
z
LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp trong
phân bổ hạn ngạch

Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay có rất nhiều biến động, nhất là trong các
hoạt động diễn ra trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Vì thế việc đặt kế hoạch hàng năm cho
hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta được Bộ Thương mại trực tiếp quản lý và điều
chỉnh cho phù hợp. Để quản lý được hoạt động xuất nhập khẩu tốt Nhà nước có rất
nhiều các công cụ để điều chỉnh như thuế, hạn ngạch, các hàng rào thương mại phi thuế
quan khác. Thế nhưng thực tế thì các công cụ này được Nhà nước sử dụng như thế nào để
đem lại hiệu quả một cách tốt nhất lại là một vấn đề hết sức nan giải hiện nay. Một trong
những công cụ mà Nhà nước dùng để điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu đó là hạn
ngạch.

Phần I
Phần cơ sở lý luận
I. Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota).
1. Khái niệm.
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt
hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó trong một thời
gian nhất định (thường là một năm).
Thực chất hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức hạn chế về số lượng và thuộc
hệ thống giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu được quy định cho một
loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra một định ngạch (tổng định ngạch)
nhập khẩu mặt hàng nào đó trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn gốc
hàng hoá đó từ đâu đến.
Khi hạn ngạch nhập khẩu quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hoá đó
chỉ được nhập khẩu từ nước (thị trường) đã định với số lượng bao nhiêu, trong thời hạn
bao lâu.
ở Việt Nam, danh mục số lượng ( hoặc giá trị ) các mặt hàng nhập khẩu quản lý
bằng hạn ngạch cho từng thời kỳ ( hàng năm ) do Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề
nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại.
2. Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch chủ yếu là nhằm một
số mục đích.
Thứ nhất, hạn ngạch nhập khẩu có khả năng bảo hộ sản xuất trong nước bằng
cách chống được các “ cơn sốt giá “. Điều này được minh họa qua đồ thị sau:

P S
P2
P1
D
0 Q1 Q2 Q3 Q4 Q
Đồ thị 1
Trên đồ thị 1, ta thấy đường cung nội địa S cắt đường cầu nội địa D tại O. ở mức
giá P1, người tiêu dùng nội địa có nhu cầu là Q4, nhưng sản xuất trong nước chỉ đáp
ứng được ở mức Q1. Như vậy cầu lớn hơn cung một khoảng là Q4-Q1. Do cầu lớn hơn
cung nên giá hàng hoá trong nước sẽ tăng lên, nếu không có biện pháp điều chỉnh sẽ
xuất hiện “ cơn sốt giá “ trong nước làm cho giá cả hàng hoá trong nước tăng vọt lên P2.
Để khắc phục tình trạng này đồng thời để bảo hộ ngành sản xuất nội địa, Chính phủ cho
phép nhập khẩu hàng hoá ở một mức hạn chế thông qua việc đưa ra một hạn ngạch nhập
khẩu hàng hoá đó.
Giả sử do nhập khẩu giá hàng hoá đó sẽ giảm xuống từ P1-P2, giá cả trở lại bình
thường. Như vậy hạn ngạch có tác dụng điều chỉnh giá nội địa tránh được những “ cơn
sốt giá “.
Mục đích thứ hai của Chính phủ khi áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đó là sử
dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ. Hiện nay trong điều kiện cơ chế thị trường việc mua bán

giữa các nước với nhau đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại
tệ tự do chuyển đổi, do đó không còn nhiều cơ hội cho các khoản vay để nhập siêu. Do
vậy tất cả việc mua bán quốc tế phải dựa trên cơ sở đó là lợi ích và hiệu quả để quyết
định. Đồng thời nhu cầu nhập khẩu phát triển kinh tế ở nước ta là rất lớn, vốn để nhập
khẩu lại hạn chế. Vì vậy phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn ngoại tệ dành cho
nhập khẩu sao cho có thể nhập được những vật tư, hàng hoá phục vụ cho phát triển sản
xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc
sản xuất chưa đủ để đáp ứng những nhu cầu phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội của
nước ta đến năm 2002. Hạn ngạch nhập khẩu hạn chế về số lượng, chủng loại hàng hoá
nào đó từ một thị trường nào đó. Điều này khiến cho Nhà nước có thể điều chỉnh chính
sách nhập khẩu một số hàng hoá thiết yếu phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta và tiết kiệm được vốn ngoại tệ để nhập khẩu.
Thứ ba, Nhà nước nhằm mục đích thực hiện các cam kết với nước ngoài, với các
tổ chức quốc tế. Do vậy hạn ngạch là một công cụ để Nhà nước có thể thực hiện được
các cam kết đã ký với nước ngoài.
3. Các mặt hàng được cấp hạn ngạch nhập khẩu.
ở Việt Nam hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập
khẩu cho một số công ty. Các mặt hàng có liên quan đến cân đối lớn của nền kinh tế
quốc dân đều có quy định riêng, cụ thể các mặt hàng đó là:
Xăng dầu, phân bón, xi măng, đường, thép xây dựng.
Chỉ có một số doanh nghiệp mới được phép nhập khẩu những mặt hàng trên. Mỗi
doanh nghiệp được phép phân bổ một số lượng tối đa các mặt hàng trên trong một năm.
Đối tượng được cấp hạn ngạch nhập khẩu là các doanh nghiệp được Nhà nước cho
phép xuất khẩu, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy một doanh

