
TNU Journal of Science and Technology
229(12): 137 - 145
http://jst.tnu.edu.vn 137 Email: jst@tnu.edu.vn
INVESTIGATION OF THE CURRENT ASSESSMENT MANAGEMENT OF
PRIMARY SCHOOL PUPILS IN NINH KIEU DISTRICT, CAN THO CITY
Ngo Thi Uyen*, Luu Nguyen Quoc Hung
Can Tho University
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
07/5/2024
Testing and evaluating student learning outcomes helps adjust the
educational process, contributing to improve the quality of teaching.
Management of inspection and evaluation activities is shown in
planning management, organizing implementation, directing
implementation, inspection and evaluation. This article uses the method
of collecting information by questionnaire and surveying 150 subjects
including: 104 homeroom teachers, 12 administrators, 34 subject
teachers at primary schools in Ninh Kieu district. The results show the
importance and current status management’s testing and assessment
activities of students in primary schools in Ninh Kieu district, Can Tho
city, performing at "Average" to "Good" levels. However, there is still a
significant number of subjects who rate some contents in the inspection
and evaluation stage of management activities at an unsatisfactory
level, accounting for 22%. The results of studying the current situation
of the topic contribute to creating a basis for proposing measures to
improve the management of testing activities to assess the learning
outcomes of students in primary schools in Ninh Kieu district, Can Tho
city according to the 2018 general education program.
Revised:
08/8/2024
Published:
08/8/2024
KEYWORDS
Testing and evaluation
Operations management
Learning result
Primary school
Pupil
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH CÁC TRƢỜNG TIỂU HỌC
TẠI QUẬN NINH KIỀU THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Ngô Thị Uyên*, Lƣu Nguyễn Quốc Hƣng
Trường Đại học Cần Thơ
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài:
07/5/2024
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp điều chỉnh quá trình
giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Quản lý hoạt động kiểm
tra đánh giá thể hiện ở lập kế hoạch quản lý, tổ chức thực hiện, chỉ đạo
thực hiện, kiểm tra đánh giá. Bài báo này sử dụng phương pháp thu thập
thông tin bằng bảng hỏi và khảo sát 150 khách thể bao gồm: 104 giáo
viên chủ nhiệm, 12 cán bộ quản lý, 34 giáo viên bộ môn của các trường
tiểu học trên địa bàn quận Ninh Kiều. Kết quả cho thấy tầm quan trọng
của quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá và thực trạng quản lý hoạt động
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh các trường tiểu học quận
Ninh Kiều thành phố Cần Thơ thực hiện ở mức “Trung bình” đến “Tốt”.
Tuy nhiên vẫn còn số lượng đáng kể khách thể đánh giá một số nội dung
trong khâu kiểm tra đánh giá hoạt động quản lý này ở mức chưa đạt
chiếm đến 22%. Kết quả nghiên cứu thực trạng góp phần tạo cơ sở đề
xuất các biện pháp nâng cao công tác quản lý hoạt động kiểm tra đánh kết
quả học tập của học sinh các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều, thành
phố Cần Thơ theo chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Ngày hoàn thiện:
08/8/2024
Ngày đăng:
08/8/2024
TỪ KHÓA
Kiểm tra đánh giá
Quản lý hoạt động
Kết quả học tập
Trường tiểu học
Học sinh
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.10314
* Corresponding author. Email: ngothiuyen15@gmail.com

TNU Journal of Science and Technology
229(12): 137 - 145
http://jst.tnu.edu.vn 138 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Giới thiệu
Cùng với sự đổi mới toàn diện của giáo dục, đặc biệt trong công tác kiểm tra đánh giá
(KTĐG) học sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo (BGD&ĐT) đã ban hành Thông tư số 27/2020/TT-
BGD&ĐT về Quy định đánh giá học sinh tiểu học. Việc ban hành Thông tư quy định đánh giá
học sinh tiểu học đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) 2018, trên cơ sở kế thừa
những ưu việt của Thông tư hiện hành với mục đích đánh giá chính xác, kịp thời, xác định được
thành tích học tập, rèn luyện theo mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình GDPT cấp
tiểu học và sự tiến bộ của học sinh (HS) để hướng dẫn, điều chỉnh các hoạt động dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục [1].
Quan tâm nghiên cứu về kiểm tra đánh giá HS có thể kể đến như nghiên cứu của Atabek và
các cộng sự (2014) đã khẳng định đánh giá là một bước quan trọng trong môi trường giáo dục,
là một quá trình để đo lường những gì HS biết hoặc những gì HS đã học được. Trong đó có thể
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá và các bài kiểm tra là một trong những công
cụ quan trọng nhất và được sử dụng rộng rãi [2]. Nghiên cứu về quản lý đánh giá giáo dục ở
bậc trung học của tác giả Zamili và các cộng sự (2020) đã quan tâm đến thực trạng về quản lý
đánh giá trong giáo dục trung học tại một số trường trung học thuộc tỉnh Java, Indonesia. Kết
quả nghiên cứu đã tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu về việc đạt được tiêu chuẩn đánh
giá giáo dục và đề xuất những biện pháp liên quan đến 8 tiêu chuẩn giáo dục quốc gia dựa trên
các chỉ số trong công cụ tự đánh giá của trường học [3]. Ở bậc tiểu học, Mansor và các cộng sự
(2019) đã nghiên cứu quản lý đánh giá bao gồm: thực trạng, điểm yếu và thách thức của
phương pháp đánh giá tại một số trường tiểu học ở Malaysia. Kết quả khẳng định tầm quan
trọng của đánh giá như một công cụ theo dõi sự phát triển và tiến bộ của HS trong học tập thay
vì chỉ tập trung vào điểm số hoặc thứ hạng; giảm sự phụ thuộc hoàn toàn vào điểm số từ các kỳ
thi tập trung; trao quyền và thừa nhận vai trò của trường học và giáo viên (GV) trong việc thực
hiện đánh giá chất lượng; và để đảm bảo HS đáp ứng các tiêu chuẩn được chấp nhận về các
lĩnh vực kiến thức, kỹ năng và năng lực khác nhau [4].
Phan Thị Hồng Lan (2019) quan tâm đến biện pháp quản lý đánh giá HS theo định hướng phát
triển năng lực ở trường tiểu học. Đề tài đã đề xuất được một số biện pháp quản lý đánh giá HS
theo định hướng phát triển năng lực ở trường tiểu học và kết luận rằng nó liên quan đến quá trình
lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra của hiệu trưởng nhà trường đối với hoạt động đánh giá
HS [5]. Đỗ Minh Trang (2022) đã nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đánh giá HS ở các
trường tiểu học đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay gồm: Đổi mới giáo dục, đổi mới đánh
giá người học, những vấn đề đang đặt ra trong quản lý quá trình đánh giá HS và những yêu cầu
sư phạm trong đánh giá [6]. Gần đây có nghiên cứu của Nguyễn Hoài Bảo (2022) đã quan tâm
đến thực trạng KTĐG kết quả học tập của HS ở trường phổ thông, cho thấy việc đánh giá phải
diễn ra trong suốt quá trình dạy học, giúp HS liên tục nhận được phản hồi để biết những thiếu sót,
điểm yếu để cả hai GV và HS có thể điều chỉnh việc dạy và học các hoạt động [7].
Ninh Kiều là một trong những quận trung tâm, phát triển nhất của thành phố Cần Thơ (TPCT)
trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong những
năm gần đây, các trường tiểu học trên địa bàn quận Ninh Kiều, TPCT luôn nỗ lực, cố gắng thực
hiện tốt công tác giáo dục đáp ứng mục tiêu của chương trình GDPT 2018 và công tác quản lý
KTĐG được thực hiện một cách nghiêm túc, việc quản lý điều hành công việc theo quy chế.
Song, từ thực tiễn cho thấy rằng việc quản lý KTĐG kết quả học tập của HS tại các trường tiểu
học trên địa bàn quận Ninh Kiều theo chương trình GDPT 2018 vẫn còn tồn đọng những hạn chế,
bất cập. Nghiên cứu sẽ xem xét thực trạng chất lượng công tác quản lý kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh tiểu học tại quận Ninh Kiều, TPCT từ đó thấy được vị trí, tầm quan trọng
của hoạt động KTĐG và là cơ sở quan trọng để đề xuất các biện pháp nâng cao công tác quản lý
hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều, TPCT.

TNU Journal of Science and Technology
229(12): 137 - 145
http://jst.tnu.edu.vn 139 Email: jst@tnu.edu.vn
1.1. Yêu cầu đặt ra đối với kiểm tra đánh giá học sinh tiểu học theo chương trình Giáo dục
phổ thông 2018
* Đảm bảo đánh giá được năng lực phẩm chất học sinh
Đánh giá HS tiểu học được thực hiện theo Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT, thông qua đánh
giá mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn
học, hoạt động giáo dục và những biểu hiện phẩm chất, năng lực của HS theo yêu cầu của chương
trình GDPT cấp tiểu học. Theo đó, đánh giá có thể diễn ra ngay trong quá trình dạy học, đảm bảo
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức của HS, tập trung dạy cách
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để HS cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng qua đó
hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. Bên cạnh đó, đánh giá sự tiến bộ và vì sự tiến
bộ của HS, coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của HS,
giúp HS phát huy nhiều nhất khả năng, năng lực, đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan, không
so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho HS, GV và cha mẹ học sinh (CMHS).
* Đảm bảo đa dạng các lực lượng tham gia đánh giá
Chương trình đa dạng các lực lượng tham gia đánh giá trong đó GV là người điều chỉnh, đổi
mới hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục trong quá trình dạy học, giáo dục, kịp thời phát
hiện những cố gắng, tiến bộ của HS nhằm động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa
thể tự vượt qua của HS để hướng dẫn, giúp đỡ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học
tập, rèn luyện của các em. Đồng thời, HS tự nhận xét, tham gia nhận xét, tự học, tự điều chỉnh
cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để ngày một tiến bộ.
Đề cao vai trò của CMHS trong quá trình đánh giá. CMHS tham gia đánh giá quá trình và kết
quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của HS, tích cực
hợp tác với nhà trường trong các hoạt động giáo dục HS. CBQL kịp thời chỉ đạo các hoạt động
giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục. Các
tổ chức xã hội nắm thông tin chính xác, khách quan, phát huy nguồn lực xã hội tham gia đầu tư
phát triển giáo dục.
* Đảm bảo thiết kế công cụ đánh giá phù hợp với từng chủ đề/môn học
Vận dụng linh hoạt, đa dạng các công cụ đánh giá trong đánh giá thường xuyên. Sử dụng hợp
lí, hiệu quả, thường xuyên các công cụ đánh giá, kết hợp nhuần nhuyễn, đảm bảo các công cụ
đánh giá phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh, với từng chủ đề, môn học và đều tập trung hình thành,
phát triển năng lực người học. Xây dựng công cụ đánh giá theo đặc thù môn học, đảm bảo bám sát
yêu cầu cần đạt của từng môn học, chủ đề, gắn liền với thực tiễn học tập, sinh hoạt của chính HS.
1.2. Tầm quan trọng của quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ở
trường tiểu học
Trong bối cảnh đổi mới không ngừng của giáo dục, KTĐG luôn là biện pháp đánh giá kết quả
giáo dục, là cơ sở để xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu, về đội ngũ GV, về vấn đề đổi
mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục. Nhận thức đúng đắn của
cán bộ quản lý (CBQL) về tầm quan trọng, vai trò, ý nghĩa của công tác quản lý hoạt động
KTĐG kết quả học tập của HS, giúp người CBQL đưa ra những quyết định đúng đắn, tác động
tích cực đến toàn bộ quá trình KTĐG tại nhà trường. Nếu GV, HS có nhận thức đúng đắn về vai
trò, ý nghĩa của hoạt động KTĐG, họ sẽ có những hành động đúng, phương pháp, hình thức đánh
giá hay học tập thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập. Ngược lại nếu nhận
thức sai hoặc không đầy đủ sẽ khiến họ coi nhẹ hoạt động này, thậm chí có những hành động tiêu
cực. Từ đó tác động đến công tác quản lý và tạo rào cản lớn cho người CBQL trong việc quản lý
hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS.
Như vậy trong quá trình quản lý hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS cần phải giúp cho
tất cả CBQL, GV, HS nhận thức đúng vai trò của KTĐG và nắm vững kiến thức về KTĐG tại
nhà trường tiểu học thông qua phổ biến trong các cuộc họp, các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
về KTĐG đặc biệt trong tình hình đổi mới giáo dục toàn diện như hiện nay. KTĐG kết quả học

TNU Journal of Science and Technology
229(12): 137 - 145
http://jst.tnu.edu.vn 140 Email: jst@tnu.edu.vn
tập của HS trong nhà trường là vấn đề rất quan trọng, đảm bảo mối liên hệ thường xuyên và bền
vững trong quá trình dạy và học, do đó việc quản lý tổ chức thực hiện kiểm tra, đánh giá hoạt
động dạy và học là vấn đề then chốt để nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường.
1.3. Nội dung quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ở trường tiểu học
Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động mỗi cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi
trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất [8]. Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động GV sử
dụng để thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong học tập
nhằm cung cấp dữ kiện làm cơ sở cho việc đánh giá [9]. Đánh giá đề cập đến những công cụ xác
định khó khăn, khoảng trống trong học tập và cách cải thiện kết quả học tập của học sinh. Việc xác
định công cụ học tập giúp định hình việc học hiệu quả và củng cố khả năng của học sinh trong
việc làm chủ việc học của mình và giúp người học hiểu rằng mục tiêu là cải thiện việc học chứ
không phải là điểm số cuối kỳ [10]. Nghiên cứu của Atabek và các cộng sự đã khẳng định đánh
giá là một bước quan trọng trong môi trường giáo dục, là quá trình để đo lường những gì học sinh
biết hoặc những gì họ đã học được [2]. Kết quả học tập là mức độ kiến thức, kỹ năng hay nhận
thức của người học trong một lĩnh vực, môn học nào đó [11]. Đánh giá kết quả học tập là quá trình
thu thập, xử lý thông tin về trình độ, khả năng mà người học thực hiện các mục tiêu học tập đã xác
định, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên [12]. Theo Phó Đức Hòa, quy
trình đánh giá kết quả học tập của HS ở trường tiểu học là trình tự (logic) các hoạt động đánh giá
của người dạy và người học (tự đánh giá) nhằm đạt được mục đích yêu cầu của dạy học đề ra [13].
Quản lý hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS phản ánh chất lượng dạy học một cách
chính xác, từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp để cải thiện thực trạng nâng cao chất lượng dạy
học cũng như chất lượng tổng thể. Kết quả KTĐG là cơ sở để chứng thực kết quả học tập, năng
lực, phẩm chất, mức độ đạt được của HS, đồng thời đánh giá năng lực và hiệu quả giảng dạy
cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học, đánh giá việc sử dụng các nguồn lực trong và ngoài
nhà trường từ đó đánh giá hiệu quả quản lý. Quản lý tốt hoạt động KTĐG là thúc đẩy các mối
liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, trong đó KTĐG vừa xác định kết quả học tập
(KQHT), vừa là tiền đề để ra các quyết định quản lý đúng đắn trong việc chỉ đạo của nhà trưởng.
Vì vậy, quản lý hoạt động KTĐG kết quả học tập của học sinh là một khâu không thể tách rời
trong công tác quản lý giáo dục của người cán bộ quản lý, trong đó KTĐG vừa là xác định kết quả
học tập, vừa là tiền đề xây dựng tạo ra các quyết định quản lý. Nội dung quản lý là sự triển khai
đồng bộ các chức năng cơ bản của quản lý đối với hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS ở
trường tiểu học. Với hướng tiếp cận theo chức năng quản lý, nội dung quản lý hoạt động KTĐG
kết quả học tập của HS ở trường tiểu học bao gồm: quản lý xây dựng kế hoạch; Quản lý việc tổ
chức hoạt động; Quản lý việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch; Kiểm tra, đánh giá việc quản lý hoạt
động. Dựa vào cơ sở lý luận, nghiên cứu khảo sát thực trạng quản lý hoạt động KTĐG kết quả học
tập của HS các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều, TPCT theo chương trình GDPT 2018 từ đó là
cơ sở đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động KTĐG góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa vào bảng câu hỏi nhằm thu thập thực trạng, thông tin về quản
lý hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều, TPCT. Đề
tài tiến hành nghiên cứu trên 150 khách thể bao gồm các CBQL, GVCN, GVBM ở 5 trường tiểu
học trọng điểm trong quận Ninh Kiều, TPCT gồm: Tiểu học Cái Khế 2, Tiểu học Nguyễn Du,
Tiểu học Lê Quý Đôn, Tiểu học Trần Quốc Toản, Tiểu học Võ Trường Toản.
Số liệu sau khi thu thập phiếu khảo sát, câu hỏi được thống kê mã hóa trên phần mềm Excel
sau đó xử lý qua phần mềm SPSS 22. Phiếu khảo sát đều được thiết kế theo 5 mức độ của thang
đo Likert từ thấp đến cao, quy ước như sau: 1,00-1,49 = Không quan trọng/Rất chưa đạt; 1,50-

TNU Journal of Science and Technology
229(12): 137 - 145
http://jst.tnu.edu.vn 141 Email: jst@tnu.edu.vn
2,49 = Ít quan trọng/Chưa đạt; 2,50-3,49 = Trung bình; 3,50-4,49 = Quan trọng/Tốt; 4,50-5,00 =
Rất quan trọng/Rất tốt. Tính toán tần suất, điểm trung bình (ĐTB), độ lệch chuẩn (ĐLC) và mối
tương quan giữa mức độ quan trọng và mức độ thực hiện nội dung quản lý hoạt động KTĐG kết
quả học tập qua đánh giá của CBQL, GVCN, GVBM. Từ các kết quả thu thập được, sau đó tiến
hành xử lý, phân tích, so sánh, tổng hợp, đưa ra những đánh giá về thực trạng quản lý hoạt động
KTĐG kết quả học tập của HS các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều, TPCT.
3. Kết quả
3.1. Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
ảng . Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của quản lý hoạt động KTĐG kết quả học tập
của HS các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều TPCT
TT
Nội dung
Tổng
ĐT
ĐLC
Mức độ quan trọng
TH
CBQL
GV
GVBM
1
Phân công GV coi, chấm kiểm tra.
150
4,28
0,581
4,00
4,37
4,12
3
2
Tổ chức, chỉ đạo nhiệm vụ của GV trong ĐG
thường xuyên, ĐG định kỳ.
150
4,12
0,655
3,92
4,13
4,15
4
3
Xử lý GV vi phạm quy chế trong công tác KTĐG.
150
4,39
0,565
4,33
4,44
4,26
2
4
Lấy ý kiến của GV, HS, CMHS trong công tác KTĐG.
150
4,41
0,604
4,50
4,39
4,44
1
Trung bình tổng
150
4,30
0,600
4,19
4,33
4,24
Ghi chú: TH: Thứ hạng; TT: Thứ tự
Bảng 1 thể hiện thực trạng nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của quản lý hoạt động KTĐG
kết quả học tập của HS. Theo đó, ĐTB tổng của khách thể là 4,30 dao động từ mức 3,5-4,49 như
vậy hầu hết các khách thể đã lựa chọn mức quan trọng và ĐLC tổng của khách thể là 0,600, nhỏ
hơn 1, cho thấy rằng ý kiến của các khách thể không khác biệt nhau.
Lấy ý kiến của GV, HS, CMHS trong công tác KTĐG được đánh giá cao nhất trong nội dung
đánh giá về tầm quan trọng của quản lý hoạt động KTĐG với ĐTB=4,41 và ĐLC=0,604, sau đó
đến nội dung Xử lý GV vi phạm quy chế trong công tác KTĐG được xếp thứ hai với ĐTB=4,39
và ĐLC=0,565, tiếp đến là Phân công GV coi, chấm kiểm tra với ĐTB=4,28 và ĐLC=0,581, nội
dung được xếp thứ hạng cuối cùng là Tổ chức, chỉ đạo nhiệm vụ của GV trong ĐG thường xuyên,
ĐG định kỳ với ĐTB=4,12 và ĐLC=0,655.
Cụ thể, từng khách thể CBQL, GV và GVBM có ĐTB tổng lần lượt là 4,19; 4,33; 4,24. Từ đó,
có thể khẳng định rằng 150 khách thể đều có cùng quan điểm về thực trạng nhận thức vai trò, tầm
quan trọng của quản lý hoạt động KTĐG, đều đánh giá nhận thức ở mức quan trọng.
3.2. Thực trạng quản lý lập kế hoạch hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh các trường tiểu học tại quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Kết quả bảng 2 cho thấy rằng ĐTB tổng là 4,32 nằm trong khoảng 3,5-4,49 do đó có thể thấy
quan điểm của các khách thể là hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập hiện nay của học
sinh trường tiểu học quận Ninh Kiều là tốt. Bảng 2 cũng cho thấy rằng các câu trả lời của khách
thể không có sự khác biệt quá lớn vì ĐLC tổng nhỏ hơn 1 (ĐLC=0,636).
Từng khách thể CBQL, GVBM và GVCN cũng cho rằng việc lập kế hoạch hoạt động
KTĐG đang diễn ra ở mức tốt khi ĐTB của từng khách thể đều dao động từ mức 4,13 đến 4,36.
Bên cạnh đó, nội dung được đánh giá với thứ hạng cao nhất là Kiểm tra, giám sát việc xây
dựng đề kiểm tra, đề thi, chấm kiểm tra lên điểm của GV (ĐTB=4,43). Cùng xếp thứ 2 là nội
dung Xác định nội dung kiểm tra khoa học, phù hợp với yêu cầu cần đạt của từng môn học và
Xác định phương thức, cách thức tiến hành kiểm tra cụ thể, phù hợp với thực tiễn nhà trường
cũng được đánh giá ở mức tốt trong việc lập kế hoạch KTĐG với ĐTB=4,36, xếp cuối cùng là
Xác định mục tiêu KTĐG phù hợp với chương trình của Bộ và nhà trường với ĐTB=4,19 và
ĐLC=0,757 cho thấy không có sự khác biệt giữa câu trả lời của các khách thể.