TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKHT 2018
106
TIỀM NĂNG, HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DU LỊCH SINH THÁI Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI
ĐOÀN SỸ SƠN1,*, NGUYỄN TƯỞNG2
Trường THPT Số 1 Nghĩa Hành, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
*Email: sondianh1@gmail.com
2Khoa Địa lý, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Tóm tắt: Các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi có nguồn tài nguyên du lịch sinh thái
tương đối toàn diện: Các giá trị sinh thái đa dạng của rừng, thác Cà Đú, thác Trắng,
núi Đam, đèo Violét, suối khoáng nóng Thạch Bích, suối TBói, hố Dội, hồ
Nước Trong, hồ Đồng Cần… Văn hóa các dân tộc miền núi: Hrê, Cor, Ca Dong, đã
nhào nặn vùng đất này nhiều sắc thái văn hóa rất độc đáo nguồn tài nguyền
cùng quý giá cho phát triển du lịch sinh thái. Năm 2017, doanh thu từ du lịch sinh
thái ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi đạt 4.250 tỷ đồng, tuy nhiên lượng khách
chủ yếu vẫn là khách nội địa. Trong quá trình phát triển du lịch sinh thái tại đây đã
xuất hiện không ít những tồn tại, nổi bật là sở vật chất, hạ tầng chưa đáp ứng được
nhu cầu của khách du lịch, cơ chế chính sách thu hút đầu tư du lịch chưa được chú
trọng. Do đó, để phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp và cần sự phối hợp thực hiện của các ban, ngành, chính quyền, ban
quản lý và người dân.
Từ khóa: Du lịch, sinh thái, miền núi, Quảng Ngãi.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quảng Ngãi có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch gắn với môi trường
tự nhiên, các giá trị văn hóa bản địa, thu hút sự quan tâm của du khách trong ngoài nước,
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đặc biệt, ở các huyện miền núi tỉnh Quảng
Ngãi nguồn tài nguyên du lịch sinh thái tương đối toàn diện: Các giá trsinh thái đa dạng
của rừng, thác Cà Đú, thác Trắng, núi Cà Đam, đèo Violét, suối khoáng nóng Thạch Bích, suối
Trà Bói, hố Dội, hồ Nước Trong, hồ Đồng Cần… Văn hóa các dân tộc miền núi: Hrê, Cor, Ca
Dong, đã nhào nặn vùng đất này nhiều sắc thái văn hóa rất độc đáo. Các tuyến đường giao thông
quan trọng như: Đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A, quốc lộ 24, tỉnh lộ 622, 627,tạo điều
kiện thuận lợi cho du lịch sinh thái phát triển. Du lịch sinh thái các huyện miền núi tỉnh Quảng
Ngãi có nhiều tiềm năng và đặc trưng riêng, tuy nhiên vấn đề khai thác tài ngun du lịch sinh
thái còn nhiều hạn chế. Hiện nay, đa số các địa điểm có tiềm năng du lịch sinh thái quy hoạch
nhưng chưa hiệu quả hoặc hiện chưa được quy hoạch và một số nơi đang bị khai thác bất hợp
lý như tích nước làm thủy điện, khai thác đá,làm mất đi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, hoang
của núi rừng. Quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ chưa thực sự hợp lý, các sản phẩm về
du lịch sinh thái chưa đa đạng và còn kém chất lượng, số lượng khách du lịch đến còn hạn chế,
số ngày khách lưu trú tại điểm du lịch sinh thái còn thấp, số khách du lịch quay trở lại lần sau
còn hạn chế, việc thu t đầu phát triển du lịch chưa được quan tâm đúng mức. Việc phát
triển du lịch sinh thái bền vững các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi là vấn đề cấp thiết nhưng
hiện nay chưa ai nghiên cứu.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp phân tích, tổng hợp thuyết: Đây là phương pháp được sử dụng nhiều
nhằm thu thập các thông tin từ sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu,liên quan đến
du lịch sinh thái, từ đó tiến hành xử lý, chọn lọc, phân tích tổng hợp thành hệ thống những
nội dung đáp ứng yêu cầu nghiên cứu để đạt được mục tiêu đề ra.
K YU HI NGH KHOA HC TR 2018 | 11/2018
107
- Phương pháp bản đồ: Là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lý. Sử dụng bản đồ
địa hình, bản đồ hành chính một số bản đồ kinh tế - xã hội liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như hiện trạng tài nguyên du lịch, quy hoạch phát triển kinh tế - hội, quy hoạch phát
triển du lịch tỉnh Quảng Ngãi,làm nền tảng cho việc khai thác thông tin, phân tích các yếu
tố không gian lãnh thổ phục vụ nghiên cứu về du lịch sinh thái.
- Phương pháp khảo sát thực địa: Phương pháp này nhằm cập nhật thông tin về đối tượng
nghiên cứu bằng cách đi thực địa, khảo sát các địa điểm để thu thập các dữ liệu hình ảnh
thực tế các địa điểm du lịch sinh thái trên địa bàn các huyện miền núi của tỉnh; làm tăng độ
chính xác, cập nhật thuyết phục của các kết quả nghiên cứu cũng như các tài liệu thu thập
được. Qua đó, tăng cường cơ sở thực tiễn để nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng đề xuất giải
pháp phát triển du lịch sinh thái các huyện miền núi của tỉnh, làm cho nội dung nghiên cứu
phong phú và mang ý nghĩa thực tiễn cao hơn.
- Phương pháp chuyên gia: Được thực hiện thông qua việc lắng nghe các ý kiến đóng góp
của các cán bộ chun trách trong bộ y chính quyền, cán bộ ngành du lịch, cán bộ nguyên
cứu trong lĩnh vực du lịch có nhiều kinh nghiệm và am hiểu trong nghiên cứu du lịch sinh thái
để vận dụng vào nghiên cứu, rút ngắn được quá trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ sung
hiệu quả cho phương pháp điều tra cộng đồng.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tiềm năng du lịch sinh thái ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
3.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
a. Vị trí địa lý
c huyện miền núi Quảng Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′ đến 15°25′ Bắc, từ 108°06′ đến
108°44′ Đông, tựa vào dãy núi Trường Sơn, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam với chiều dài đường
địa giới 98 km, phía Nam giáp tỉnh Bình Định với chiều dài đường địa giới 83 km, phía tây giáp
tỉnh Kon Tum với chiều dài đường địa giới 79 km, phía đông giáp các huyện đồng bằng tỉnh
Quảng Ngãi. Nằm vị trí trung độ của cả nước, nơi đây cách thủ đô Hà Nội 890 km về phía bắc
cách thành phố Hồ Chí Minh 824 km về phía nam theo đường Quốc lộ 1A.
b. Địa hình
Về tổng thể địa hình sự phân hóa theo không gian rệt, nghiêng từ y sang Đông,
phần lớn cấu tạo bởi đá trầm tích phía y chuyển đột ngột xuống đồng bằng cho nên tạo
cảnh quan hùng vĩ, hấp dẫn. Các huyn miền núi tỉnh Quảng Ngãi chiếm 2/3 diện ch toàn tỉnh,
chủ yếu tập trung phía Tây, điển hình với các núi cao như núi Đam tục gọi “Hòn Ông,
Hòn Bà” cao độ 1.600 m ngăn cách Sơn Trà Bồng, về phía Tây Bắc núi Đá Vách
(Thạch Bích) cao độ 1.500 m ngăn cách Sơn Hà và Minh Long, núi U Bò cao độ 1.200 m. Núi
cao trung bình 700 m như núi Cao Môn ở ngoài Trường Lũy phía tây huyện Đức Phổ. Các núi
Quảng Ngãi một số liệt vào hạng danh sơn, được vịnh làm thắng cảnh như: Thiên Ấn,
Thiên Bút, Thạch Bích, Vân Phong...
c. Khí hậu
Các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do vị trí địa lý,
đặc điểm địa hình kết hợp với chế độ bức xạ và hoàn lưu chung của khu vực đã chia khí hậu tại
đây làm hai mùa: mưa, nắng rõ rệt.
- Chế độ nhiệt: nhiệt độ trung bình 25 đến 26,90C, thượng tuần tháng 7 tháng 8 nóng
không quá 340C, thượng tuần tháng giêng lạnh nhất không dưới 180C. Nhiệt độ không khí trung
bình tăng dần từ Bắc vào Nam và giảm dần từ Đông sang Tây theo độ cao địa hình.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKHT 2018
108
- Chế độ gió: khí hậu Quảng Ngãi thịnh hành hai hướng gió chủ yếu vào mùa đông
mùa gió Đông Bắc Đông Nam. đây, gió Đông Nam thịnh hành hơn gió Đông Bắc.
Gió từ Đông Nam - Tây Bắc khá mát mẻ, dễ chịu, người dân địa phương gọi là gió Nồm.
- Chế độ mưa: Các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi có lượng mưa trung bình năm 2.198
mm nhưng chỉ quy tụ vào 4 tháng cuối năm còn các tháng khác thì khô hạn. Trung bình hằng
năm mưa 129 ngày, nhiều nhất vào các tháng 9 đến tháng 12. Sự phân phối lượng không
đều cũng như sự kéo dài mùa khô hạn rất có hại cho cây cối, đất đai và gây khó khăn cho việc
dẫn thoát thủy. Đặc biệt Quảng Ngãi các trận bão chỉ thể xảy ra trong khoảng thời gian từ
tháng 9 đến tháng 12 dương lịch nhất là hai tháng 10 và 11.
d. Thủy văn
Các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi thượng lưu của 4 con sông chính, lớn nhất sông
Trà Khúc dài 120 km, phát nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn với đỉnh cao 2.350 m do hợp nước của 4
con sông lớn Sông Rhe, sông Lò, sông Rinh, sông Tang, chảy xuống hướng Đông qua
ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi đổ ra cửa Đại.
Sông Vệ dài 80 km phát nguồn từ vùng rừng núi phía bắc huyện Ba Tơ, thượng nguồn gọi
sông Liên chạy theo hướng y Nam - Đông Bắc, xuyên qua các huyện Ba Tơ, Nghĩa Hành,
Mộ Đức, Nghĩa đra cửa Lở cửa Cổ Lũy. Sông Trà Bồng dài 55 km phát nguồn từ
vùng Thanh Bồng (Trà Bồng), chảy xuyên qua Huyện Trà Bồng và Huyện Bình Sơn đổ ra
cửa Sa Cần. Sông Trà Câu dài 40 km phát nguồn từ vùng Hồng Thuyền, Vực Liêm (phía nam
đèo Đá Chát) chảy xuyên qua huyện Đức Phổ để ra cửa biển M Á. Ngoài 4 con sông nói trên,
Quảng Ngãi còn các con sông nhỏ như Trà Ích (Trà Bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước
Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân (Đức Phổ). Phong cảnh hai bên bờ sông thuận lợi cho phát
triển du lịch nhất là sông Trà Khúc, Trà Bồng, Sông Vệ.
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
a. Dân cư và lao động
Năm 2017, các xã miền núi tỉnh Quảng Ngãi có số dân 210.015 người chiếm 16,8% dân
số toàn tỉnh, mật độ dân số trung bình là 65 người/km2.
Bảng 1. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2017 phân theo khu vực tỉnh Quảng Ngãi
Diện tích
(km2)
Dân số
(Ngưi)
Mật độ dân số
(Ngưi/km2)
TỔNG SỐ
5.152,49
1.247.644
242
Khu vực miền núi
3.248,35
210.015
65
- Huyện Trà Bồng
421,50
31.494
75
- Huyện Tây Trà
338,46
18.818
56
- Huyện Sơn Hà
752,11
70.933
94
- Huyện Sơn Tây
381,49
18.621
49
- Huyện Minh Long
217,23
16.779
77
- Huyện Ba Tơ
1.137,56
53.370
47
Nguồn: [2]
Năm 2017, trên địa bàn các miền núi tỉnh Quảng Ngãi có 137.349 người trong độ
tuổi lao động (từ 15 - 65 tuổi), chiếm khoảng 65,4% dân số. Từ năm 1999 đến nay, chất lượng
nguồn nhân lực của tỉnh được nâng lên đáng kể. Nếu như năm 2005, trên 26% lao động trong
các ngành kinh tế quốc dân qua đào tạo, thì đến năm 2009, tlệ lao động qua đào tạo chiếm
trên 35% và đến nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chiếm 47% [5].
K YU HI NGH KHOA HC TR 2018 | 11/2018
109
b. Giá trị kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 ước đạt 45.386,0 tỷ đồng (theo giá so
nh năm 2010), tăng 1,27% so với năm 2016 đạt 101,6% kế hoạch năm. Trong mức tăng
chung 1,27% của toàn nền kinh tế năm 2017, khu vực ng, m nghiệp thủy sản ước đạt
8.150,18 tỷ đồng, tăng 4,9%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công
nghiệp - xây dựng ước đạt 24.037,83 t đồng, giảm 3,4%, đóng góp -1,89 điểm phần trăm; khu
vực dịch vụ ước đạt 13.197,99 t đồng, tăng 8,5%, đóng góp 2,31 điểm phần trăm. Tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 30.342,1 tỷ
đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 9,1% so với năm 2016 đạt 101,3% kế hoạch năm [2].
3.2. Hiện trạng phát triển du lịch sinh thái ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Các điểm du lịch sinh thái tiêu biểu
Thác Đú: Thuộc địa phận thôn 5, Trà Thủy, huyện Trà Bồng, cách thành phố Quảng
Ngãi chừng 60 km về phía y Bắc. Từ trung tâm huyện l Trà Bồng thể nhìn thấy núi
Đú cao vút sánh vai cùng Hòn Bà, Hòn Tròn. Từ độ cao gần 1.000m, một dòng suối từ cổng
trời chảy phăm phăm xuống thung lũng, đây dòng khe bỗng tụt xuống tạo thành một thác
nước dựng đứng, mà dòng chảy của suối là những khối đá được xếp muôn hình vạn trạng. Giữa
màu xanh của rừng hiện ra dòng nước chảy xiết, lấp lánh như bạc, tràn qua các khối đá khổng
lồ tạo nên thác Đú hùng vĩ. Thác Đú quanh năm tung bọt trắng xóa, trông như một dải
lụa mỏng. Hai bên bờ thác nước rực rỡ những hoa rừng, bóng y tỏa xuống mặt thác tạo nên
những nét chấm phá đậm nhạt như một bản màu, đầy huyền ảo, quyến rũ. Khi hoàng hôn xuống,
dưới những rặng núi xanh um, thác Đú giống như một chảo mật sóng sánh khổng lồ lấp
lánh. Không chỉ đẹp, thác Cà Đú còn tiềm ẩn nguồn năng lượng mới.
Quần thể suối khoáng nóng Thạch Bích: Cách Tỉnh lộ 622 chừng 1 km, suối nước nóng
Thạch Bích ẩn mình bên rừng keo bạt ngàn cùng những cánh đồng lúa xanh tốt. Nguồn suối
nước nóng nơi đây đã được phát hiện từ nhiều thế kỷ trước, với nguồn nước suối thiên nhiên
ban tặng, con người đã khai thác để làm nước suối đóng chai. Lợi thế của nguồn nước khoáng
nơi đây tuy đã được khai thác, tuy nhiên so với giá trị to lớn vốn có, thì cần sự đầu tư mạnh mẽ
hơn nữa để mang lại nhiều hơn lợi ích cho nhân dân.
Thác Suối Trà Bói: Từ Quốc lộ 1 tại ngã ba Trà Bồng, theo Tỉnh lộ 622 hơn 30 km, đến
ngã 3 xã Trà Phú, rẽ phải đi chừng 4 km là du khách đã đến được thác nước Trà Bói. Du khách
nào muốn khám phá thác nước ngay tận đầu nguồn thì thể chạy xe máy thêm 1 km nữa. Thác
nước được hình thành từ hai dòng trên núi cao chảy xuống hòa quyện thành một, tạo nên những
bọt nước trắng xóa, lung linh, huyền ảo.
Núi Đam: Còn tên gọi khác Vân Phong Túc Vũ, một ngọn núi cao nhất trong
những ngọn núi tỉnh Quảng Ngãi với độ cao 1.431 m. Núi Đam phía Đông giáp xã Trà
Tân, phía y Nam giáp Trà Bùi, huyện Trà Bồng, phía Bắc giáp Trà Nham, huyện
Tây Trà. Từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi phải vượt qua 50 km lên huyện miền núi Trà
Bồng. Từ đó, theo đường liên huyện Trà Bồng - Tây Trà qua dốc Eo Chim cao trên 1.000 m rồi
vượt thêm một cung đường dài khoảng 20 km để đến chân con đường mới mở lên Đam.
Chừng 10m trước, khi công trình hồ chứa nước Nước Trong được xây dựng, con đường liên
huyện Di Lăng - Trà Trung được hình thành, người đi trên con đường y mới “mục kích” được
Đam từ xa. Bởi từ đường liên huyện lên đến chân núi thuộc thôn Quế Trà Bùi còn phải
ngược lối mòn thêm 5 km quanh co, dốc dựng.
Hồ chứa nước Nước Trong: Nằm trên địa bàn 6 xã là Di Lăng, Sơn Bao (Sơn Hà) và Trà
Phong, Trà Xinh, Trà Trung, Trà Thọ (Tây Trà). Hồ tổng diện tích lưu vực 460 km2; diện
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HNKHT 2018
110
tích mặt hồ 11,66 km2, với dung tích chứa khoảng 290 triệu m3, nước ứng với mực nước dâng
bình thường có cao trình gần 130 m.
Suối Thác Ong Sơn Linh: Một trong những cảnh đẹp nổi tiếng với người địa phương
đây đây thác Taong (hay còn gọi Cời Ong) thuộc xã Sơn Linh. Giữa một vùng đồi núi
phủ đầy cây rừng, dòng nước từ trên cao tầm 40 m đổ nhè nhẹ xuống các tầng đá rồi tung bọt
trắng xóa, hùng các cung bậc cuối cùng tạo ra âm thanh rầm cách vài trăm mét vẫn
thể nghe thấy rõ mồn một. Nước mát lạnh, trong vắt được thiên nhiên gom lại trong một hồ đá
rộng rồi theo dòng tạo thành con suối quanh co đổ xuống miền xuôi. Nơi đây, hội tụ nhiều yếu
tố thuận lợi cho việc xây dựng khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng lý tưởng.
Suối Huy Măng: Nằm vphía Đông Bắc Sơn Dung, huyện Sơn y, bắt nguồn từ ngọn
núi Vang Kẽ cao hơn 800 m, hợp với hai dòng suối nhỏ là suối Nước Xim và suối Nướctạo
thành. Trong lòng suối Huy Măng chứa vô vàng khối đá sa thạch, đá muôn hình muôn vẻ, nước
chảy len lỏi qua các phiến đá khi êm ả, khi tuôn trào dữ dội. Trải qua thời gian dài, dòng nước
đã mài nhẵn những khối đá xanh biếc, nhiều hình thù dị phủ đầy rêu phong, tạo thêm cho
phong cảnh ở đây thêm u tịch và nguyên sơ.
Suối Ka Xim: ch trung tâm huyện lỵ Sơn Tây khoảng 3 km, suối Ka Xim ở thôn Gò Lã,
Sơn Dung được xem điểm đến hấp dẫn cho nhiều người yêu thích vẻ đẹp hoang sơ và hùng
của núi rừng. Nhờ sự độc đáo của 2 tầng thác nước, mặt hồ thứ nhất nước luôn đá,
tung bọt trắng xóa, còn mặt hồ thứ hai lại phẳng lặng như chiếc ơng soi khổng lồ. Theo lời của
người dân địa phương, phụ nữ thường tắm ở hồ thứ hai, vì mặt nước yên ả, độ sâu chỉ tầm 3 m,
n hồ nước thứ nhất ở trên cao thường dành cho đấng nam nhi, ưa mạo hiểm.
Thác Trắng: Nằm phía y Thanh An, huyện Minh Long. Thác Trắng được hình
thành từ núi Mun cao hơn 100 m, chảy về hướng Đông qua y núi Hoang Đố, gặp vách núi
dựng đứng cao hơn 70 m, dòng chảy bỗng tụt xuống, nước đổ tràn xuống các ghềnh đá tung bọt
trắng xóa tạo nên một dòng thác kỳ vĩ nhân dân ta quen gọi là Thác Trắng. Thác Trắng có
độ cao 70 m, nước bạc tuôn trào từ trên đỉnh xuống trông giống như suối tóc của nàng tiên buôn
xõa theo ghềnh đá. Điều thú vị nữa là nước từ trong hồ chảy tràn ra ngoài tạo thành một dòng
suối dưới chân thác gọi suối Tiên. Suối Tiên chảy quanh co khúc khuỷu đưa nước về làng
Đố, làng Huya, sau đó đổ về sông Phước Giang chảy xuống huyện Nghĩa Hành.
Thảo nguyên Bùi Hui: Nằm tại xã Ba Trang, huyện Ba Tơ. Từ trung tâm TP. Quảng Ngãi
phải vượt quãng đường khoảng 60 km để đến huyện Ba Tơ, từ đó đi thêm tầm 10 km đường
đèo núi quanh co đđến thảo nguyên Bùi Hui. Bên cạnh những đồi cỏ xanh mướt, thảo nguyên
Bùi Hui còn đồi sim hàng ngàn cây chi chít trái. Đây điểm đến yêu thích của nhiều bạn
trẻ ở Quảng Ngãi trong những ngày hè. Vào thời điểm này, hàng ngàn cây sim trên thảo nguyên
Bùi Hui đã bắt đầu cho trái. Xen lẫn trong những chùm trái chi chít là màu tím của hoa sim nở
muộn.
Thác Suối Lệ Trinh: Thuộc thôn Nước Trinh, xã Ba Chùa (Ba Tơ) nằm ở phía Tây, cách
huyện l từ cầu Ba Chùa xuống suối khoảng 2 - 3 km. Suối Lệ Trinh bắt nguồn từ ngọn núi Cao
Muôn đổ về sông Liêng, cuối dòng tiếp giáp với 2 con sông: Sông Liêng, sông Tô. Từ chân
suối đến thắng cảnh thác đầu tiên của suối L Trinh chiều dài khoảng 3 km. Với những ghềnh
đá, có nhiều thác rất đẹp, dưới chân thác có hồ nước trong xanh, xung quanh bờ suối được cây
cổ thụ che phủ, không khí trong lành và mát mẻ cả về mùa hè nắng gắt.