
5
Nguyễn Thị Ngọc
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên
Tóm tắt: Một quốc gia có các trường đại học xuất sắc sẽ là nền tảng quan
trọng giúp cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, góp phần đưa đất
nước bứt phá, vươn đến sự hùng cường và thịnh vượng. Trong bối cảnh cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn
biến phức tạp, nhiều trường đại học đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề chuyển đổi
số trong đào tạo. Chuyển đổi số trong giáo dục đại học đang đứng trước nhiều cơ
hội thuận lợi nhưng cũng không ít rào cản. Bài viết tập trung luận giải những rào
cản khi thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học, từ hệ thống hạ tầng viễn
thông, đội ngũ giảng viên, sinh viên cho đến hệ thống pháp lý từ phía Nhà nước.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp trọng tâm tháo gỡ những rào cản, góp
phần đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Tháo gỡ, rào cản, chuyển đổi số, giáo dục đại học.
1. Đặt vấn đề
Phương thức giáo dục truyền thống vốn đã được áp dụng ở tất cả các quốc
gia và hầu hết các trường đại học trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng tỏ
ra không mấy hữu hiệu khi dịch bệnh Covid-19 bùng nổ và diễn biến phức tạp.
Trước đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bắt đầu len lỏi vào nhiều lĩnh vực,
trong đó có giáo dục, nhiều trường đại học ở Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu để
thực hiện chuyển đổi số. Tuy nhiên, các trường đại học mới chỉ thực sự quan tâm
đến chuyển đổi số khi đại dịch Covid-19 bùng phát và kéo dài. Đầu năm 2020,
lịch sử thế giới hiện đại chứng kiến những thay đổi chưa từng có trên nhiều lĩnh
vực kinh tế, xã hội. Nhiều hoạt động xã hội bị đình trệ trên phạm vi cục bộ địa
phương, quốc gia và toàn cầu do đại dịch Covid-19. Khi giáo dục vốn là nhu cầu
tất yếu của người dân, được đáp ứng hàng ngày, con người bỗng dưng phải đối
mặt với tình trạng làm thế nào để được giáo dục. Khi giáo dục trực tiếp tại trường
học là không thể, vấn đề chuyển đổi số trở thành giải pháp cứu cánh ở nhiều cấp
từ vi mô đến vĩ mô. Nhiều trường đại học và chính bản thân người học cũng được
đáp ứng nhu cầu học tập.
Có nhiều cách tiếp cận về chuyển đổi số, nhưng nội hàm chung là chuyển
tải các hoạt động của con người từ thế giới thực sang thế giới ảo, trên môi trường
mạng internet; thay đổi tổng thể của cá nhân, tổ chức và xã hội về cách sống,

6
cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ số. Sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã và đang làm thay đổi cách con
người sống, làm việc và sản xuất, trong đó cách thức học tập, giảng dạy của con
người cũng đang có sự thay đổi mạnh mẽ.
Chuyển đổi số trong giáo dục đại học không giống nhau đối với tất cả các
trường đại học hay cá nhân những người tham gia giáo dục đại học, và ngay cả
đối với cấp độ quốc gia. Bởi xuất phát điểm của chuyển đổi số là rất khác nhau.
Tuy nhiên, chuyển đổi số phải dựa trên cơ sở chung là thay đổi phương thức
chuyển tải giáo dục, giáo dục đại học được thực hiện toàn diện và đầy đủ mà
không gặp mặt, giao tiếp trực tiếp. Để chuyển tải giáo dục được triển khai trong
thực tế, cần chuyển đổi bốn yếu tố cơ bản gồm các yếu tố đầu vào, quá trình giáo
dục, các yếu tố đầu ra và môi trường giáo dục.
Chuyển đổi các yếu tố đầu vào là thực hiện số hóa toàn bộ đầu vào của quá
trình giáo dục đại học như học liệu, tài liệu, giáo trình, dữ liệu về người học,
trang thiết bị dạy và học, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo. Điều này có nghĩa,
chuyển đổi số không chỉ là số hóa các nguồn học liệu mà còn phải chuyển đổi
phần cứng.
Chuyển đổi quá trình giáo dục không chỉ là số hóa bài giảng, ứng dụng phần
mềm vào soạn bài dạy mà còn là sự chuyển đổi toàn bộ cách thức, phương thức
giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số;
toàn bộ dữ liệu về quá trình học tập của học sinh cũng được theo dõi và lưu trữ
bằng công nghệ, số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu
lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ
4.0 để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ các cấp lãnh đạo, quản lý ra quyết định
trong lãnh đạo, điều hành.
Chuyển đổi số về kết quả đầu ra có nghĩa là không chỉ kết quả đánh giá
được số hóa mà quá trình đánh giá cũng phải được triển khai, thực hiện bằng ứng
dụng công nghệ trên máy tính. Giáo viên cần tập trung vào công việc giảng dạy
và cần được giải phóng khỏi các công việc hành chính, giấy tờ như làm sổ sách,
sổ điểm, học bạ, quản lý hồ sơ học tập của người học.
Chuyển đổi về môi trường giáo dục có nghĩa là thực hiện số hóa cách thức
thực hiện, từ khâu lấy dữ liệu đầu vào cho đến khâu trích xuất dữ liệu đầu ra.
Như vậy, chuyển đổi số trong giáo dục đại học không đơn giản chỉ là số
hóa các nguồn tài liệu mà còn bao gồm việc chuyển đổi phần cứng, kéo theo việc
quản trị các nguồn lực dành cho giáo dục, đào tạo cũng thay đổi. Việc chuyển
đổi số tác động tới nhiều bên liên quan khác nhau, trong đó trực tiếp và chịu tác
động lớn nhất là người học và giảng viên, kế tiếp là đội ngũ hành chính văn
phòng, đội ngũ quản lý, những người phải trực tiếp thao tác, vận hành hệ thống.

7
Các nhà lãnh đạo và ra quyết sách cấp cao trong ngành giáo dục cũng cần phải
thay đổi tư duy quản lý.
Chuyển đổi số trong giáo dục đại học là cần thiết, mang lại nhiều kết quả
thiết thực. Tuy nhiên, chuyển đổi số trong giáo dục đại học đã và đang gặp phải
rất nhiều rào cản. Do đó, để hoạt động chuyển đổi số trong giáo đục đại học đạt
hiệu quả, cần có các giải pháp hữu hiệu, phù hợp, từng bước tháo gỡ khó khăn,
rào cản.
2. Những rào cản trong chuyển đổi số giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
Vì chuyển đổi số trong giáo dục đại học không phải là hoạt động riêng lẻ,
chuyên biệt mà nó liên quan đến nhiều chủ thể, nhiều yếu tố khác nhau. Do đó,
rào cản của quá trình này đến từ nhiều phương diện, song có thể thấy ở ba phương
diện chủ yếu bao gồm: Những rào cản từ phía cơ sở đào tạo; những rào cản từ
phía người học; và những rào cản từ phía Nhà nước.
Ở phương diện cơ sở đào tạo, chuyển đổi số trong giáo dục đại học đang
gặp phải rất nhiều rào cản, từ giảng viên, đội ngũ quản lý, kỹ thuật viên, lãnh đạo
nhà trường cho đến hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất phục vụ cho chuyển đổi số.
Khó khăn lớn đối với hầu hết các cơ sở đào tạo đại học xoay quanh hạ tầng
công nghệ. Hạ tầng, công nghệ cho chuyển đổi số bao gồm phần cứng như máy
tính, mạng kết nối internet, các ứng dụng hỗ trợ dạy học, nguồn học liệu mở, hệ
thống phần mềm hỗ trợ kiểm tra, đánh giá. Hiện nay, một số trường đã có kinh
nghiệm triển khai về đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến như Trường Đại học Mở
Hà Nội và Trường Đại học Mở TP Hồ Chí Minh, đã xây dựng và phát triển được
hệ thống quản lý học tập, hệ thống quản lý nội dung học tập, cung cấp đầy đủ nội
dung học tập, quản lý được việc học và có phương pháp kiểm tra đánh giá kết
quả học tập một cách chính xác thông qua công nghệ thông tin. Đa số các trường
đại học còn lại mới bắt đầu triển khai sử dụng phần mềm hỗ trợ dạy, học trực
tuyến thông qua các các ứng dụng như Zoom, Google Hangouts Meet, Webex,
Micorsoft Teams. Một số trường chưa triển khai, chưa sẵn sàng cho việc tổ chức
đào tạo trực tuyến đối với sinh viên chính quy, mới chỉ dùng lại ở việc cung cấp
tài liệu sinh viên tự học. Do đó, khó khăn chung mà các trường đang gặp phải là
cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu học liệu phù hợp cho
mục tiêu chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Ngoài phần cứng như hệ thống
máy tính, hệ thống mạng giúp kết nối internet, các trường phải đầu tư server và
trung tâm big data tốt, cùng với đó là xây dựng trường quay bài giảng, tất cả phải
thay đổi để triển khai dạy học số. Để chuyển đổi số thành công, một trong những
nền tảng cơ bản là phải có hạ tầng viễn thông phát triển ở một mức độ nhất định.
Nếu không giải quyết được vấn đề hạ tầng mạng thì việc tổ chức các lớp học trực

8
tuyến, xây dựng nguồn học liệu mở hay thu hút, tạo điều kiện cho người học trở
nên khó khả thi.
Vấn đề của các cơ sở đào tạo khi thực hiện chuyển đổi số, nghiêm trọng
hơn cả hạ tầng công nghệ là đội ngũ giảng viên, đội ngũ quản lý, kỹ thuật viên
và lãnh đạo các trường đại học. Để đối phó với dịch Covid-19, rất nhiều cơ sở
giáo dục đại học đã chủ động yêu cầu giảng viên tham gia giảng dạy trực tuyến
mà chưa có sự chuẩn bị. Thực tế cho thấy, một bộ phận giảng viên chưa thích
nghi kịp với công nghệ mới; đa số giảng viên chưa sẵn sàng cho hoạt động giảng
dạy, nghiên cứu, kết nối, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nghiên
cứu và giảng dạy, họ đã quen với phương thức đào tạo truyền thống và chưa sẵn
sàng thay đổi để thích ứng với công nghệ. Ở nhiều trường đại học, giảng viên
phải tham gia các lớp tập huấn công nghệ liên tục, khiến họ cảm thấy áp lực, quá
tải. Công nghệ phát triển là công cụ hữu hiệu hỗ trợ giảng viên thiết kế bài giảng,
nghiên cứu tài liệu, chia sẻ kiến thức, nhưng cũng chính công nghệ này sẽ dẫn
đến tình trạng sao chép tài liệu, bài giảng, và ngay cả bài học của người học trở
nên dễ dàng hơn. Điều này làm cho nhiều giảng viên không muốn tham gia vào
quá trình chuyển đổi số. Hơn nữa, gần đây giảng viên mới được bắt đầu tiếp cận
về phương pháp, cách thức đào tạo, học theo hình thức trực tuyến, họ chưa thể
thành thạo ngay được, họ cần có thời gian thích ứng với công nghệ, phương pháp.
Để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học, mỗi giảng viên phải năng
động, chủ động làm chủ công nghệ, chủ động học tập, tìm hiểu và thay đổi từ
trong tư duy để bắt kịp thực tế, đảm bảo giảng viên phải là nhân tố chủ động nhất
cho công cuộc chuyển đổi số này. Tuy nhiên, với thực trạng đội ngũ giảng viên
chưa thực sự sẵn sàng, ngại thay đổi, thiếu cả kiến thức và kỹ năng sử dụng công
nghệ như hiện nay thì đây là một nút thắt rất lớn, cản trở quá trình chuyển đổi số
trong giáo dục đại học.
Bên cạnh giảng viên, đội ngũ quản lý cũng đang là rào cản đối với quá trình
chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Tương tự giảng viên, đội ngũ quản lý cũng
mới bắt đầu làm quen với dạy học số. Do đó, bản thân họ thiếu kinh nghiệm quản
lý, chưa nắm rõ các quy trình quản lý phù hợp với đào tạo trực tuyến. Đội ngũ
kỹ thuật viên cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình chuyển đổi số. Quan
trọng hơn là đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở các trường đại học vẫn chưa thực sự sẵn
sàng thay đổi tư duy, sẵn sàng đổi mới để vận hành một hệ thống giáo dục mới.
Rõ ràng để vận hành một hệ thống giáo dục được số hóa đòi hỏi tư duy và năng
lực quản lý của lãnh đạo nhà trường phải thay đổi. Đội ngũ này phải tìm ra cách
thức nắm bắt những gì có thể trên không gian ảo, đưa ra các quyết sách kịp thời
khai thác hiệu quả công nghệ. Bản thân họ cũng cần trang bị hiểu biết và tư duy
số để có thể làm chủ công nghệ và hiểu rõ giới hạn của công nghệ. Tuy nhiên,
cũng như đội ngũ giảng viên và đội ngũ quản lý giáo dục, nhiều lãnh đạo ở các

9
cơ sở giáo dục đại học chưa xác định đúng vị trí cho chuyển đổi số, vẫn thiên về
giáo dục truyền thống, chưa thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của công
nghệ, do đó chưa đưa ra quyết sách phù hợp để thực hiện chuyển đổi số trong
giáo dục đại học.
Rào cản thứ hai đến từ phía người học. Đại dịch Covid-19 buộc người học
mà đa số là sinh viên phải lựa chọn học online mà chưa hề có sự chuẩn bị. Đa số
sinh viên, học viên chưa sẵn sàng với việc học tập trực tuyến. Bên cạnh những
lý do kỹ thuật như trang thiết bị và hạ tầng viễn thông, có những vấn đề do
phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên đã chưa thuyết phục được
người học. Người học cần có sự chuẩn bị cả về tâm thế, kỹ năng để tham gia đào
tạo online. Người học cũng cần được hỗ trợ, hướng dẫn kỹ càng từ phía cơ sở
đào tạo về phương pháp học online. Tuy nhiên, cho đến nay, những điều này của
người học vẫn chưa được khắc phục. Thêm vào đó, thực tế cho thấy, khả năng tự
học, đọc tài liệu và lĩnh hội kiến thức của sinh viên hạn chế hơn so với phương
thức đào tạo truyền thống, đặc biệt với các môn học cần sự tương tác giữa giảng
viên và người học thì điều này càng được bộc lộ rõ. Một bộ phận người học đã
quen với phương thức đào tạo truyền thống, ngại thay đổi theo phương thức đào
tạo mới.
Rào cản thứ ba đến từ phía Nhà nước. Hệ thống pháp lý, hạ tầng viễn thông,
năng lực quản trị số của quốc gia, hệ sinh thái số cũng là những cơ sở quan trọng
để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện chuyển đổi số. Song hiện nay, tất cả các
yếu tố này đều chưa đáp ứng được yêu cầu để chuyển đổi số trong giáo dục nói
chung và giáo dục đại học nói riêng. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có văn bản luật
quy định rõ về đào tạo trực tuyến, một số quy định trước đó còn chung chung và
tỏ ra không còn phù hợp trong bối cảnh hiện tại. Hành lang pháp lý về bản quyền
tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin đều đang là những dấu bỏ ngỏ lớn đối với
quá trình số hóa lĩnh vực giáo dục đại học. Tất cả những yếu tố cơ bản để thực
hiện chuyển đổi số như tuyển sinh, quản lý lớp, kiểm tra, đánh giá người học, cấp
bằng, xây dựng hệ thống học liệu mở, bản quyền sở hữu trí tuệ, cấp văn bằng,
chứng chỉ khi đào tạo trực tuyến đều chưa được pháp luật quy định rõ ràng. Điều
này sẽ gây khó cho các cơ sở đào tạo đại học vì không có một khung pháp lý
chung để thực hiện. Mỗi cơ sở đào tạo sẽ thực hiện một kiểu theo phương thức
của mình. Ngoài hệ thống pháp lý, hệ thống hạ tầng viễn thông là nền tảng cứng
cần thiết và quan trọng bậc nhất để chuyển đổi số trong giáo dục. Hạ tầng này
không chỉ ở các cơ sở giáo dục đại học mà nó còn là hệ thống hạ tầng viễn thông
quốc gia. Việt Nam xây dựng và phát triển khá nhanh hệ thống hạ tầng viễn thông
quốc gia nhưng vẫn còn chưa đồng đều ở các địa phương, khiến cho việc số hóa
giáo dục gặp khó khăn. Năng lực quản trị số của quốc gia cũng chưa cao, làm ảnh
hưởng đến hoạt động quản lý các cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện số hóa.

