
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 478 - THÁNG 5 - SỐ 1 - 2019
137
lệ NB hài lòng trong chăm sóc chung của điều
dưỡng tại nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so
với nghiên cứu của tác giả Nigussie Tadesse
Sharew với mức độ hài lòng chung là 64,7%[5].
Sự khác biệt này có thể là do trong nghiên cứu
của chúng tôi, tiêu chí đánh giá sự hài lòng của
bệnh nhân khắt khe hơn so với các nghiên cứu ở
nhóm có tỷ lệ cao hơn. Cụ thể, trong nghiên cứu
này, người bệnh phải cảm thấy hài lòng ở tất cả
48 mục nhỏ trong 8 tiểu mục, điều này cũng lý
giải cho việc tỷ lệ hài lòng rất cao ở từng tiểu
mục đều từ 90% trở lên nhưng tỷ lệ hài lòng
chung lại chỉ khoảng 79,1%. Lý do là bởi những
NB hài lòng ở tiểu mục này nhưng lại không hài
lòng ở tiểu mục khác dẫn tới sự chệnh lệch đó.
Ở nhóm có tỷ lệ thấp hơn có nghiên cứu của tác
giả Nigussie Tadesse Sharew thực hiện tại
Ethiopia có thể lý giải do sự khác biệt về trình độ
chuyên môn của đội ngũ điều dưỡng cũng như
sự đáp ứng dịch vụ y tế của bệnh viện nước này.
Tuy tỷ lệ hài lòng chung còn thấp so với
nhiều nghiên cứu khác nhưng khi được khảo sát
về việc quay trở lại điều trị cho lần tiếp theo thì
100% bệnh nhân đều đã chọn viện Tim Hà Nội.
Điều này cho thấy được sự tin tưởng của NB vào
đội ngũ nhân viên y tế nói chung và sự chăm sóc
điều dưỡng nói riêng.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ hài lòng về dịch vụ y tế chung của bệnh
viện khá cao (90,0%), tỷ lệ hài lòng chung với
chăm sóc điều dưỡng qua 8 tiểu mục là 79,1%.
Trong đó cao nhất ở tiểu mục hài lòng với thái độ,
kỹ năng giao tiếp của điều dưỡng với người bệnh,
bác sỹ (97,6%), thấp nhất ở tiểu mục hài lòng
chăm sóc điều dưỡng sau khi can thiệp (92,9%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thrasher C. and Purc-Stephenson R.J., Patient
satisfaction with nurse practitioner care in
emergency departments in Canada. J Am Acad
Nurse Pract, 2008. 20(5).
2. Nguyễn Hoa Pháp, Mức độ hài lòng của người
bệnh điều trị nội trú về chăm sóc điều dưỡng tại
trung tâm tim mạch Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
2016, Đại học y Hà Nội: Luận văn Thạc sỹ Quản lý
Bệnh viện.(6)
3. Đào Thanh Lam, Khảo sát sự hài lòng của người
bệnh về dịch vụ chăm dóc điều dưỡng tại Bệnh
viện Y học Cổ truyền Trung ương 2016, Đại học y
Hà Nội: Khoá luận tốt nghiệp Cử nhân y khoa.
4. Bộ Y tế, Công văn Số: 1334/KCB-QLCL về việc
hướng dẫn kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh
viện. 2015: Hà Nội.
5. Trần Thị Cẩm Tú, Bùi Đc Phú, and Trần Thị
Xuân Hương và cộng sự, Nghiên cứu sự hài
lòng của người bệnh về công tác khám chữa bệnh
tại bệnh viện Trung ương Huế năm 2012. Tạp chí y
học thực hành, 2014. 903(1): p. 54-57.
6. Trần Sỹ Thắng, Nguyễn Hồng Lam, and
Trương Thị Như, Khảo sát hài lòng của bệnh
nhân nội trú đối với sự phục vụ của điều dưỡng tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh. 2016: Hà Tĩnh.
7. Sharew, N.T., et al., Investigating admitted
patients' satisfaction with nursing care at Debre
Berhan Referral Hospital in Ethiopia: a cross-
sectional study. 2018. 8(5): p. e021107.
THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI THỰC HÀNH
SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRỒNG CAM, QUÝT TẠI HUYỆN BẠCH THÔNG, TỈNH BẮC KẠN NĂM 2018
Vũ Hữu Tuyên1, Trần Thị Tuyết Hạnh2
TÓM TẮT37
Nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) thường
độc hại với sức khoẻ con người và có nguy cơ cao gây
ô nhim môi trường sinh thái nếu không được quản lý
chặt chẽ và sử dụng đúng cách. Nghiên cứu mô tả cắt
ngang sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng
trên 385 đối tượng kết hợp định tính. Mục tiêu nghiên
cứu là mô tả thực hành sử dụng thuốc BVTV của
người dân tộc thiểu số trồng cam, quýt tại huyện Bạch
1Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
2Trường Đại học Y tế Công cộng
Chịu trách nhiệm chính: Vũ Hữu Tuyên
Email: vuhuutuyen@gmail.com
Ngày nhận bài: 2.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 16.4.2019
Ngày duyệt bài: 22.4.2019
Thông, tỉnh Bắc Kạn năm 2018 và một số yếu tố liên
quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy trung bình điểm
thực hành của ĐTNC là 14,6 (điểm tối đa: 23), trong
đó ĐTNC có điểm thực hành thấp nhất là 7 và cao
nhất là 20. Phân tích mô hình hồi quy tuyến tính cho
thấy, có mối liên quan giữa kiến thức, địa điểm, trình
độ học vấn, nhóm dân tộc và thực hành sử dụng
thuốc BVTV an toàn (p < 0,05). Khuyến nghị cho
chính quyền địa phương là cần quy hoạch, xây dựng
các điểm thu gom, xử lý vỏ bao bì thuốc BVTV, tăng
cường sử dụng biện pháp thay thế thuốc BVTV như sử
dụng máy cắt cỏ, áp dụng mô hình trồng cây ăn quả
và sử dụng thuốc BVTV an toàn.
Từ khóa:
Thực hành, yếu tố liên quan, thuốc bảo
vệ thực vật, người dân tộc thiểu số, Bắc Kạn.
SUMMARY
PRACTICES OF USING PESTICIDES AND

vietnam medical journal n01 - MAY - 2019
138
SOME RELATED FACTORS AMONG ETHNIC
MINORITIES GROWING ORANGE AND
TANGERINE IN BACH THONG DISTRICT,
BAC KAN PROVINCE IN 2018
Pesticides are often toxic chemicals that are very
harmful to human health and have high risk of
polluting the environment if they are not managed
strictly and used properly. This was a cross sectional
study applied both quantitative and qualitative
research methods with the sample size for quantitative
study was 385 farmers. The study aimed to describe
knowledge and practices of using pesticides by ethnic
minorities growing orange and tangerine in Bach
Thong District, Bac Kan Province in 2018, and to
identify some related factors. The research results
showed that the average knowledge score of the
research objects was 11.5 (maximum score: 23), in
which the lowest score was 5 and the highest was 20.
The average practice score of the research objects
was 14.6 (maximum score: 23), in which the lowest
score was 7 and the highest was 20. Analyzing the
linear regression model, we found a correlation
between knowledge, education level, ethnic group and
safe pesticide practice (p < 0.05). Based on the
research results, we provided some recommendations
to the local authorities and the people growing orange
and tangerine such as: planning and construction of
pesticide package collection points, pesticide
packaging safe disposal, strengthening the use of lawn
mowers, promoting the application of biological
insecticides, application of fruit tree growing models
and using pesticides safely and effectively.
Keywords:
Practices, related factors, pesticide
uses, ethnic minority farmers, Bac Kan Province
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc trừ sâu, bệnh,
bảo vệ và tăng năng suất cây trồng, đảm bảo
vấn đề an ninh lương thực cho các quốc gia. Tỷ
lệ tăng trưởng thuốc BVTV trong những năm gần
đây luôn duy trì từ 2 - 3% [1]. Việt Nam là một
trong những nước sản xuất nông nghiệp quy mô
lớn với diện tích đất canh tác nông nghiệp lên tới
10.000 km2 [2]. Những năm gần đây, do thay
đổi cơ cấu cây trồng, tăng diện tích, thâm canh
tăng vụ và biến đổi khí hậu làm cho tình hình
sâu bệnh din biến phức tạp hơn, xuất hiện
nhiều loài sâu bệnh hại mới. Vì vậy, ngoài số
lượng thì chủng loại thuốc BVTV sử dụng cũng
tăng lên. Tính đến năm 2018, danh mục thuốc
BVTV được phép sử dụng trong nông nghiệp ở
Việt Nam đã lên tới 1.741 hoạt chất [3]. Trong
khi đó các quốc gia trong khu vực thì danh mục
này chỉ có khoảng từ 400 đến 600 hoạt chất [2].
Việc sử dụng rộng rãi thuốc BVTV cũng đã và
đang ảnh hưởng tới môi trường sinh thái và sức
khoẻ con người. Hàng năm có khoảng 3 triệu vụ
ngộ độc do thuốc BVTV trên thế giới, trong đó có
khoảng 220.000 ca tử vong [4]. Các nghiên cứu
trước đây cho thấy, vẫn còn tỷ lệ khá lớn người
nông dân thực hành sử dụng thuốc BVTV chưa
an toàn. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu trước
đây thì đối tượng nghiên cứu thường là người
nông dân nói chung và chưa đi sâu khai thác
trên đối tượng là người dân tộc thiểu số. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm mô tả mô tả thực
hành sử dụng thuốc BVTV của người dân tộc thiểu
số trồng cam, quýt tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc
Kạn năm 2018 và một số yếu tố liên quan.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đi tưng nghiên cu (ĐTNC): là người
dân tộc thiểu số trồng cam, quýt có sử dụng
thuốc BVTV cho cây cam, quýt.
Thời gian và địa điểm nghiên cu: Nghiên
cứu được tiến hành năm 2018 tại 02 xã Dương
Phong và Quang Thuận, huyện Bạch Thông, tỉnh
Bắc Kạn. Đây là 02 xã có diện tích trồng cam,
quýt chiếm khoảng hơn 60% tổng diện tích trồng
cam, quýt của huyện và hơn 80% dân số là
người dân tộc thiểu số.
Thiết kế và cỡ mu nghiên cu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu
được tính theo công thức:
Trong đó:
n là số đối tượng tham gia nghiên
cứu; p là tỷ lệ ĐTNC ước tính có thực hành
chung về sử dụng thuốc BVTV đạt, tham khảo
nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hoa năm 2016
sử dụng p = 0,408 [5]; Z là hệ số tin cậy, ứng
với độ tin cậy 95% thì Z = 1,96; α: mức ý nghĩa
(=0,05); d là sai số tuyệt đối chấp nhận, d =
0,05. Thay vào công thức trên và làm tròn được
n = 372. Thực tế đã điều tra được 385 đối tượng
nghiên cứu. Tổng số lượng ĐTNC được quan sát
là 20 ĐTNC.
Phương pháp chọn mu và biến s: Sử
dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nghiên hệ
thống để chọn ĐTNC. Số liệu được thu thập qua
bộ câu hỏi có cấu trúc. Các nhóm biến số chính
của nghiên cứu bao gồm: thông tin chung về
nhân khẩu học và thực hành sử dụng thuốc
BVTV an toàn (điểm thực hành tối đa là 23).
Xử lý và phân tích s liệu: Nhóm nghiên
cứu sử dụng phần mềm Epidata để nhập liệu và
phần mềm SPSS để xử lý và phân tích số liệu.
Nghiên cứu được tiến hành sau khi được Hội
đồng đạo đức thông qua theo quyết định số
001/2018/YTCC-HD3 ngày 04 tháng 01 năm 2018
và được sự cho phép của lãnh đạo xã Dương
Phong và Quang Thuận huyện Bạch Thông.

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 478 - THÁNG 5 - SỐ 1 - 2019
139
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về đi tưng
nghiên cu: Tuổi trung bình của ĐTNC là 43,6
tuổi, trong đó ĐTNC có tuổi lớn nhất là 70 tuổi
và nhỏ tuổi nhất là 20 tuổi. Nam giới chiếm gần
2/3 tổng số ĐTNC (65,2%) và nữ giới là hơn 1/3
(34,8%). Nhóm dân tộc Tày chiếm tỷ lệ lớn nhất
(79,2%), tiếp theo là dân tộc Dao (19%) và dân
tộc khác (Nùng, Ngái) chiếm tỷ lệ nhỏ nhất
(1,8%). Nhóm ĐTNC có trình độ học vấn là
THCS chiếm tỷ lệ lớn nhất (41,6%), tiếp theo là
tiểu học (28,6%), THPT trở lên (25,1%) và vẫn
còn 4,7% ĐTNC không biết chữ. Đa số ĐTNC có
thâm niên phun thuốc BVTV từ 10 năm trở lên
(71,4%) và dưới 10 năm chiếm tỷ lệ thấp
(28,6%). Về loại dụng cụ phun, gần 2/3 ĐTNC
sử dụng máy phun (66,5%), tiếp theo là bình
phun điện (32,7%) và bình phun cơ (0,8%).
3.2. Thực hành về sử dụng thuc BVTV:
Trung bình điểm thực hành của ĐTNC là 13,5
(điểm tối đa là 22). ĐTNC có điểm thực hành
thấp nhất là 7 và cao nhất là 20. Đa số ĐTNC
kiểm tra nhãn mác khi mua thuốc BVTV
(91,7%), đọc thông tin trên vỏ bao bì thuốc
BVTV (89,1%) và kiểm tra dụng cụ trước khi
phun (97,4%). Về liều lượng pha thuốc BVTV,
85,2% ĐTNC pha theo chỉ dẫn trên bao bì; tuy
nhiên, vẫn có 3,4% ĐTNC pha đặc hơn, 4,4%
pha loãng hơn, 12,5% pha ước lượng theo kinh
nghiệm và 3,9% pha theo hướng dẫn của người
bán thuốc BVTV. Đa số ĐTNC lựa chọn thời điểm
đi phun là buổi sáng sớm (99,2%) hoặc buổi
chiều tối (60,3%). Tỷ lệ ĐTNC lựa chọn đi phun
lúc trời mát là 96,9%, trời nắng to là 0,3% và
phun vào bất kỳ thời tiết nào là 0,5%. Có 88%
ĐTNC phun theo chiều gió, 6,8% phun ngược
chiều gió và 5,2% không quan tâm đến hướng
gió. Các loại thuốc BVTV chứa hoạt chất có độ
độc cao (nhóm Ib) với vạch màu cảnh báo độ
độc trên vỏ bao bì là màu vàng vẫn được sử
dụng. Đặc biệt, có một số người dân vẫn dùng
thuốc diệt cỏ có hoạt chất Paraquat, thuốc trừ
bệnh có hoạt chất Carbendazim và thuốc trừ sâu
có hoạt chất Trichlorfon (Chlorophos) đây là 03
loại hoạt chất đã bị loại khỏi danh mục được cấp
phép lưu hành sử dụng tại Việt Nam từ năm 2017.
Biểu đồ 1: Thực hành lựa chọn địa điểm pha thuc BVTV
Tỷ lệ ĐTNC lựa chọn nương cam, quýt là địa
điểm để pha thuốc BVTV trong phỏng vấn (n =
385) là 90,6%, tuy nhiên, tỷ lệ này theo quan
sát (n = 20) giảm xuống còn 45%. Tỷ lệ ĐTNC
pha thuốc tại khe nước, sông, suối, ao, hồ qua
phỏng vấn là 8,4%, tỷ lệ này theo quan sát tăng
lên là 45% (Biểu đồ 1).
Mặc dù sử dụng đầy đủ BHLĐ khi pha, phun
là biện pháp giúp phòng ngừa phơi nhim với
thuốc BVTV, tuy nhiên các ĐTNC vẫn chưa chú
trọng sử dụng đồ BHLĐ. Biểu đồ 2 cho thấy,
không có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sử dụng
BHLĐ khi pha và phun ở các đối tượng phỏng
vấn (n = 385) và quan sát (n = 20). Theo kết
quả phỏng vấn, ủng là loại đồ BHLĐ được ĐTNC
sử dụng với nhiều nhất (96,6%), tiếp theo là mũ,
nón (84,4%), khẩu trang, khăn che (83,6%),
găng tay (51,2%). Quần, áo bảo hộ/áo mưa và
kính là 02 loại đồ BHLĐ được ĐTNC ít sử dụng
nhất với tỷ lệ lần lượt là 22,9% và 21,3%.
Biểu đồ 2: Thực hành sử dụng bảo hộ lao động khi pha, phun thuc BVTV

vietnam medical journal n01 - MAY - 2019
140
Các ĐTNC xử lý thuốc đã pha dư thừa bằng
cách phun đi phun lại vào cây và gốc cây cam,
quýt cho hết (93,2%); đổ, chôn tại nương cam,
quýt (3,6%); để vào phi nước, đậy kín để dùng
lần sau (0,8%); đổ xuống khe nước, sông suối
(0,5%) và không pha thừa (1%). Tuy nhiên, với
thuốc chưa pha dư thừa, ĐTNC lại xử lý bằng
cách mang về lán hoặc nhà để dùng lần sau
(79,2%), cho vào túi nilon và treo ở gốc cây
(23,9%), không mua thừa (1,6%) và pha, phun
lại cho hết (1%). Về xử lý vỏ bao bì thuốc BVTV
sau phun, các ĐTNC xử lý bằng cách gom vào để
chôn, đốt (91,7%), gom vào một chỗ hoặc treo
gốc cây nhưng không đốt (3,2%) và vứt ngay tại
chỗ pha (1,6%). Có 51,9% ĐTNC thực hành
đúng về lựa chọn địa điểm cất giữ thuốc BVTV.
Đa số ĐTNC vệ sinh cá nhân sau phun thuốc
BVTV bằng cách tắm xà phòng và nước sạch
(95,3%), tiếp theo là chỉ tắm với nước sạch
(3,1%, Bảng 1). Trong số 385 ĐTNC có 102
ĐTNC từng bị hoặc gặp người khác bị nhim độc
thuốc BVTV khi đi phun; các biện pháp xử trí của
ĐTNC trong tình huống này là loại bỏ thuốc
BVTV như cởi bỏ đồ bảo hộ, rửa xà phòng,…
Bảng 1: Nhóm thực hành vệ sinh cá nhân sau phun và xử trí khi bị nhiễm độc
Thực hành
Tần s (n=385)
Tỷ lệ (%)
Vệ sinh cá nhân sau phun
Tắm xà phòng và nước sạch
367
95,3
Chỉ tắm nước sạch
12
3,1
Tắm nước chanh, lá cây
3
0,8
Chỉ rửa mặt, chân, tay
3
0,8
Đã từng bị hoặc gặp người khác bị nhiễm độc thuc BVTV
Có
102
26,5
không
283
73,5
Xử trí khi bị nhiễm độc
(n = 102)
Loại bỏ thuốc BVTV (cởi đồ bảo hộ, rửa xà phòng,…)
36
35,3
Tự xử lý tại nhà
49
48
Đến cơ sở y tế
58
56,9
3.3. Một s yếu t liên quan đến thực
hành sử dụng thuc BVTV an toàn
Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính với
phương pháp Enter cho giá trị Ajusted R2 =
0,346; F= 41,561; p<0,001. Kết quả ở Bảng 2
cho thấy phương trình tuyến tính: Điểm thực
hành = 6,171 + 0,607 x (Điểm kiến thức) +
0,667 x (Nhóm dân tộc) + 1,476 x (Trình độ học
vấn tiểu học) + 2,233 x (Trình độ học vấn THCS)
+ 2,446 x (Trình độ học vấn THPT trở lên). Điều
này có nghĩa là khi tăng thêm một điểm kiến
thức thì điểm thực hành sẽ tăng thêm 0,607;
nhóm dân tộc thay đổi từ dân tộc Tày sang
nhóm dân tộc khác thì điểm thực hành tăng
thêm 0,667; khi trình độ học vấn là tiểu học
điểm thực hành tăng 1,476; khi trình độ học vấn
là THCS thì điểm thực hành sẽ tăng thêm 2,233;
và khi trình độ học vấn là THPT trở lên thì điểm
thực hành sẽ tăng thêm 2,446 điểm (Bảng 2).
Bảng 2: Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến một s yếu t liên quan đến thực hành sử
dụng thuc BVTV an toàn
Đặc điểm
Hệ s hồi quy
Ý nghĩa thng kê p
Khoảng tin cậy
Điểm kiến thức
0,607
< 0,001
0,503 – 0,711
Nhóm dân tộc
0,667
< 0,05
0,059 – 1,275
Trình độ học vấn tiểu học
1,476
< 0,05
0,327 – 2,625
Trình độ học vấn THCS
2,233
< 0,001
1,063 – 3,404
Trình độ học vấn ≥ THPT
2,446
< 0,001
1,217 – 3,675
Phương trình tuyến tính: Điểm thực hành = 6,171 + 0,607 x (Điểm kiến thc) + 0,667 x
(Nhóm dân tộc) + 1,476 x (Trình độ học vấn tiểu học) + 2,233 x (Trình độ học vấn
THCS) + 2,446 x (Trình độ học vấn THPT trở lên).
Trong đó biến phụ thuộc: Điểm thực hành về sử dụng thuốc BVTV đúng cách.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Thực hành sử dụng thuc BVTV: Có
tới 91,7% ĐTNC kiểm tra nhãn mác khi mua và
89,1% ĐTNC đọc thông tin trên vỏ bao bì thuốc
BVTV, cao hơn kết quả nghiên cứu tại Kuwait
năm 2017 với chỉ 29% ĐTNC đọc các thông tin
trên vỏ bao bì thuốc BVTV [6]. Người dân vẫn sử
dụng các thuốc BVTV có độ độc cao (nhóm Ib),

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 478 - THÁNG 5 - SỐ 1 - 2019
141
đặc biệt, vẫn còn tình trạng sử dụng thuốc BVTV
có chứa hoạt chất bị loại khỏi danh sách được
phép sử dụng từ năm 2017 như hoạt chất
Paraquat, Carbendazim, Trichlorfon
(Chlorophos). Kết quả nghiên cứu này cao hơn
kết quả nghiên cứu tại Trung Quốc năm 2016 ở
tỷ lệ pha theo chỉ dẫn in trên bao bì (85,2% so
với 69,2%), tương đương ở tỷ lệ pha theo kinh
nghiệm (12,5% so với 12,54%) và thấp hơn ở tỷ
lệ ĐTNC pha loãng hơn hoặc đặc hơn (7,8% so
với 17,78%) [7]. Do điều kiện thực tế địa bàn
nghiên cứu là miền núi, các ĐTNC cho biết
thường chọn hướng di chuyển phun từ trên đỉnh
đồi, núi xuống phía dưới và có 88% đối tượng
nghiên cứu lựa chọn hướng phun đúng là phun
xuôi theo chiều gió; tỷ lệ này cao gấp hơn 4 lần
so với kết quả nghiên cứu của Jallow và cộng sự
tại Kuwait năm 2017 với 18% [6].
Chỉ có 4,5% ĐTNC thực hành đúng về sử
dụng đồ BHLĐ khi pha, phun. Kết quả này tương
tự kết quả nghiên cứu tại Kuwait năm 2017 (gần
5%) [6]. Đa số ĐTNC vệ sinh cá nhân sau phun
bằng cách tắm xà phòng và nước sạch (95,3%),
cao hơn kết quả nghiên cứu tại Kuwait năm 2017
(82%) [6]. Trong số những người có biểu hiện bị
nhim độc thuốc BVTV (n =102) thì có 56,9%
đưa đến cơ sở y tế. Đối với xử lý thuốc đã pha
dư thừa, đa số ĐTNC xử lý bằng cách phun đi
phun lại vào cây và gốc cây cam, quýt cho hết
(93,2%), kết quả này khác kết quả nghiên cứu
của Jallow và cộng sự với 82% ĐTNC xử lý thuốc
bằng cách phun cho cây trồng khác [6]. Đa số
ĐTNC xử lý bỏ bao bì sau phun bằng cách gom
vào để chôn, đốt tại nương (91,7%).
4.2. Một s yếu t liên quan đến thực
hành sử dụng thuc BVTV: Các yếu tố liên
quan đến kiến thức và thực hành sử dụng thuốc
BVTV an toàn được chúng tôi xác định thông qua
kiểm định t-test không ghép cặp, phân tích
phương sai ANOVA và sử dụng mô hình hồi quy
tuyến tính. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối
liên quan giữa địa điểm, nhóm dân tộc, trình độ
học vấn, kiến thức sử dụng thuốc BVTV an toàn
và thực hành sử dụng thuốc BVTV an toàn. Các
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Nghiên cứu này không tìm thấy mối liên quan
giữa giới tính, tuổi và thực hành sử dụng thuốc
BVTV an toàn (p>0,05).
V. KẾT LUẬN
Trung bình điểm thực hành của đối tượng
nghiên cứu là 13,5. ĐTNC có điểm thực hành
thấp nhất là 6 và cao nhất là 20 (điểm tối đa là
22). Các đối tượng nghiên cứu thực hành khá tốt
về kiểm tra nhãn mác (91,7%), đọc thông tin
trên vỏ bao bì khi mua (89,1%), lựa chọn thời
điểm đi phun (99,2%), kiểm tra dụng cụ trước
khi phun (97,4%), lựa chọn hướng gió khi phun
(88,1%), vệ sinh cá nhân sau khi phun (95,3%).
Người dân vẫn sử dụng nhóm thuốc BVTV có độ
độc cao (nhóm Ib), thậm chí vẫn còn tình trạng
sử dụng thuốc ngoài danh mục cho phép. Có mối
liên quan giữa địa điểm, trình độ học vấn, nhóm
dân tộc, kiến thức và thực hành sử dụng thuốc
BVTV an toàn (p<0,05) với phương trình tuyến
tính: Điểm thực hành = 6,171 + 0,607 x (Điểm
kiến thức) + 0,667 x (Nhóm dân tộc) + 1,476 x
(Trình độ học vấn tiểu học) + 2,233 x (Trình độ
học vấn THCS) + 2,446 x (Trình độ học vấn
THPT trở lên).
Khuyến nghị: Nên triển khai mô hình trồng
cam an toàn như theo tiêu chuẩn VietGap,
GlobalGap... Khuyến khích người dân sử dụng
các biện pháp thay thế thuốc BVTV như sử dụng
máy cắt cỏ, dùng bẫy sinh học… hoặc sử dụng
thuốc BVTV sinh học. Giám sát, cập nhật kịp thời
các dịch, bệnh trên cây cam, quýt để người dân
có thể phòng, chống các dịch, bệnh này an toàn
và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt
Nam. Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
trong nông nghiệp ở Việt Nam. 2013 [cited 2017
30-3]; Available from:
http://www.vusta.vn/vi/news/ Thong-tin-Su-kien-
Thanh-tuu-KH-CN/Thuc-trang-su-dung-thuoc-bao-
ve-thuc-vat-trong-nong-nghiep-o-Viet-Nam-
47911.html.
2. Tổng cục Môi trường, Hiện trạng ô nhim môi
trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu thuộc
nhóm hữu cơ khó phân hủy tại Việt Nam. 2015: Hà
Nội. p. 10-31.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
Thông tư ban hành danh mục thuốc BVTV được
phép sử dụng, cấm sử dụng tại Việt Nam, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Editor. 2018: HN.
4. Tổng cục Môi trường. Thuốc bảo vệ thực vật và
những hệ lụy của nó đến con người. 2015 [cited
2017 29-09].
5. Hoa, P.T.T., Kiến thức, thái độ, thực hành và một
số yếu tố liên quan đến sử dụng hóa chất bảo vệ
thực vật của người trồng cà phê tại xã Pơng
Đrang, huyện Krông Búk, tỉnh Đăk Lăk năm 2016.
2016, Trường Đại học Y tế công cộng: Hà Nội.
6. Jallow, M.F., et al., Pesticide knowledge and
safety practices among farm workers in Kuwait:
results of a survey. International journal of
environmental research and public health, 2017.
14(4): p. 340.
7. Jin, J., et al., Pesticide use and risk perceptions
among small-scale farmers in Anqiu County, China.
International journal of environmental research
and public health, 2016. 14(1): p. 29.
8. Mengistie, B.T., A.P. Mol, and P. Oosterveer,
Pesticide use practices among smallholder
vegetable farmers in Ethiopian Central Rift Valley.
Environment, Development and Sustainability,
2017. 19(1): p. 301-324.