Hiến pháp
năm 2013:
“Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước;
4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
48
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn;
9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
11. Quyết định đại xá;
12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
15. Quyết định trưng cầu ý dân”.
2. Chủ tịch nước
2.1. Vị trí pháp lý của Chủ tịch nước
Vị trí pháp lý của Chủ tịch nước quy định tại Điều 86, Điều 87 Hiến pháp
2013:
49
“Điều 86
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Điều 87
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước”.
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước quy định tại Điều 88 Hiến pháp
2013:
“Điều 88
Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;
2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;
3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá;
4. Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam;
50
5. Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban
thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
6. Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước”.
3. Chính phủ
3.1. Vị trí pháp lý của Chính phủ
Theo Điều 94, Hiến pháp năm 2013:
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.
3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ được quy định tại Điều 96, Hiến
pháp năm 2013:
“Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
3. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
51
4. Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định;
6. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người,
quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
7. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
8. Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”.
4. Tòa án nhân dân
Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định vị trí pháp lý của Tòa án nhân
dân:
“1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do
luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
5. Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107, Hiến pháp năm 2013 quy định vị trí pháp lý của Viện kiểm sát
nhân dân:
“1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định.
52
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
6. Hội đồng nhân dân
Điều 113, Hiến pháp năm 2013 quy định vị trí pháp lý của Hội đồng nhân
dân:
“Điều 113
1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân”.
7. Ủy ban nhân dân
Điều 114, Hiến pháp năm 2013 quy định vị trí pháp lý của Ủy ban nhân
dân:
“Điều 114
1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
bộ đề thi và đáp án thi trắc nhiệm công chức mới ngành thuế http://123doc.org/document/2130600-bo-de-thi-va-dap-an-thi-trac-nhiem-cong-chuc-moi-nganh- thue.htm
53
2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao”.