
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO
TÀI LIỆU
TÔN GIÁO VỚI ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
(Thuộc Đề án Hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về
dân tộc, tôn giáo theo quyết định số 219-QĐ/TTg ngày 21 tháng 2 năm 2019)
Hà Nội, tháng 11 năm 2021

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC XÃ
HỘI ....................................................................................................................................... 3
1.1. Đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội .............................................................................. 3
1.2. Một số nội dung cơ bản của đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội ................................. 9
1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội ................................................ 22
1.4. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức tôn giáo ...................................................... 40
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................... 30
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM ............................................................................................................. 32
2.1. Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo tới đạo đức cá nhân ................................................ 32
2.2. Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đến đạo đức gia đình .............................................. 45
2.3. Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đến đạo đức cộng đồng .......................................... 59
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................... 71
CHƯƠNG 3: PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO TRONG XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Ở VIỆT NAM................................................................................... 74
3.1. Bối cảnh xã hội, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát
huy giá trị đạo đức tôn giáo ................................................................................................ 74
3.2. Cơ quan Nhà nước, tổ chức tôn giáo, cá nhân và cộng đồng với việc phát huy giá
trị đạo đức tôn giáo vào việc xây dựng đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay ................... 85
3.3. Đánh giá, đề xuất kiến nghị nhằm phát huy các giá trị đạo đức tôn giáo vào việc
xây dựng đạo đức xã hội ................................................................................................... 101
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................. 113
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 115
Danh mục tài liệu tham khảo: ........................................................................................... 119

1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là nước đa tôn giáo, các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống chung
sống hòa hợp và đồng hành với dân tộc. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước, các tôn giáo đã và đang có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, bao gồm cả khía cạnh đạo đức. Nghị quyết 24 năm 1990 của Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định: Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới. Gần đây nhất là trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng tiếp tục khẳng định lại điều này và khuyến khích: Phát huy những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất
nước, coi tôn giáo là nguồn lực xã hội1.
Ngày nay, sau nhiều đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tôn
giáo ngày càng được nhìn nhận hơn ở phương diện chức năng luận (nhằm trả lời cho
câu hỏi tôn giáo đóng góp được gì cho xã hội) thay vì tập trung vào phương diện bản
thể luận như trước kia (trả lời cho câu hỏi tôn giáo là gì). Trong cách nhìn nhận về các
đóng góp của tôn giáo với xã hội, Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng tới sự đóng
góp về mặt đạo đức của tôn giáo. Trên thực tế tôn giáo trở thành nguồn lực đối với xây
dựng và phát triển đất nước, mà trong đó trước hết phải kể đến nguồn lực về mặt đạo
đức, điều chỉnh hành vi, kiến tạo cộng đồng luân lý, nhân bản.
Việc tìm tòi và khuyến khích các giá trị đạo đức tôn giáo góp phần xây dựng
đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay đã trở thành một nhiệm vụ không thể thiếu trong
công tác nghiên cứu khoa học và trong các nhiệm vụ tuyên truyền, vận động của toàn
bộ hệ thống chính trị. Sự cần thiết đó không chỉ là để cụ thể hóa các chủ trương, đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn góp phần thúc đẩy các tổ chức tôn giáo ở
Việt Nam vận dụng, lan tỏa hơn nữa các giá trị đạo đức tôn giáo của mình vào trong
đời sống xã hội. Từ đó góp phần thay đổi quan điểm, nhận thức của một bộ phận nhân
dân, cán bộ đối với tôn giáo.
Từ việc nhận thức được một cách cơ bản giá trị đạo đức tôn giáo, chúng ta có
thể vận dụng các giá trị đạo đức vào việc xây dựng đạo đức xã hội ở Việt Nam. Ngày
nay, việc phát triển cơ chế thị trường và hội nhập đã xuất hiện những mặt trái của đạo
đức xã hội. Có thể kể đến các hành vi xã hội lệch lạc, các vụ thảm án, bạo hành, lạm
dụng tình dục, làm ăn phi pháp và nhiều hành vi tiêu cực khác về đạo đức đã và đang
diễn ra bất chấp các chế tài luật pháp. Tình trạng đó, đòi hỏi bên cạnh xây dựng các
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2013): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị Quốc
gia Sự thật, tr.171.

2
quy định pháp luật, xã hội phải huy động tổng thể sức mạnh của các thiết chế văn hóa
khác nhau, bao gồm cả sức mạnh của những quy tắc luân lý, những chuẩn mực đạo
đức từ phía các tôn giáo tham gia vào việc kiến tạo đạo đức cá nhân và xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay các công trình nghiên cứu về đóng góp của đạo đức tôn
giáo đối với đạo đức xã hội ở Việt Nam vẫn chưa có sự hệ thống hóa. Phần lớn các
công trình tập trung vào nghiên cứu đóng góp của một hoặc một vài tôn giáo đối với
đạo đức xã hội. Việc cập nhật những đóng góp của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức
xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay có thể chưa đầy đủ. Vẫn thiếu những công
trình biên soạn một cách hệ thống hóa các giá trị đạo đức cơ bản của các tôn giáo và
những đóng góp của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức xã hội.
Xuất phát từ thực tế trên, gắn với bối cảnh đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay,
rõ ràng việc tiến hành biên soạn một tài liệu cơ bản về Tôn giáo đối với đạo đức xã
hội ở Việt Nam nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền về tôn giáo là hết sức cần
thiết.

3
CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO VÀ
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
1.1. Đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội
Đạo đức là những điều tốt của con người tồn tại khách quan trước khi có những
môn học về đạo đức. Đạo đức hình thành cùng với con người nhưng quan niệm về đạo
đức, nhất là các môn học đạo đức không xuất hiện đồng thời với sự hình thành đạo
đức. Những tư tưởng, quan niệm về đạo đức, nhất là khoa học về đạo đức xuất hiện
sau này khi có phân biệt ra lao động trí óc và lao động chân tay, khi đó đạo đức đã
xuất hiện trong các bàn luận của các nhà tư tưởng, các nhà triết học. Điều này có nghĩa
các nghiên cứu về đạo đức, các bàn luận về đạo đức chỉ xuất hiện khi có những tổng
kết nhất định những tri thức hay những kinh nghiệm đạo đức.
Bàn về khái niệm đạo đức cũng giống như khái niệm văn hóa, tôn giáo, có rất
nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn từ điển Công giáo đôi khi gọi đạo đức là luân
lý. Theo từ điển Brockhaus đạo đức được hiểu theo ba nội dung: (1) hệ thống các quy
phạm, chuẩn mực xác định được từ trải nghiệm văn hóa và tôn giáo, hệ giá trị quy định
hành xử mà mỗi cá nhân phải tuân thủ trong quan hệ xã hội cũng như với chính bản
thân; (2) là tư thế diện mạo luân lý của một cá nhân hay cộng đồng, (3) là sự thể hiện
các quy tắc sống luân lý trong từng hành vi cá nhân.2
Ở Phương Tây từ xa xưa người ta đã gọi đạo đức theo tiếng La tinh là moral, có
nghĩa lề thói, đạo nghĩa. Sau này moral còn được dịch là “luân lý” - luân thường đạo
lý. “Luân lý” nhiều khi được xem như đồng nghĩa với “đạo đức”. Đạo đức theo tiếng
Lạp là ethicos nghĩa là lề thói; tập tục. Hai danh từ moral hay ethicos chứng tỏ rằng,
khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ
nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta
thường phân biệt hai khái niệm, moral là đạo đức hay luân lý, còn ethicos (ethique) là
đạo đức học.
Ở Phương Đông người ta gọi những công thức, quy luật để định hướng suy
nghĩ và hành vi của con người hướng tới những việc đạo đức đó là “đạo”. “Đạo” là
một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. “Đạo” có
nghĩa là con đường, đường đi, còn “đức” để chỉ tính cách, tình cảm đạo đức của con
người. Về sau khái niệm “đạo” được vận dụng trong triết học để chỉ con đường (quy
luật) khách quan của tự nhiên. “Đạo” còn có nghĩa là con đường, quy luật sống của
2 Nguyễn Quang Hưng (2018): Đạo đức tôn giáo và biến đổi văn hóa, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế
“Tôn giáo và đạo đức trong xã hội hiện đại”, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr.189.

