
26
TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ LIÊN KẾT TRONG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH SINH THÁI TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG
Hà Văn Kiên 1
1. Khoa Công nghiệp Văn hóa – Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Email: kienhv@tdmu.edu.vn
TÓM TẮT
Du lịch sinh thái (DLST) là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn
liền với giáo dục và bảo vệ môi trường, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương hướng
tới phát triển du lịch mang tính bền vững. Hiện nay, loại hình du lịch này đang dần trở thành xu
thế chung của cả thế giới và bắt đầu được quan tâm phát triển nhiều hơn ở nước ta trong khoảng
10 năm trở lại. Bnh Dương là một trong những điểm sáng về phát triển kinh tế của cả nước, tuy
nhiên du lịch Bnh Dương phát triển chưa tương xứng. Du lịch của tỉnh, đặc biệt là du lịch sinh
thái mới chỉ dừng ở mức tiềm năng, chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bài viết này, tác giả
sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp và kế thừa các nguồn tài liệu đi trước để làm rõ cơ sở
lý lun về du lịch sinh thái, tiềm năng và làm rõ vai trò liên kết trong phát triển du lịch của tỉnh.
Kết quả cho thấy, tiềm năng là rất lớn nhưng thực tế hiệu quả khai thác còn thấp, cần đẩy mạnh
liên kết để thúc đẩy du lịch sinh thái phát triển.
Từ khóa: Du lịch; Du lịch Bnh Dương; Du lịch sinh thái; Liên kết.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bình Dương nằm phía Bắc của vùng Du lịch Đông Nam Bộ, một trong những vùng du
lịch phát triển bậc nhất cả nước. Bình Dương có vị trí địa lý thuận lợi, được thiên nhiên ban
tặng, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, đặc biệt là hệ thống các di sản văn hóa (di sản văn hóa
vật thể và di sản văn hóa phi vật thể) đa dạng, phong phú góp phần hình thành nên bản sắc riêng
của vùng đất này. Các di sản văn hóa là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế- xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Trong những năm gần đây,
việc liên kết vùng trong hoạt động phát triển du lịch là một điều tất yếu, với nguồn tài nguyên
giá trị của mình, Bình Dương có thể khai thác hoạt động du lịch hiệu quả hơn nữa, đưa tỉnh
thành một trong những điểm sáng trong phát triển du lịch của vùng và cả nước. Để hiện thực
hóa điều này, qua các kỳ đại hội đảng bộ của tỉnh cũng đề cập đến việc đưa du lịch Bình Dương
phát triển xứng tầm, đặc biệt tại kế hoạch số 5165/KH-UBND, ngày 21 tháng 10 năm 2020 của
UBND tỉnh Bình Dương về việc “Thực hiện chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2030 trên địa bàn tỉnh Bnh Dương” (UBND Bình Dương, 2020) cũng chỉ rõ việc cần đẩy mạnh
các nguồn lực thúc đẩy du lịch phát triển, phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng. Trong đó trọng
tâm là các sản phẩm gắn liền với văn hóa như các di tích lịch sử, làng nghề, thể thao, hội nghị,
du lịch sinh thái… Bài viết làm rõ tiềm năng và vai trò của liên kết trong phát triển du lịch nói
chung và du lịch sinh thái nói riêng của tỉnh. Qua đó nhận thấy mức độ quan trọng của liên kết
trong quá trình phát triển du lịch.

27
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phân tích tổng hợp và nghiên cứu hệ thống: phương pháp này được sử dụng
để nghiên cứu những đối tượng có mối quan hệ đa chiều, biến động trong không gian và thời
gian như ngành du lịch.
Phương pháp thống kê: phương pháp này làm để làm rõ thông tin, số liệu có liên quan
đến các hoạt động du lịch ở địa phương trong việc thu thập, thống kê làm cơ sở cho việc xử lý,
phân tích và đánh giá của nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Cơ sở lý thuyết
3.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm về du lịch sinh thái. Theo định nghĩa du lịch sinh thái do Hector
Ceballos-Lascurain (1987): “DLST khu vực tự nhiên còn ít bị tác động và không bị ô nhiễm, với
những mục đích đặc biệt là nghiên cứu, tham quan, thưởng thức phong cảnh thiên nhiên, động
vt và thực vt hoang dã, cũng như bất kỳ khía cạnh văn hóa hiện có được khám phá trong khu
vực này” (Phạm Trung Lương, 2002, tr.8). Định nghĩa này thể hiện khía cạnh bảo vệ môi trường
của điểm đến.
Một định nghĩa khác của Wood (1991) cũng được nhiều người làm du lịch quan tâm
“DLST là du lịch đến các khu vực còn tương đối hoang sơ với mục đích tm hiểu về lịch sử môi
trường tự nhiên và văn hóa mà không làm thay đổi sự toàn vẹn của các hệ sinh thái. Đồng thời
tạo những cơ hội về kinh tế để ủng hộ việc bảo vệ bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích về tài
chính cho người dân địa phương” (Phạm Trung Lương, 2002).
Tùy vào đặc trưng riêng của mỗi vùng, quốc gia mà đ có những khái niệm riêng cho
DLST. Tại Việt Nam: “DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn
hóa địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về bảo vệ môi trường”
(Điều 2, Luật Du lịch, 2017). Tháng 09/1999, Tổng cục Du lịch Việt Nam đ phối hợp với Tổ
chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới và Ủy ban Kinh tế- Xã hội châu Á – Thái Bình Dương tổ
chức hội thảo quốc tế về xây dựng khung chiến lược phát triển du lịch sinh thái làm cơ sở cho
việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam cũng như đẩy mạnh hợp tác phát triển
du lịch sinh thái của Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Hội thảo đ đưa ra được
định nghĩa về du lịch sinh thái, theo đó du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên
và văn hóa, kèm theo giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, qua đó giúp bảo tồn và phát triển bền
vững, với sự tham gia tích cực cộng đồng cư dân địa phương. Ở định nghĩa này, thể hiện được
bảo vệ môi trường tự nhiên, văn hóa bản địa và sự đóng góp lợi ích bền vững cho cộng đồng
địa phương. Theo Lê Huy Bá (2009) thì DLST được hiểu là loại hình du lịch dựa vào hệ sinh
thái đặc thù, tự nhiên chủ yếu phục vụ cho những người yêu thiên nhiên, thích cảnh quan hay
hệ sinh thái. Ngoài giúp phát triển kinh tế, du lịch sinh thái còn giới thiệu cảnh đẹp của quốc
gia, giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triển môi trường tài nguyên thiên nhiên một cách
bền vững.

28
Có nhiều khái niệm về du lịch sinh thái nhưng nhìn chung du lịch sinh thái là loại hình
du lịch dựa vào tự nhiên, gắn liền với văn hóa bản địa, phục vụ cho du khách yêu thiên nhiên.
Ngoài ý nghĩa về kinh tế mà du lịch sinh thái đem lại, nó còn thể hiện được là vấn đề về bảo vệ
môi trường, cảnh quan, văn hóa bản địa nhằm hướng đến phát triển du lịch bền vững.
3.1.2. Đặc điểm cơ bản của du lịch sinh thái
- Giúp thỏa mn về nhu cầu trải nghiệm cảnh quan thiên nhiên đối với du khách: khi du
khách tham quan khu du lịch sinh thái sẽ có mong muốn được trải nghiệm về cảnh thiên nhiên
mang vẻ hoang sơ, với hệ sinh thái vô cùng phong phú và có nt văn hóa bản địa. Tại đây, du
khách sẽ được hòa mình vào môi trường tự nhiên và khám phá nền văn hóa của người dân nơi đây.
- Giúp hỗ trợ về bảo tồn hệ sinh thái: đây được đánh giá là một đặc điểm khác biệt và nổi
bật của du lịch sinh thái so với những loại hình du lịch khác. Trong du lịch sinh thái: hình thức,
địa điểm và mức độ sử dụng dành cho các hoạt động du lịch được quản lý cho sự bền vững của
cả hệ sinh thái.
- Loại hình du lịch thân thiện và rất gần gũi với thiên nhiên: đối với loại hình du lịch sinh
thái, thiên nhiên đóng vai trò vô cùng quan trọng. Khi tham quan loại hình này du khách sẽ có
cơ hội tìm hiểu nhiều về thiên nhiên, cây cỏ, sông nước.
- Hỗ trợ cho việc phát triển cộng đồng địa phương: loại hình du lịch sinh thái mang tới
vai trò cải thiện đời sống, thêm những lợi ích cho cộng đồng địa phương cũng như môi trường
của khu vực đó.
- Dựa trên sự hấp dẫn về tự nhiên: đối tượng của du lịch sinh thái là những khu vực hấp
dẫn về môi trường tự nhiên, đa dạng sinh học và những nt văn hóa bản địa đặc trưng. Đặc biệt
những khu vực tự nhiên còn tương đối hoang sơ, ít bị tác động bởi các hoạt động con người.
Hoạt động du lịch sinh thái thường được diễn ra và thích hợp với các vườn Quốc Gia và các
khu bảo tồn thiên nhiên (Báo Lao động Đồng Nai, 2020).
3.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái của Bình Dương
3.2.1. Vị trí địa lý
Bình Dương có diện tích tự nhiên lên đến 2.695,5 km2, chiếm 0,83% diện tích tự nhiên
của cả nước. Phía Bắc giáp với Bình Phước, Phía Đông giáp với Đồng Nai, phía Tây giáp với
Tây Ninh và phía Nam và Tây Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh. So với một số tỉnh trong
vùng Bình Dương được đánh giá cao hơn về cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Trên bộ có nhiều
tuyến giao thông huyết mạch như quốc lộ 1A, quốc lộ 13 kết nối với Campuchia qua cửa khẩu
Hoa Lư (Bình Phước), Vành Đai 4 kết nối 5 tỉnh Đông Nam Bộ, các tuyến giao thông tỉnh lộ
khá dày đặc kết nối với các tỉnh trong vùng như Tl.741 – Tl.747, tạo lực Bắc Tân Uyên – Phú
Giáo – Bàu Bàng, Mỹ Phước – Tân Vạn. Ngoài ra, Bình Dương có nhiều dự án lớn về giao
thông sắp được triển khai như cao tốc TP.HCM – Thủ Dầu Một – Chơn Thành, Cao tốc TP.
HCM – Lộc Ninh, Metro thành phố mới Bình Dương – Uyên Hưng – Tân Thành, Metro Dĩ An
– Tân Uyên, kéo dài metro Bến Thành – Suối Tiên đến thị x Dĩ An. Về hàng không, tuy không
có cảng hàng không nhưng khoảng cách lên đến sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất lớn nhất cả nước
không quá xa chỉ 30km. Hệ thống giao thông đường sông thuận tiện nhờ ba mặt giáp các sông

29
lớn như sông Sài Gòn, Đồng Nai, sông Bé, Thị Tính lên việc di chuyển giữa các tỉnh trong vùng
dễ dàng và thuận tiện, giảm tải cho giao thông trên bộ. Có thể thấy sự đa dạng về giao thông là
điều kiện hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và du lịch sinh thái của tỉnh nói
riêng (Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, 2023).
3.2.2. Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên
Tỉnh nằm trên vùng đồng bằng và Bình Nguyên rộng chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung
Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long; khí hậu cận xích đạo với liều lượng cao và hầu như ít thay đổi
trong năm. Các diễn biến thất thường về khí hậu quanh năm rất nhỏ, ít có thiên tai, không quá
lạnh, ít bị ảnh hưởng của bo; là khu vực có sông lớn và dài với mật độ phân bố tương đối thấp
0,5 km/km2, có nhiều hồ lớn và hệ sinh thái dọc theo các con sông hết sức đa dạng thuận lợi cho
phát triển du lịch. Tài nguyên gắn liền với cảnh quan hệ sinh thái sông, hồ hết sức đa dạng, có thể
chia ra: không gian phía Nam (thị xã Thuận An, thành phố Thủ Dầu Một và khu vực phía Nam
thị xã Bến Cát) được thiên nhiên ban tặng cho các dải đất màu m, được bồi đắp từ các dòng sông
lớn như sông Sài Gòn, sông Thị Tính. Khu vực đ và đang hình thành các vùng trồng trái cây
miệt vườn trù phú, mang đậm nét Nam Bộ như Lái Thiêu, Bến Cát…; Khu không gian phía
Đông (thị xã Tân Uyên, huyện Bắc Tân Uyên và huyện Phú Giáo) với các cù lao được sông bồi
đắp như cù lao như cù lao Rùa, cù lao Bạch Đằng, hồ Đá Bàn với hệ sinh thái miệt vườn như các
trang trại, các vườn cây ăn trái có múi như bưởi, cam, quýt để phục vụ khách đến tham quan
thưởng ngoạn và thưởng thức các loại trái cây; Không gian phía Tây Bắc (khu vực phía Bắc thị
xã Bến Cát, hồ Dầu Tiếng – núi Cậu, hành lang ven sông Sài Gòn khu vực Dầu Tiếng) đ hình
thành các điểm đến du lịch như núi Cậu, hồ Dầu Tiếng, hồ Than Thở, hồ Cần Nôm, sinh thái miệt
vườn tham quan vườn trái cây ở xã Thanh Tuyền (Hà Văn Kiên, 2022).
Tài nguyên du lịch gắn liền với cảnh quan núi có ý nghĩa đặc biệt trong phát triển du lịch
như quần thể di tích núi Cậu nằm bên cạnh hồ Dầu Tiếng. Quần thể bao gồm 21 núi với tổng
diện tích lên đến 1.600 ha, với hình dạng chữ U, độ cao trung bình trên 200m (Phùng Hiếu,
2015). Đây là địa điểm thích hợp khai thác hoạt động du lịch sinh thái kết hợp du lịch khám
phá, mạo hiểm và tâm linh. Với cảnh quan địa hình hết sức đa dạng tạo điều kiện thuận lợi cho
các công ty lữ hành khai thác và xây dựng các sản phẩm du lịch phù hợp và đặc trưng riêng
3.2.3. Tiềm năng về tài nguyên nhân văn
Các di tích lịch sử- văn hóa: Bình Dương có hệ thống các di tích lịch sử và văn hóa đa
dạng, thuận lợi cho việc khai thác phát triển du lịch.
Bảng 1: Phân loại di tích của Bnh Dương năm 2021
Loại di tích
Xếp hạng
Chưa xếp hạng,
đánh giá
Cấp Quốc gia
Cấp tỉnh
Khảo cổ
2
0
Lịch sử
4
46
500
Kiến trúc nghệ thuật
6
3
Danh thắng
1
1
Tổng số
13
50
500
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Trung tâm Xúc tiến Du lịch tỉnh Bnh Dương, 2023)

30
Bình Dương là một vùng đất lịch sử phát triển lâu đời. Các di chỉ văn hoá khảo cổ đ
chứng minh con người tiền – sơ sử đ có mặt trên vùng đất này, từ thuở hậu kỳ đá cũ đến sơ kỳ
đá mới, cách đây trên mười ngàn năm. Quá trình phát triển đó đ khiến cho Bình Dương nói
riêng và Đông Nam Bộ nói chung, có được sự đa dạng về cơ cấu dân cư, dân tộc và văn hoá.
Địa chất Bình Dương có đặc trưng của vùng chuyển tiếp giữa đới nâng bóc mòn Đà Lạt với đới
sụt lún tích tụ đồng bằng sông Cửu Long… Do đó, địa hình Bình Dương mang nhiều yếu tố
đặc trưng nằm giữa vùng trung du và châu thổ, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cuộc sống
của con người. Minh chứng cho điều này, vùng đất Bình Dương ngày nay đ được giới khảo
cổ học phát hiện nhiều di tích khảo cổ học có giá trị, có thể kể đến như khu di tích khảo cổ học
Cù Lao Rùa. Khảo cổ cho thấy văn hóa thời tiền sử vùng Đông Nam Bộ. Tại đây phát hiện ra
nhiều công cụ bằng đá, đồ trang sức, đồ gốm, đất nung nhằm phục vụ cuộc sống của người cổ
đại xa xưa. Hay khu di tích khảo cổ Dốc Chùa chính là nơi gìn giữ gần như toàn vẹn các bằng
chứng của đời sống vật chất và tinh thần người cổ từng sinh sống nơi đây, là nơi bảo tồn các
thành tựu đỉnh cao của một trung tâm kim khí quan trọng vào thời điểm xấp xỉ 3.000 năm trước.
Di tích Dốc Chùa vì thế có một vị trí rất quan trọng trong thời tiền – sơ sử Đông Nam bộ nói
chung và Bình Dương nói riêng. Di tích khảo cổ Phú Chánh, với sự xuất hiện các trống đồng
Đông Sơn được xác định niên đại từ thế kỷ III đến thế kỷ I đầu Công nguyên, phát hiện nhiều
loại hình di vật gây bất ngờ cho giới khảo cổ và là di tích mang nhiều tư liệu mới cho ngành
khoa học khảo cổ ở Việt Nam. Bên cạnh các di vật như trống đồng, cọc gỗ, chum gỗ, di tích
Phú Chánh có hàng loạt di vật gỗ khá lạ mà sau đó, qua một thời gian nghiên cứu, các nhà khảo
cổ mới xác định đó là những dụng cụ có khả năng là công cụ dệt vải của cư dân Phú Chánh lúc
bấy giờ. Có thể thấy, sự đa dạng về văn hóa cổ thông qua các di khảo được tìm thấy chứng minh
về sự đa dạng của văn hóa Bình Dương, là tiền đề cho thiết kế các sản phẩm du lịch nghiên cứu,
tìm hiểu văn hóa (Văn Thị Thùy Trang, 2019).
Hệ thống các di tích lịch sử cách mạng: nhắc đến di tích lịch sử cách mạng thì có thể đến
nhiều điểm đến nổi tiếng như nhà Phú Lợi, chiến thắng Bàu Bàng, Lai Khê, chiến khu D, địa
đạo tam giác sắt Tây Nam Bến Cát, sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh…các di
tích lịch sử cách mạng trên gắn liền với cuộc cách giải phóng dân tộc của đất nước ta, hàng năm
đón hàng trăm nghìn lượt khách khách đến tham quan, góp phần giáo dục ý thức, trách nhiệm
của thế hệ trẻ về lịch sử đấu tranh tranh giải phóng dân tộc.
Bình Dương hiện có 4 ngôi nhà cổ được xếp hạng di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật.
Trong đó, năm 1993, Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng
di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia cho nhà cổ ông Trần Công Vàng và nhà cổ ông
Trần Văn Hổ. Hai di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh là nhà cổ ông Nguyễn Tri Quan
(TP Thủ Dầu Một) và nhà cổ Đỗ Cao Thứa (thị xã Tân Uyên). Các nhà cổ trên đều mang nét
kiến trúc độc đáo của Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các ngôi nhà cổ
cho thấy nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ, bài trí vật dụng bên trong ngôi nhà được giữ nguyên
trạng và đ trải qua hơn một thế kỷ. Ngoài ý nghĩa về mặt lịch, hệ thống nhà cổ cho thấy ý nghĩa
về mặt kiến trúc nghệ thuật, giúp các nhà nghiên cứu, sinh viên ngành kiến trúc xây dựng,
những người quan tâm hiểu hơn về nghệ thuật kiến trúc của người dân Nam Bộ nói chung và
Bình Dương nói riêng (Trung tâm Xúc tiến Du lịch Bình Dương, n.d).