Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TR ƯỜNG ĐẠ I HỌC MỞ TP.HCM KHOA SAU ĐẠI HỌC
QQUUẢẢNN TTRRỊỊ TT HHAAYY ĐĐỔỔII
Chương 12:
CÁC MÔ HÌNH KHOA HỌC PHỨC HỢP CỦA SỰ
THAY ĐỔI VÀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC
:
Giảng viên TS. NG UYỄN HỮU LAM
: Trợ giản g ThS. TRẦN H Ồ NG HẢI
Nhóm 12 : NGUYỄN DI ỆU NGUYÊN KHANH
NGUYỄN NGỌC QUỲNH NHƯ
PHẠM ANH T UẤN (1973)
PHẠM BÁ MI NH LỘC
TP.Hồ Chí Minh – Tháng 6 Năm 2010
Lớp : MBA8
Nhóm 12 1
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Chương 12: CÁC MÔ HÌNH KHOA HỌC PHỨC HỢP C ỦA SỰ THA Y
ĐỔI VÀ ĐỔ I MỚ I TỔ CHỨC
Kevin J. Dooley
Khoa học ph ức h ợp là từ dùng để m ô tả một nhóm rất rộng và đa dạn g về quan niệm , m ô hình
và phép ẩn dụ ph ục v ụ cho các thuộ c tính mang tính hệ thống và năn g động của các hệ thống
có sự sốn g (t heo Gell-Mann, 1994; Hol lan d, 1995; Jantsch, 1980; Maturana và Varela, 1992;
Prigo gin e và Stengers, 1984). Khoa học phức hợp bắt nguồn từ lý thuyết chun g về hệ thống
nhưn g cũng x ét đến các nguyên lý và đặc tính cơ bản của các hệ thống có sự sốn g, chẳn g hạn
như việc tự tái tạo, sự h ình thành trật tự từ quyền lực, sự tự tổ chức, đồng tiến hóa v ới m ôi
trường, tính phi tuyến tính, sự nổi trội và các kh ao khát riên g tư, các ch uẩn mực, biểu hiện,
cũng như thực tại của con n gười (Lewin, 1992; Waldrop, 1992; An der son, 1999; Guastello,
2002). Khoa học phức hợp đủ rộng và bao quát để bao gồm trong nó các quan điểm tích cực
lẫn tiêu c ực ( St acey, 1999) và tạo ra nền tảng phon g phú cho sự phát triển cả về mặt lý t huyết
lẫn thực tiễn cho các nhà nghiên cứu cả định tính lẫn định lượng.
Một yếu tố chun g trong tất cả các mô hình khoa học phứ c hợp chính là ch ún g trực tiếp kết
hợp với chiều thời gian – do đó ch ún g trở nên rất thú vị đối với c ác nhà lý luận về t ổ chức
đang n gh iên cứu các hiện tượn g liên quan đến sự thay đổi, vì sự thay đổi ch ỉ có thể được định
nghĩa và nghiên cứu thông qua thời gian. Thật ra, nó có thể là phần hấp dẫn của khoa học
phức hợp vì lý do là chỉ có một vài m ô hình của học th uyết tổ chức kết hợp với chiều thời
gian theo một cách riên g biệt nào đó. Các mô hình khoa học phức hợp có x u hướn g vượt ra
ngoài mức độ m ô tả tiến trình thông thường của các ho ạt động và sự kiện ; hơn n ữa cơ chế
phát sinh tạo ra t hay đổi thườn g được đề c ập m ột cách chi tiết. Do vậy cá c m ô hình của khoa
học phức hợp thườn g có cá c đặc tính của cả lý t huy ết phương sai trong đó ch úng khái niệm
hóa các liên kết nhân quả giữa các biến và – hoặc cấu trúc, và lý thuyết quá trình, ở chỗ
chún g trực tiếp trình bày làm thế nào m à các thay đổi theo thời gian có t hể xảy ra. Do đó, các
m ô hình khoa học phức hợp trả lời cho câu hỏi ‘v ì sao’ và ‘nh ư thế nào’ c ủa thay đổi tổ chức.
Khoa họ c phứ c hợp – m ô hình lấy nguồn cảm hứn g từ thay đổi tổ ch ức có thể được phân làm
bốn lĩnh v ực ch ung. Các m ô hình hệ thống thích ứng phức hợp là các m ô hình mô phỏng, ở
đó các ch ủ thể theo đuổi m ục đích luận. Các chủ thể n ắm giữ các quy định v ề hoạt độn g quy
định làm thế nào chúng tương tác v ới môi trường, bao gồm nguồn lực và các chủ thể khác.
Các chủ thể thường là khôn g đồn g nh ất, và chúng học được cách cải thiện sự ph ù h ợp của
m ình qua thời gian. Các cơ cấu bên trong mô hình có x u hướn g trở nên phức tạp. Các m ô
Nhóm 12 2
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
hình hệ thống thích ứn g ph ức hợp (CAS) mô tả một phần của hệ thống (ch ủ thể, vật thể và
nguồn lực) và cách chúng tương tác với nhau. Các n guyên lý ch ủ yếu đều dựa trên khoa học
điện toán và tâm lý học nh ận thức (và theo một chừn g mự c ít hơn, dựa trên các bộ môn khoa
học xã hội kh ác). Các nhà n gh iên cứu sử dụng các mô hình CAS theo cá ch diễn dịch, bởi họ
phải tạo ra m ột mô hình tiên quyết ban đầu và m ô phỏng về nó để n ghiên cứu về các thuộc
tính nổi bật và các m ẫu trong hệ thống.
Mô hình điện toán là các m ô hình mô phỏng trong đó các thành phần của m ột hệ thống đồn g
tiến hóa theo thời gian. Các phần đó có t hể là ch ủ thể hay đơn thuần chỉ là một nhân tố của
m ột chỉnh thể thống nhất. T hay đổi được thúc đẩy bằng các tương tác khôn g theo mục đích
luận, dựa trên t ương tác cục bộ giữa các thành phần. Các cơ chế bên t rong các nguyên lý có
xu hướn g là đơn giản. Các nguyên lý chính yếu là toán học và khoa học m áy tính. Tương tự
như các m ô hình CAS, m ô hình điện toán cũn g được sử dụng theo hình thức diễn dịch.
Mô hình năng động là c ác m ô hình toán họ c điều tiết cách thứ c, và thường là cả nguyên nhân
vì sao, các biến số chúng ta quan sát được trong các hệ thống phức hợp thay đổi theo thời
gian. Các biến n ày có hoặc không đại diện cho các cấu trúc cấp cao hơn. Tươn g tác giữa các
biến có thể tuyến t ính hoặc phi tuyến, rời rạc ho ặc liên tục. Cái nguyên lý ch ủ chốt là toán
học và thống kê. Các nhà n gh iên cứu có thể sử dụng mô hình năng độn g theo phươn g pháp
quy nạp bằn g c ách thực hiện m ô hình hóa dữ liệu thực n ghi ệm và sau đó lý luận bằn g cách
quan sát c ác mô thức, hoặc diễn giải m ô thức theo cách tươn g tự như sử dụn g m ô hình v i tính
hóa.
Mô hình tự tổ chức là các mô hình toán học và khái niệm, chỉ ra cách thức xây dựng trật tự
bên trong hệ thốn g. Mô hình tự tổ chức tập trung v ào sự khác biệt biện chứn g tồn tại trong hệ
thống và vai trò của “năng lượng” tron g cấu trúc ch uyển đổi. Mô hình này nhấn mạnh vào
các thay đổi đán g kể về cấu trúc diễn ra như thế nào, bao gồm trật tự được tạo r a n gẫu nhiên
như thế nào. Các nguyên lý chi phối là sinh học và nh iệt động lực họ c. Các nhà n ghiên cứu sử
dụng mô hình tự tổ chức theo lối diễn dịch lẫn quy nạp; trước tiên các m ẫu được quan sát cho
thấy đó là một quá trình tự tổ chức, sau đó các cơ chế nhân quả cụ thể ch ẳn g hạn nh ư v iệc tự
tổ chức được đặt thành giả thuyết.
Vì vậy các m ô hình tron g bốn lĩnh vực trên m ô tả cách m à các bộ phận của hệ thống lẫn các
thuộc tính của ch ún g tương hỗ với nha u nh ư thế nào. Bốn cách phân loại trên đây chỉ mang
tính mô tả chứ không th uần t úy là lý thuy ết – trên thực tế còn có các đặc tính của mô hình
chồng chéo lên các giới h ạn nêu ra, v à thông thườn g không có mô hình cụ thể n ào có thể
phân loại được các m ô hình của khoa học phức hợp.
Nhóm 12 3
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Các m ô hình trong bốn phân nhóm trên phản ánh sự thay đổi theo đún g vớ i phân nhóm do
Van De Ven an d Poole (1995) đề x uất. Các m ô hình CAS m ang tính m ục đích luận về bản
chất và khắc họa một thay đổi m an g tính xây dựn g được gây r a bởi các chủ thể r iên g lẻ đan g
tiếp tục hoàn thiện t rong các mức độ ph ù hợp của mình, m ặc dù sự phù hợp có thể có c ác yếu
tố toàn cục và t ổng hợp. Các cơ chế tiến hóa, như thuật toán di tr uyền, có thể được ch èn vào
trong logic của m ô hình CAS, để từ đó các ch ủ thể có t hể học theo. Các m ô hình tự tổ chức
cũng xem thay đổ i là mang tính xây dựng, nhưng từ góc độ biện chứn g so vớ i m ục đích luận.
Trong khi m ô hình CAS xem chính các ch ủ thể chịu trách nhiệm về sự thay đổi thì m ô hình
tự tổ chức nhấn mạnh cách mà các liên kết và tương tác giữa các thành phần trong hệ thống
tạo ra t rật tự và sự thay đổi. M ục đích luận trong quá t rình tự tổ chức chính là m ong muốn
của hệ thống m uốn phát ra một nguồn năng lượn g hay một lượng thông tin bằng các cách
thức hiệu quả hơn. M ô hình năn g động khắc họ a thay đổi bằn g các cơ ch ế phát sinh bên trong
hệ thống, tập trun g vào từn g thực t hể hay biến đơn lẻ, vốn có thể gắn kết vào cá c thành phần
của hệ t hống hoặc vào chính hệ thống như một thể thống nhất. Các mô hình năng độn g hầ u
như không có m ục đích luận, m à thay vào đó nó khắc họa sự thay đổi như một chu kỳ sống,
không thể tránh khỏi và được quy định bởi cơ chế phát sinh. Các mô hình điện toán mô tả sự
thay đổi như một thuộc tính cố hữu của hệ thốn g, bởi nó liên quan đến sự tương tác của nhiề u
thực thể khác nhau. Trong khi mô hình điện toán mô tả c ác quá trình tiến hóa, h ầu hết chún g
lại khôn g có một bộ phận đặc trưng nào cho sự lựa chọn hay thích nghi. Do đó các m ô hình
điện toán có tính chất của cả hệ thức tiến hóa lẫn hệ thức chu kỳ sốn g.
Các m ô hình khoa học phức hợp có thể được sử dụn g để mô tả sự thay đổ i trong tổ chức ở
nhiều cấp độ và cấp tư duy khá c nhau: m ột cá nhân, một chủ thể (ví dụ sự kết dính, n guồn
lực, côn g nghệ), một quy trình tổ chức, m ột nhóm hay tiểu nhóm, và cả tổ chức nói chung.
Trên thực tế, nhiề u tác giả đề r a các mô hình khắc họa tầm quan trọn g c ủa m ột cá nhân riêng
lẻ, m ối quan hệ của cá nhân đó với nhữn g n gười xung quanh, thế nhưng điều này bị thiên
lệch do áp đặt từ m ôi trườn g hơn là từ chính các m ô hình. Thực tế cho thấy, các mô hình
phức hợp, chẳn g hạn m ô hình lý thuyết hệ thống, đủ bao quát để có thể được sử dụng ở các
cấp độ, thậm chí là nhiều cấp độ, khác nhau (mặc dù nhi ều ứn g dụn g lại khôn g ph ải là các
vấn đề đa cấp độ có liên quan).
Trước khi bàn v ề bốn lĩnh vực mô hình, cần ph ải lưu ý cách m à hệ thống lý thuy ết chun g,
tiền đề của khoa học phức hợp, định n ghĩa về hiện t ượng thay đổi. Lý thuy ết hệ t hống đã có
ảnh hưởn g đến tư duy và m ô hình của các nhà khoa học xã hội kể từ khi được tiếp nhận vào
giữa thế kỷ 20 (Jantsch, 1980). Mô hình lý t huyết hệ thống làm t heo những quan hệ nhân quả
Nhóm 12 4
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
giữa các biến và/hoặc cấu trúc – thế nhưng trong khi khoa học truy ền thống đặt ra m ột m ối
quan hệ đơn tuyến giữa nguyên nhân v à kết quả ( chẳn g h ạn sinh viên được độn g viên sẽ chị u
khó học nhiều hơn). Tuy nhiên kết quả đạt được không nhất thiết phải diễn ra vào cùn g m ột
lúc, m ặc dù biến A tác độn g lên biến B, và biến B tác động đến biến A và cứ thế tiếp diễn.
Tác động của B lên A gọi là tác độn g phản hồ i.
Một dạng tác động phản hồi có tên gọi là vòn g củng cố, ở đó các biến A và B tác độn g lẫn
nhau theo ch iều h ướng tươn g tự nh au, và điều này dẫn đến các quá trình diễn ra t heo từng đợt
và sự ph át triển tương ứng ở cả A và B ( chỉ về m ặt lý thuyết). Do đó, cũn g giốn g nh ư m ột
m icro và một cái loa có thể tương tác tích cực với nhau đến một điểm nào đó tác độn g phản
hồi khiến cho hệ thống “ phát nổ” vì vượt quá giới hạn vật lý của nó, và ý ch í cũng giốn g như
vậy ví dụ nh ư sự độn g v iên và học tập cũn g tương tác tích cực với nh au cho đến khi đạt được
giới hạn của n ăn g lực. Một vòng củng cố c ũng hàm ý nếu sự độn g viên giảm đi, quá trình học
cũng giảm theo, điều này sẽ dẫn đến vi ệc giảm đi sự thúc đẩy sau đó, và cứ thế tiếp diễn. Các
vòng củn g cố được thực hi ện trong tổ ch ức theo dạn g chế độ tiền thưởng, ph úc lợi xã hội,
kinh tế vì quy mô, m ột số yếu tố đánh giá năn g lực và sự gia tăng cam kết , .v.v.
Phản hồi cũn g có t hể t ạo ra một vòng thăng bằng, vốn đặc biệt gắn liền với mức độ của m ột
biến có m ột mục tiêu mà nó mong m uốn đạt được, hoặc m ột dạn g giới hạn nào đó. Một vòng
thăng bằn g tạo ra sự phản hồi giảm dần, v à theo cấp số nhân ở các biến liên quan. Do vậy,
chẳn g hạn như khi có m ột chiếc xe hơi đến gần một biển báo dừn g lại, n gười tài xế ph ản hồi
(thắng xe) để dừng xe lại, khi xe tiến dần đến đích. Các giới hạn t ự nhiên cũn g có thể đóng
vai trò như nhữn g n guồn c ủa vòng thăng bằng, giữ cho hệ thống nằm trong c ác r anh giới khả
dĩ có thể hoạt động được. Các vòn g thăng bằn g cũng được kí ch hoạt trong các tổ chức dưới
hình thức phê bình (m ang tính chất xây dựn g), quản lý để đạt được kết quả vượt trội, hệ
thống quản lý dự án, các quy định và chính sách trong tổ chức.
Các nhà ngh iên cứu trong tổ chức có thể lý thuyết hóa tác động phản hồi bên trong m ô hình
của m ình, nhưng không bao giờ kết hợp ch ún g vào các m ô hình sẽ được kiểm soát toàn diện,
bởi điều n ày yêu cầu việc thu thập các dữ liệu theo chiều dọc. Chặt chẽ h ơn, một m ô hình cho
rằng A tạo ra B phải cho thấy A x uất hiện t rước B v ề m ặt thời gian. Thực tế cho thấy điều
này khôn g thể thực hiện được. Để thể h iện mối quan h ệ nhân quả song phương giữa A và B,
A phải được quan sát vào m ột thời điểm cụ thể, B phải được quan sát sau đó, rồ i lại về với A
sau khi quan sát B, do đó đòi hỏ i phải có ít nhất 3 mẫu ở 3 thời điểm khác nhau.
Sự chênh lệch giữa n guy ên nhân v à kết quả này v ề sau sẽ làm phức tạp hóa cả việc tạo thành
m ô hình lý thuyết hệ t hống lẫn việc quan sát các mẫ u này, bởi sự chênh lệch đó khôn g thể
Nhóm 12 5
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
xác định được, hoặc có thể tự thay đổi t heo thời gian. Chẳng hạn ở các mẫu liên kết các thay
đổi ở các cấp đầu tư tron g tổ chức khi n ghiên cứu t hị phần của công ty trên thị trườn g, chênh
lệch giữa đầu tư và tạo ra thành côn g c ác sản phẩm mới phải được xét đến, và cách này có thể
thay đổi và thậm chí còn khác biệt trong các n gành công nghi ệp cụ thể, hoặc thay đổi do các
tác động về côn g nghệ hoặc thị t rường.
Các nhà khoa học xã hội nhanh chóng nhận ra giá trị khái quát mà lý thuyết hệ t hống mang
đến, v à việc sử dụn g nó nh anh chóng được phổ biến. Cụ thể, n gười ta quan tâm nhiều hơn
đến điều khiển học, và họ tìm cách tìm hiểu cách thức bộ não hoạt độn g, sử dụng một m áy
tính làm mô phỏng ý thức của con người (Minsky, 1986). Forr ester (1961) sử dụn g các m ô
hình năn g động mà ông gọ i là động lực hệ thống để kh ám phá m ối quan hệ giữa các biến ch ủ
đạo t rong các hệ thống xã hộ i quy m ô lớn như các ngành côn g n ghiệp, các cộng đồn g, c ác hệ
sinh thái. Nhìn ch un g, quan hệ giữa các biến được mô phỏng trở lại sử dụng các phươn g trình
tuyến tính giản đơn. Trong khi hành vi của m ột mối quan hệ đơn nhất khá là rõ rệt, chính
hành vi tổng hợp phát sinh từ các cặp đôi ph ức tạp của các biến dẫn đến các kết quả đán g
kinh ngạc và giải thích được nh iều điều.
Trong lúc các nhà n ghiên cứu như Ch eckl an d, A ckoff và Ashby tiếp tục phát triển các ứn g
dụng lý thuyết hệ thống vào khoa học xã hội, mãi đến kh i các công trình c ủa Deming (1986)
và Senge (1990) thì lý thuyết hệ thống m ới có m ột cuộc cách tân trong n ghiên cứu v à ứn g
dụng trong tổ chức. Các khá i ni ệm về việc học tập tổ chức và quản lý ch ất lượn g toàn diện đã
giới thiệu lý thuyết hệ thống đến cả một thế hệ mới các học giả và những người thực hiện.
Trong khi lý thuyết hệ thống tạo ra một nền tảng về nhận thức v à tri thức quan trọng cho v iệc
nghiên c ứu các hệ thống phức tạp hơn, nó lại không giải quyết thỏa đáng các đặc tính liên
quan gắn liền với các h ệ thống đan g tồn tại, dù đó chỉ là một tế bào, một cá thể sinh họ c hay
m ột hệ thống xã hội. Các m ối quan h ệ nhân quả, dẫu son g phương và đa dạn g, vẫn thườn g
được tạo ra bằn g những cách rất giản đơn và t uyến tính. Lý th uyết hệ thống mô tả không phải
cách các thực thể t rong một hệ thống giao t iếp với nhau, mà ch ính là các biến giao tiếp, và
các biến đó chính là đặc điểm c ủa thực thể bên trong hệ thống, h ay chính bản thân hệ t hống.
Do đó m ô hình lý thuyết hệ thống là “từ trên xuống”, trong đó chúng yêu cầu n gười làm mô
hình phải xác định trước các biến quan trọng nh ất và chún g tươn g quan với nhau như thế nào.
Mô hình lý thuyết hệ thống khắc họa “ cuộc sốn g” là m ột cái gì đó được duy trì m ột cách m áy
m óc bằn g các quá trình luôn hướn g đến sự cân bằng. Các m ô hình trong khoa học phức hợp
kết hợp nhân quả tuyến tính và phi tuy ến; chúng m ô tả cả thực thể và các biến trong hệ thống;
cả “từ trên xuốn g” và “từ dưới lên”, có nghĩa là hành v i thườn g được quy định chỉ m ang tính
Nhóm 12 6
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
chất c ục bộ, và hành vi toàn cục thì được quan sát thông qua sự mô phỏng; và cuố i cùng mô
hình “cuộ c sống” là quá t rình năn g động mà chỉ tồn tại dưới trạng thái gần như cân bằn g.
Trong khoa học phức hợp, trạn g thái cân bằn g không tồn tại, bởi về khái n iệm cuộ c sống là
sự ch uyển động.
Phần còn lại của chươn g sẽ được sắp xếp như sau. Trước h ết, m ỗi 4 loại của m ô hình khoa
học phức hợp được mô tả như là chún g có liên quan đến thay đổi tổ chức, và ứng dụn g của
chún g để bàn về các nghiên cứu trong tổ chức. Một ví dụ minh chứn g cho việc mỗi 4 loại c ủa
m ô hình có thể được áp dụn g như thế nào vào việc khái quát hóa sự thay đổi bên trong tổ
chức hệ thống. Chương này kết luận bằng việc thảo luận một số thách thức tương lai m à các
nghiên cứu dựa trên khoa học phức hợp về t ổ chức phải đối mặt, liên quan đến cả khái niệm
và phươn g ph áp nghiên cứu.
Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp của sự thay đổi tổ chức
Mô tả khái q uát
Tổ chức có thể được co i là ví dụ của một lớp học cơ bản của h ệ thống phức tạp gọi là hệ
thống thích ứng phức h ợp, hoặc CAS. Các nhà lý thuyết tổ chức thường hay liên hệ thuật n gữ
phức hợp với việ c m ô tả những hoạt độn g đang diễn ra bên trong tổ chức (Dooley, 2002a);
chẳn g hạn như m ột công ty với nhiều ch uyên gia thì phức tạp hơn côn g ty có ít chuyên gia
(Khan dwalla, 1977). Đối với trườn g hợp CAS, sự phức hợp liên quan tới cách t hức mà hệ
thống ứn g x ử vớ i cấu trúc nội tại của nó; hành vi t ổng hợp của hệ thống thì khôn g thể dự
đoán được v à cũng khôn g thể dựa trên thành phần của nó mà hiểu hay l àm giảm đi các hành
vi được ( Hol lan d, 1995). Trong một hệ t hống phức hợp, hai cộn g ha i khôn g nhất thiết bằng
bốn. Nhiều hệ thống rất phức tạp – chẳng hạn như thời tiết, hệ sinh thái, mạn g thông tin. Một
hệ thống ph ức h ợp có tính thích ứng nếu nó tự thay đổi bằn g cách dùng các tiến trình phi
cách mạn g (hay còn được gọi là Larmarkian) theo thời gian sẽ nh anh hơn so với tiến hóa sinh
học theo thời gian. Ví dụ v ề một CAS bao gồm nền k inh tế, hệ thống giao t hông, và v ăn hóa
( Gell-Mann, 1994). Định n ghĩa chuẩn nhất về CAS của Holland (1995) là đặc tả ngôn n gữ do
m áy tính mô phỏng (Swarm ) là điều đáng để chúng ta lưu ý. Do đó sự kết nối giữa gó c nhìn
theo CAS và tạo mô hình điện toán rất mạnh. Các yếu tố thành phần của CAS được thể hiện
trong hình 12.1.
Nhóm 12 7
Sự kết nối hỗ trợ cho nguồn lực v à thôn g tin
Văn bản
Tác nh ân
Sự phù hợp
Giản đồ h ành vi và hiểu bi ết
- vài qui luật đ ơn giản
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Giả định của sự tồn tại Ranh giới
Môi trường Hình 12.1
Các yếu tố cơ bản của CAS là các chủ thể. Chủ thể là các đơn vị bán độc lập (semi-
autonomous) mà nó đan g tìm cách tối đa hóa mức độ ph ù hợp bằn g c ách tiến hóa theo thời
gian. Các ch ủ thể lướt qua m ôi trường c ủa nó (cả nội bộ lẫn bên n goài hệ thống) và giải thích
nhữn g cái nhìn tổng quát thông qua các giản đồ. Các ch ủ thể có thể đại diện cho cá thể hoặc
nhóm , phòng ban hay cả công ty. Các giản đồ là các mẫu tư duy (nằm trong mô hình điện
toán, các mẫu điện toán) xác định thực tế được diễn giải như thế nào và đâ u là các phản hồi
tương ứn g với các chiều hướn g có trước. Nh ững giản đồ này t hườn g tiến hóa từ những giản
đồ nhỏ hơn, c ơ bản hơn (Ho llan d, 1995). Các ch ủ thể được giả định là có giới hạn hợp lý và
có thể là giới hạn tr uy c ập thông tin trong hệ thốn g, và các giản đồ có thể khác nhau giữa các
chủ thể bởi khí chất cá nhân trong cách m ỗi người đưa ra quy ết định như thế nào (March,
1994). T rong một chủ thể, nh iều giản đồ mâ u th uẫn nh au vẫn có thể tồn tại, đố i lập nha u
thông qua quy trình tuyển chọn – thực h iện – cách ly. (Weick, 1979).
Khi m ột quan sát không ph ù hợp v ới nhữn g gì m ong đợi, m ột chủ thể có thể hành động để
tương thích v ới sự quan sát nhằm phù h ợp với giản đồ hiện hữu. Một ch ủ thể cũn g có thể thay
đổi m ột giản đồ để phù hợp hơn với quan sát. Giản đồ có thể thay đổi thông qua một biến đổi
ngẫu nh iên hoặc có ch ủ đích, v à/hoặc kết hợp với các giản đồ khác. Trong hầu h ết các m ô
hình CAS, biến đổi ngẫu nh iên không được chấp nhận trừ khi chúng tươn g thích với sự gia
Nhóm 12 8
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
tăng mức độ phù hợp của ch ủ thể. Khi một giản đồ thay đổi, nó thường có tác dụn g làm cho
các ch ủ thể m ạnh m ẽ hơn (hoạt độn g bằng cách tăn g biến ho ặc đa dạn g), đán g tin cậy hơn (có
thể đoán trước được), hoặc có khả năn g hơn trong sự đa dạng cần thiết. (Auth ur, 1994).
Sự phù hợp của chủ thể thường được m ô hình hó a như là một yếu tố phức tạp bao gồm nhiều
nhân tố nội bộ và toàn cục. Các ch ủ thể khôn g ph ù hợp có nhiều khả năng tạo ra sự thay đổi
trong giản đồ. T ối ưu hóa sự phù hợp nội tại cho phép sự đa dạn g hóa và tính đặc trưn g; tối
ưu hóa toàn cục của mức độ phù hợp giúp tăn g cườn g tính nhất quán trong CAS như là m ột
hệ thống và dẫn đến việc lưu giữ dài hạn.
Giản đồ cũn g xác định một chủ thể tương tác với các chủ thể kh ác cả trong v à n goài hệ thống
như thế nào. Tương tác giữa các chủ thể liên quan đến việc trao đổi thông tin và/hoặc các
nguồn lực, thông qua các tuyến kết nối. Nh ữn g tuy ến này có thể phi t uyến tính. Thông tin và
nguồn lực trải qua nhiều tác động dựa vào bản chất của việc nối kết trong hệ thống. Vì giản
đồ của ch ủ thể bao gồm các thông tin về các chủ thể khác, n ên hoạt độn g c ủa m ột chủ thể có
thể được coi là thông tin cho các ch ủ thể khác mà kết nối với nó. Các loại kết nối khác nha u
hiện hữu, Kra ckhar dt và Carley (1998) xác định sự kết nối trong hệ thống tổ chức thông qua
m ạng xã hội, mạng côn g việc v à mạng tài n guy ên.
Ghi chú về chủ thể giúp xác định nhữn g gì mà các ch ủ thể có khả năng tươn g tác với c ác ch ủ
thể khác, các ghi ch ú cũng tạo điều k iện cho sự hình thành một khối thống nhất, hoặc siêu
chủ thể. Siêu ch ủ thể giúp phân phố i và phân chia ch ức n ăng, cho phép đa dạn g để ph át triển
và ch uyên m ôn hóa (Hollan d, 1995). Chủ thể hoặc siêu chủ thể cũn g tồn tại bên n goài ranh
giới của CAS, và các giản đồ cũng xác định nhữn g quy tắc tươn g tác liên quan đến dòn g ch u
chuy ển thông tin và nguồn lực như thế nào.
Nhà n ghi ên cứu sử dụn g m ô hình CAS phải ghi rõ nhữn g gì bên trong so với bên ngo ài hệ
thống, hoặc ranh giới của hệ thống. Trong vài t rường hợp, các ranh giới có thể là hiển nhiên,
như ranh giới pháp lý của một công ty. Vài trườn g hợp khác t hì ranh giới được cụ thể hóa
theo các câu hỏ i nghiên cứu. Vì hệ thống có t hể phân rã, nên ranh giới có thể tồn tại và được
m ô tả ở nhiều quy mô khác nh au, dẫn đến hành vi chồn g lắp. Cuối cùng, lẽ tồn tại của hệ
thống được xác định bởi các giả định về tồn tại. Các giả định này có x u h ướn g ảnh hưởn g
đến cách mô hình k ết hợp các đón g góp cho sự phù hợp của ch ủ thể đạt đến bản chất toàn
cục. Chẳn g h ạn như một m ô phỏng của côn g ty kinh doanh sử dụng các tiêu chí kinh tế trong
các chức năn g tạo sự ph ù hợp cho chủ thể, trong khi đó m ột mô phỏng côn g ty phi lợi nhuận
thì sử dụn g các tiêu chí v ề sự vị tha.
Thay đổ i xảy ra trong hệ thống thích ứng phức hợp như thế nào?
Nhóm 12 9
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Có hai loại thay đổi được m ô tả trong mô hình CAS. Trước hết, vì chủ thể trong CAS tươn g
tác liên tục với các chủ thể khác, và thích nghi hoặc phát triển với môi trường, không có sự
thay đổi về dòn g ch u ch uy ển thông tin và nguồn lực, quá trình học hỏi của ch ủ thể hay các
hành độn g m à ch ủ thể thực hiện. Mô h ình CAS thay đổi khi cái gì đó hướn g về m ục tiêu c ủa
các ch ủ thể cá nhân, nhưng các mẫu x uất hiện không nhất thiết mang tính suy diễn ở cấp độ
chủ thể bởi vì bản chất tự tổ ch ức c ủa hệ thống. Thứ h ai, mô hình CAS tươn g đươn g với m ột
tập hợp cụ thể các yếu tố (chủ thể, giản đồ, ranh giới, m ối liên kết), các cấu trúc trong cùn g
của hệ thống chỉ ra thêm các yếu tố gần nh ư thường xuyên và ổn định của hệ thống tổ chức
và sẽ thay đổi kh i m ột hoặc nhiều yếu tố của CAS thay đổi:
- Các chủ thể có thể được thêm vào hoặc bỏ ra khỏi hệ thống, chẳn g h ạn như thông qua
m ở rộng, thu hẹp, sáp nhập hoặc mua lại. Đây cũng là cách cơ bản để ranh giới hệ
thống được thay đổ i.
- Chức năn g phù hợp của ch ủ thể có thể được coi là có ch ứa cả thành tố nội lẫn ngoại
tại, cả các thành tố cá nhân lẫn nhóm. Nó có thể được thay đổi bằng cách thay đổi hệ
thống khen thưởn g, khuyến kh ích, hoặc thay đổi các chuẩn mực v à hệ giá trị.
- Giản đồ sẽ tiến hóa theo thời gian, mạnh h ơn hoặc yếu đi, có thể trải qua đột biến, có
thể được kết hợp với các giản đồ kh ác, hoặc có thể bị loại bỏ hoàn toàn. Trong h ầu hết
các giản đồ CAS thì đều có liên quan đến hành độn g và k ết quả như thế nào, biểu hiện
qua chức năn g phù hợp, liên hệ v ới nhau. Vì vậy, nếu một quy tắc hành độn g nhất
quán được cải thiện thì niềm tin vào quy tắc đó sẽ có xu hướng tăng; quy trình thuộc
tính này ( Hollan d, 1995) là mô hình ho ạt độn g của vi ệc học hỏi của ch ủ thể. Các ch ủ
thể được giả định là có khả năn g học m ột lần, học hai lần hay học nhiều lần. (Ar gyr is
Schon, 1978).
- Sự thay đổi m ột chuỗ i định vị v à vận tốc có thể thay đổi dòn g ch u ch uyển thông tin và
nguồn lực giữa hai hay nhiều chủ thể, tăng hoặc giảm sự trao đổi. Ví dụ, côn g nghệ
thông tin và Internet làm tăng dòng ch u ch uyển thông tin, trong khi đó thì kế ho ạch và
các hình thức phố i hợp khác làm thay đổi định vị sự kiện diễn ra.
- Sự nối k ết giữa các chủ thể có thể được thêm hoặc bớt thông qua ch uyển dịch cơ cấu
và t ái thiết hệ thống, bao gồm việc thay đổi dòn g m ệnh lệnh và t ăn g cườn g k ết nối
thông qua côn g n ghệ thông tin.
- Các ghi chú về chủ thể có thể thay đổi theo một cách hoặc cụ thể hoặc m ang tính hình
tượng. Ví dụ, nhân viên bán hàn g trong m ột công ty đan g phát triển có thể tách thành
Nhóm 12 10
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
hai ch ức năn g kh ác nhau là tiếp thị và bán h àn g; n gười được có ch ức vụ được chỉ định
rõ ràng ph ải có trách nh iệm và cách giao tiếp khác đi.
- Thay đổi chi ến lược trong tổ chức (tầm nhìn và sứ mạn g) đại diện cho sự thay đổi
trong chính c ác giả định hiện hữu.
Ở mức độ ch un g, m ô hình CAS đề xuất phương tiện và cách thức thay đổi tổ chức khác với
nhữn g gì văn bản sử dụng trong tổ chức đan g hiện hữu; nhiều ý nghĩa mà các tác giả rút ra
khi sử dụng CAS như là m ột khun g tiêu chuẩn cho cách t hức mà côn g việc được tìm thấy
trong văn bản, trong lý thuy ết hệ thốn g ch ung, hệ thức dân số, họ c tập tổ ch ức, và nhận thức
tâm lý (Dooley, 1997). Nhận thức có được khôn g đến từ các kết luận chung đã n êu, mà từ
chính các kết luận cụ thể dựa trên mẫu có được trong tay.
Ví dụ của mô hình CAS trong thay đổ i tổ chứ c
Một mô hình chứng tỏ tiềm năng của mô hình CAS là m ô hình điện toán Axt ell (1999) nổi
lên ở các côn g ty. Chủ thể là các cá nhân t ự tổ chức trong công ty bằng cách xem xét sự ph ù
hợp của ri ên g họ. Trước tiên, m ỗi chủ thể được chỉ định tham số “thu nhập – giải trí” và tham
số này x ác định lượn g thời gian cần thiết cho côn g việc (tạo thu nhập) so với thời gian giải trí
(khoảng thời gian l àm việc không hiệu quả); nếu sự phân công này thực hiện ngẫu nhiên thì
tính đồn g nhất của chủ thể được duy t rì. Các tiện ích hoặc ph ù h ợp c ủa chủ thể tại bất kỳ thời
gian nhất định n ào là chức năn g bộ i của các nổ lực mà nó đan g m ở rộng, của sự nổ lực trở lại
cấp công ty và của lượn g thời gian giải trí. T ại các khoảng thời gian ngẫu nhiên, các ch ủ thể
sẽ xem xét vị trí hiện tại và cả (a) việc duy trì mức nổ lực h iện tại, ( b) tăng giảm nổ lực hiện
tại, (c) làm côn g ty mới (solo), ho ặc ( d) chuyển đổi 2 n gười trong côn g ty. Cái m à công ty
nhận được từ nh ữn g nỗ lực tổng h ợp của thành viên dựa vào số thành viên, nỗ lực cá nhân
của thành viên, và bất cứ vi ệc c ùng nhau nỗ lực nào (ví dụ tăng doanh thu). Lợi nh uận cho cá
nhân được chia đều cho tất cả các công ty tham gia.
Mặc dù số lượn g các tham số khác nhau v à điều kiện bắt đầu đó có thể đa dạng, và trên thực
tế là các mô phỏng về chính nó là dựa trên m ột số giả định kh á đơn giản về bản ch ất con
người, kết quả cho thấy, trên thực tế có nhiều y ếu tố thích hợp rập kh uôn việc hình thành
hành vi tổ chức. Ví dụ:
• Khi côn g ty trở nên to lớn, sự đóng góp của một cá thể trở nên nhỏ bé so với sự đón g góp
của toàn bộ tổ chức, và điều này tạo ra “nhữn g người ăn theo” (fr ee ri ders)
• Khi việc ăn theo trở nên phổ biến, năn g suất của côn g ty giảm xuốn g và đa số những người
m uốn “làm việc” thì lại bỏ qua những côn g ty khác, làm cho côn g ty bị suy yếu.
Nhóm 12 11
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
• Trong khi điều kiện cân bằng tồn tại trong lý t huyết có thể dẫn đến t rạng thái tĩnh, luôn có
trạng thái bất ổn năn g động đủ để làm cho điều kiện cân bằng không bao giờ xuất hiện.
• Lịch sử của bất kì côn g ty nào cũn g luôn nổi bật và có đườn g lố i rõ ràn g.
• Ở m ức độ tổng hợp, quy m ô công ty, sự tăng trưởng, và tỷ lệ thất bại c ũng giốn g như số liệu
thực tế.
Điều t hú vị ở đây khôn g phải là có người ăn t heo, hoặc c ác côn g ty sụp đổ và x uất hiện theo
m ột phương thức năn g độn g, hoặc thậm chí tỷ lệ tăng trưởng thực tế có thể bị sao ch ép. Thay
vào đó, điểm cơ bản là tất cả các kết luận, được tìm thấy ở một nơi nào đó trong văn hóa tổ
chức, xuất hiện từ m ột mô hình không có gì h ơn các ch ủ thể bán độc lập cố gắng cải thiện
chức năn g ph ù h ợp đơn giản. Khi có thêm nhiều loại m ô phỏng này được thực hiện, các lý
thuyết nhấn mạnh đến sự tương tác cục bộ dẫn đến mô hình toàn cục sẽ trở nên phổ biến hơn.
Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức
Mô tả khái q uát
Các mô hình điện toán tươn g tự nh ư mô hình CAS ở chỗ ch ún g m ô tả các bộ phận của hệ
thống (chủ thể hoặc đố i tượng) tương tác với nha u thông qua các quy tắc. Nh ững khía cạnh
chi tiết bên trong của m ộ hình được thu thập từ vi ệc m ô phỏn g. Ngược lại, v ới m ô hình CAS,
hầu h ết các m ô hình điện toán là khôn g theo mục đích luận (teleological - quan niệm cho rằn g
m ọi sự đều có m ục đích nộ i tại), và thông thường, không có quy tắc nào chỉ ra các tương tác
cục bộ là đơn giản. Không giốn g như các mô hình CAS, nơi có một khuôn khổ thỏa thuận
tương đố i và kiến tr úc cho nhữn g gì mô hình cần phải có x ét theo thành phần thì các m ô hình
điện toán khá c nhau xây dựng hệ thống nhân quả khác nhau, v à vì vậy h ai m ô hình chính
được sử dụn g bởi các nh à n ghiên cứu tổ chức sẽ được xem xét : m ô hình tế bào tự động và m ô
hình đồ thị h ình sin thoai thoải. Các loại khác c ủa mô hình điện t oán (ví dụ, mạng thần kinh,
thuật toán di truy ền) là kh ả thi, nhưn g lại ít được sự ch ú ý của các nhà nghiên c ứu tổ chức
hơn.
Tế bào tự động c ủa mô hình thay đổi
Tế bào tự động ( Cellular a utom ata CA) là mô hình m ẫu cơ bản nhất của m ột hệ thống thích
ứn g phức hợp (W olfram , 2002), và do đó chún g là m ột phương tiện tốt. Trong đó, để n ghiên
cứu sự xuất hiện của các h iện tượn g. Xem xét một CA m ột chiều, n ơi m à m ột ô đại diện cho
m ột chủ thể, và nơi mỗi chủ thể có thể được xem xét trong một trạng thái khác nhau. Trong
Nhóm 12 12
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
sự sắp xếp đơn giản nh ất, trang thái được x em xét bằn g c ác giá trị trong hệ nhị phân là (0, 1)
hoặc màu sắc (t rắng, đen). CA có kích thước hữu hạn, có nghĩa là, nó có m ột số cố định của
các ô (ch ủ thể). Mỗi ô cho biết trạng thái của nó một cách rời rạc, chẳn g hạn như trạn g thái
của ô “j” tai thời điểm “ t” là (j, t) được xác định bởi trạng thái của ô “j” tại thời điểm t 1 là (
j, t 1), và trạng thái của các ô kế tiếp ở thời điểm t 1, ví dụ, trạng thái (j 1, t 1) và trạng thái
(j 1, t 1). Các ô được xếp theo m ột thứ tự không gian cụ thể và cố định. Để hình dung sự
thay đổi trạng thái theo thời gian, n gười ta vẽ các véc-tơ trạn g thái được kết hợp lại với nha u
lên m àn hình. Như v ậy, ta tạo ra một đối tượn g hai chiều. Mỗi cột của đồ thị đại diện cho quá
trình phát t riển của một ô theo thời gian, và m ỗi hàng đại diện cho trạng thái kết hợp của tất
cả các ô tại m ột thời điểm c ụ thể.
Xem xét một CA gồm 5 ô, chún g ta giả sử rằn g các ô ở một đầu bên trái và phải, “bao
quanh ”, và xem xét các ô lân cận ở đầu bên kia được kết nối với nhau. Ch úng ta sẽ biểu thị
các trạng thái (0, 1), và bắt đầu với một cấu hình kh ởi tạo ngẫu nhiên.
0 1 0 1 1
Giả sử ch ún g ta sử dụn g bộ quy tắc sau:
• Nếu tổng ô của bạn và các ô kế bên trái và bên phải mà nhỏ hơn 2 thì t hay bằn g số 1.
• Nếu tổn g ô của bạn và các ô kế bên trái v à bên phải bằn g hoặc lớn h ơn 2 thì thay bằng số 0.
Các qui tắc này được thể hiện ở bản g quyết định sau:
Trạng thái bản thân Ô bên trái Ô bên phải Trạng thái m ới
0 0 0 1
0 1 0 1
0 0 1 1
0 1 1 0
1 0 0 1
1 1 0 0
1 0 1 0
1 1 1 0
Nhóm 12 13
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Nếu ta xét ba cột đầu tiên được sắp xếp theo thứ tự chuẩn (hay nói ch ung, miễn là ph ù hợp
với m ột hệ thống khuôn mẫu cho nhữn g cột này), sau đó quy luật có thể được gọi là
“11101000”, hoặc nó tươn g đươn g với số thập ph ân, quy tắc 232. Do tình trạng ban đầu ở
trên, một số lần lặp của CA cho kết quả như sau:
1 0 1 1 0
1 0 0 0 0
1 1 1 1 1
0 0 0 0 0
1 1 1 1 1
0 0 0 0 0
1 1 1 1 1
0 0 0 0 0
1 1 1 1 1
Có thể thấy rằng CA ổn định trong một m ô hình với độ dài ch u kỳ là 2. Trong thực tế, tất cả
các CA, giả sử chúng hoàn toàn xác định, cuối c ùng sẽ giải quy ết vào m ột chu kỳ lặp đi lặp
lại của chiề u dài là 1 hoặc lớn hơn. Mô hình này được xem xét như điểm hấp dẫn trong toán
học, và loại đặc biệt của điểm h ấp dẫn được đề cập ở đây là xem xét m ột chu kỳ có giới hạn
(trong trườn g hợp đặc biệt có chiều dài kho ản g thời gian là 1, điều n ày được đề cập tới như là
điểm hấp dẫn cố định. Trong ví dụ n ày, không có vấn đề gì đối v ới giá trị khởi tạo được chọn,
tất cả đều dẫn đến cùng một điểm hấp dẫn là m ô hình điện toán được lặp vô tận. Tập hợp các
điều kiện ban đầu hội tụ về m ột điểm hấp dẫn cụ thể được gọi là “tập hợp các điểm hấp
dẫn”. Trong trường hợp nguyên tắc CA 232, trạng thái cực tiểu của sự hấp dẫn cho chu kỳ 2
giai đoạn bao gồm tất cả các cấu hình có thể có của số 0 và số 1 trong mỗi ô (tức là toàn bộ
không gian trạn g thái). Vì vậy, bất kể điều kiện ban đầu n ào, t ình trạng cuối cùn g c ủa hành vi
được xác định. Điều này không nhất thiết phải đún g, t rong nhiều CA, điều kiện ban đầu khác
nhau sẽ dẫn đến sự hấp dẫn khác nha u, ngay c ả cho c ùng một bộ quy tắc. Trong ý nghĩa này
m ột số CA hiển thị cảm xúc với các điều kiện ban đầu, và một số thì không.
Các m ô hình hành vi, hoặc sự h ấp dẫn nổi lên từ các mô hình CA (như trong m ô hình CA và
m ô hình tự tổ chức). Trong đó, ch úng khôn g được suy ra từ sự kiểm tra t ừ điểm bắt đầu hoặc
bộ quy tắc. Các mô hình CA, giốn g như các m ô hình điện toán khác, ch úng được sử dụng để
Nhóm 12 14
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
trả lời các câu hỏi như “'Nếu hệ t hống hành xử theo cách này ở mức độ cục bộ thì cái gì sẽ
xuất hiện ở m ô hình toàn cục?”
Ví dụ, m ột trong những trích dẫn mà mô hình CA đề cập là sự nghiên cứu của Sche lling
(1978) về phân biệt màu sắc giữa các ô trong m ô hình. Mô hình CA của Schel lin g m iêu tả
hai loại chủ thể, đen và trắn g, và yêu cầu mỗi chủ thể di ch uyển đến m ột ô nơi mà một số ít
(không phải đa số) các ch ủ thể xung quanh nó có cùng màu. Do đó, một chủ thể vẫn còn
trong một ô nếu 3 ho ặc nhiều h ơn 8 ô gần nó nhất có cùn g m àu, nếu không nó sẽ cố gắng để
di ch uyển đến m ột ô có cùng điều kiện. Kết quả cho thấy t rong khi không có bất cứ ch ủ thể
nào “bị thành kiến”, kết quả ch ung của các ch ủ thể là lưỡng cực cao, cho thấy các ô lân cận
hoàn toàn tách biệt.
Một mô hình CA đã nhận được nhiề u sự ch ú ý ở cả h ai n gành kho a học vật lý và xã hội là m ô
hình “cồn cát” (“san dpi le”) của Bak (1996). Trong lý thuy ết về tổ ch ức, người ta thườn g cho
rằng nếu ch úng ta quan sát một sự thay đổi nhỏ, nó cũng phải bắt n guồn từ các nguyên nhân
có cư ờn g độ nhỏ; nế u chúng ta quan sát một sự thay đổ i lớn thì nó c ũng phải xuất phát từ
nguyên nhân có cường độ lớn. Đây cũn g có thể là trường hợp mà ch úng ta n ghi ên cứu nhưn g
cũng có thể là không. Trong các hệ thống phức hợp, cườn g độ của nguyên nhân và hiệu ứn g
có thể không liên quan - sự thay đổi lớn có thể khôn g có tác độn g, và thay đổi nhỏ có thể có
tác động rất lớn. Hành vi kh ác thường này có thể gây ra sự hiểu biết sai lệch. Nó c ũng có t hể
bị ảnh hưởng, vì nó có thể gây ra sự thay đổi hệ thống thông qua nh ững hành động đơn giản,
cục bộ.
Mô hình cồn cát (san dpile) của Bak cho thấy rằn g khi hệ thống đan g ở tại n gưỡng trạn g thái
tự tổ chức, c ác hiệu ứng có thể xuất hiện t hông qua m ột hệ thống, và một sự thay đổi nhỏ c ủa
m ột yếu tố trong hệ thốn g có thể dẫn đến thay đổi cả hệ thốn g. Ngưỡng trạng thái tự tổ chức
xuất hiện khi các yếu tố của hệ thống được kết nối với nhau như thể là có m ối liên hệ lâu dài
giữa bất kỳ hai yếu tố nào của hệ thống. Trong trạng thái như vậy, cườn g độ ảnh hưởn g của
sự thay đổi nhỏ có thể dẫn đến một sự đảo ngược quy luật sức m ạnh - sự thay đổi nhỏ thườn g
dẫn đến tác độn g nhỏ, nhưn g đôi kh i ch ún g có thể dẫn đến tác độn g rất lớn.
Bak (1996) mô tả m ột “cồn cát tổ chức” (‘‘organ izational sandpile’’) trong đó có thông tin đi
vào văn phòn g kinh doanh mỗi lần một thông tin. Khi người lao độn g tích l ũy thông tin v ượt
quá m ột ngưỡng quan trọng, ch ún g tạo ra một hành động mà sau đó trở thành một thông tin
cho người lao động khá c m à họ kết nối đến. Nếu người lao độn g được kết nối theo cách mà
toàn bộ hệ thống được tự tổ chức một cách nghiêm ngặt, thì sau đó hàn g loạt các hoạt động
xuất hiện theo những qui m ô khác nh au, số lượn g các hoạt độn g phát sinh là nhờ v ào m ột
Nhóm 12 15
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
thông tin đi vào hệ thống. Hầu hết, số lượn g c ác hoạt độn g n ày có qui m ô nhỏ, nhưn g đôi khi
m ột thông tin có thể t ạo ra một loạt các hoạt độn g thông qua vi ệc đặt ra các ngưỡn g quan
trọng. Các quá trình này có xu hướng không ổn định hoặc có thể quay trở lại trạn g thái cũ,
khi số lượng hoạt động có qui mô vừa hoặc r ất lớn thì quá trình này khôn g có x u h ướn g quay
trở lại trạng thái cũ m à thường x uất hiện theo thời gian.
Từ m ột quan điểm tổ chức, mô hình này giải thích khả năn g k ết nối thông qua côn g nghệ
thông tin và trao đổi t hông tin qua mạn g lưới xã hội trong đó có tình bạn, sự gần gũi, các m ối
quan hệ nguồn lực, và các m ối quan hệ côn g tác - là r ất quan trọng cho sự thay đổi tổ
chức. Từ một quan điểm c ủa n gười trong cuộc, m ô hình vừa là nguồn kh uyến kh ích vừa là
m ối lo sợ cùn g một lúc. Thay đổi nhỏ (ví dụ do ban quản lý đưa ra) có thể dẫn đến t hay đổi
đáng kể trong hành vi của hệ thống, nhưn g ngược lại các lỗi nhỏ hoặc nhiễu loạn nằm ngoài
kiểm soát của ban quản lý c ũng có thể dẫn đến thay đổi đáng kể.
Bất chấp tầm quan trọng c ủa khả năng kết nối với sự thay đổi, tổ chức không nên thực hiện
theo các đề n gh ị có xu h ướng đơn giản hó a vấn đề, ''Tất cả mọi người nên được kết nối với
nhau”. Khi điều này đảm bảo đạt được ngưỡn g c ủa tự tổ chức, nó có chi phí rất cao. Không
chỉ là vấn đề chi phí của vi ệc kết nối đại trà m à còn là việc quá tải thông tin và chi phí phối
hợp rất c ao. Tệ hơn nữa, nó đem lại ít lợi ích; kết nối quan trọng thực sự có thể đạt được với
(điển hình là) chỉ với một vài kết nối giữa các chủ thể trong hệ thống ( Kauffman, 1995).
Có hay không m ong muốn có được ngưỡn g trạng thái tự tổ chức là vấn đề tình h uống. Trong
trường hợp có sự phổ biến của thông tin hoặc đổ i mới, sự kết nối là điều được mong muốn.
Nó đảm bảo rằn g nếu m ột ý tưởng là tốt, nó có khả năn g lan truyền khắp hệ thống. Trong
trường hợp sự tuyên tr uyền có sai sót, sự kết nối có thể gây t ai h ại. Nó có n ghĩa là bất kỳ lỗi
nhỏ trong một phần của hệ thống có khả năng lây lan và tạo ra các lỗi trên toàn hệ thống. Một
ví dụ điển h ình của v iệc này là sự lây lan của vir us m áy tính tấn côn g vào danh sách gửi thư
của m ột người có trong một ứng dụn g e-m ail.
Ngưỡng của tự tổ chức đề cập đến khả n ăng thay đổi quy m ô lớn trong k ết quả của m ột hệ
thống không có thay đổ i tương ứn g với các cơ chế phát sinh đằn g sau những kết quả đó. Ví
dụ, k ích thước c ủa thiên thạch đâm vào trái đất theo sa u m ột khuôn mẫu có ngưỡng của tự tổ
chức lớn, thảm họa thiên thạch được tạo từ cùng một cơ chế nh ư các loại đá nhỏ xuất hiện
như mưa sao băn g trên bầu trời của ch ún g ta. Thay đổi quy mô lớn cũn g có thể xuất phát từ
việc cơ bản tổ chức lại các nhân tố của hệ thốn g, và điều này được thảo luận trong phần tiếp
theo liên quan đến các m ô hình đồ thị hình sin thoai thoải (rugged lan dscape models).
Nhóm 12 16
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Các m ô hình CA chưa được các nhà n ghiên c ứu về tổ chứ c sử dụng rộng rãi (m ột ngoại lệ là
trong lĩnh vực công nghệ truy ền tin được mô tả trong Ley desdorff và Van Den Besselaar,
1994), vì những người ủng hộ cho quan niệm sử dụn g m ô phỏng sẽ thiên về mô hình CA S
hơn, từ khi họ đưa ra m ô hình rõ ràng về biểu đồ ch ủ thể, trong khi các mô hình CA không
phải là m ô hình chủ thể phức tạp. Nhưng một trong nhữn g phát hiện cơ bản của các m ô hình
CA - các quy tắc cục bộ v à đơn giản của tươn g tác có thể dẫn đến các mẫu c ư xử ph ức tạp
của hành vi - đã sinh ra nhiều sự quan tâm và thảo l uận x ung quanh chủ đề của “quy tắc đơn
giản” (Sull v à Ei-senhar dt, 2001) . Ví dụ, báo cáo của Viện Y học năm 2001 về tình trạng chất
lượn g chăm sóc sức khỏ e tại Hoa Kỳ cho r ằng hiện trạng của hệ thống là do các “quy tắc đơn
giản” chi phố i việc thực hiện chăm sóc sức khỏe, và việc thay đổi các quy tắc này (ch ủ yế u
liên quan đến các giá trị của hệ thống) sẽ thay đổi các mẫu cư xử nổi bật của hành vi. Ví dụ,
họ ch ủ trươn g ch uy ển từ “hồ sơ bệnh nhân được giữ bí m ật” đến “hồ sơ bệnh nhân rõ ràn g”.
Trong khi có rất ít cuộc tranh luận phức tạp trong khoa họ c về các quy tắc đơn giản có thể tạo
ra hành vi ph ức tạp, vẫn còn nhiều tranh luận xem có phải tất cả những hành vi ph ức tạp mà
chún g ta thấy đều x uất phát từ quy tắc đơn giản.
Mô hình đồ thị hình sin thoai t hoải của sự thay đổi
Tuy nhiên, t heo định n ghĩa, hệ thống đan g tìm kiếm một cách m ới phù h ợp với điều h ành và
tổ chức, để nâng cao mức độ ph ù hợp của họ. Nh ững tìm kiếm này có thể đơn giản hay phức
tạp, tùy thuộc vào cách lựa chọn và sắp xếp chúng như thế nào. Thườn g thì nhữn g thay đổi
bao h àm nhiều biến quan trọng trong hệ thống. Khi một hệ thống thay đổi một tập các biến
quan trọng, nó có thể được hiểu là thay đổi cấu hình c ủa nó. Ở mức độ có duy nhất m ột cấu
hình hay chiến lược tốt nhất, thay đổi tổ chức một cách có ch ủ ý trở thành cứu cánh đơn giản.
Nếu có nhiều giải ph áp thú vị, thì việc n ghiên cứu trở nên càn g khó kh ăn hơn. Nhữn g giải
pháp này xuất hiện trong m ột đồ thị hình sin và trong tác ph ẩm của Kauffman (1995) cung
Mô hình đồ thị hình sin t hoai thoải
Mô hình đồ thị hình sin gấp khúc nhiều
Mô hình đồ thị hình sin đơn
cấp cơ sở kho a học để h iểu được bản chất cơ bản của c ác n ghi ên c ứu này.
Nhóm 12 17
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Trong thế giới của đồ thị hình sin, vị trí nằm t rên đường con g này đại diện cho cấu hình hay
hình thể xác định c ác yế u tố của hệ thống và địa thế liên quan đến sự phù hợp của cấu hình
đó. Nhiệm v ụ quản lý là xem xét và phát hiện các cấu hình khác nhau để cải thiện sự ph ù hợp
đó. Tính chắc chắn của n ghi ên cứu phụ thuộc vào bản chất của đồ thị hình sin.
Kauffman xác định đồ thị hình sin này sử dụn g hai tham số: tham số n chỉ số lượn g các yếu
tố trong hệ thống (tính thứ n guy ên của cấ u hình), và tham số k chỉ tính chất liên k ết trong hệ
thống. Chúng tôi giới hạn cuộc thảo luận này trong phạm vi l iên quan tới tham số k m à thôi.
Khi k thấp so vớ i n, hệ thống có đồ thị hình sin dao độn g ít với một đỉnh đơn như trong hình
12.2. Khi k=0, điều đó có n ghĩa là tối ưu hó a từng yếu tố riên g biệt của hệ thống có thể tối ưu
hóa được sự ph ù hợp của hệ t hống; khôn g cần phải xem xét đến sự tương tác lẫn nha u nữa.
Trường đại học là m ột ví dụ - xây dựn g m ỗi khoa vữn g m ạnh hơn sẽ làm cho toàn bộ trườn g
đại học vững mạnh hơn. Ví dụ như cải thiện giáo dục cử nhân c ủa khoa hóa không nhất thiết
phải có sự phối h ợp với khoa xã hộ i học. Hệ thống với tham số k=0 được xem là đơn vị tính.
Khi k tăn g lên, sự phù h ợp của hệ thống khôn g chỉ phụ thuộc v ào từn g thành phần m à còn
phụ thuộ c vào sự tương tác và phố i hợp giữa ch ún g. Ví dụ nh ư xem xét một tổ chức y tế. Nếu
thay đổi trách nhiệm của điều dưỡn g, phải thay đổ i luôn côn g việc của kỹ thuật viên và bác
sĩ. Không thể nào đưa vào m ột dịch vụ mới mà không thay đổi m ức độ bảo hiểm . Khi k là giá
trị trung gian, đồ thị hình sin lên x uốn g thoai thoải với vài đỉnh đồ thị. Khi k lớn (lên đến n-
1), đồ thị biến thiên nhiều hơn. Giá trị của k cũn g có thể được cho là liên quan đến loại nối
kết có trong hệ thống (W eick, 1979). Giá trị 0 tươn g ứng với không kết nối, giá trị tr un g gian
của k tương ứn g với kết nối lỏng lẻo, giá trị cao của k tươn g ứng v ới kết nối chặt chẽ. Hệ
thống với giá trị k cao được xem là h ệ thống thống nhất.
Quá trình nghiên c ứu là m ột quá trình dựa vào nhữn g gì đã được thực hiện trước ki a. Các
thành viên của tổ chứ c tìm hiểu nên nghiên cứu điều gì kế tiếp bằng cách xem xét cẩn thận họ
đang nghiên cứu tới đâu trong quá kh ứ. Việc sử dụn g ph ươn g pháp này ph ụ thuộ c vào bản
chất của đồ thị hình sin. Nếu k là 0 thì các điểm trong khu vực thiết kế (c ác cấu hình nằm gần
nhau) tương quan chặt chẽ với nhau, v à người nghiên cứu có thể biết được cần phải hướng về
hướn g nào để cải thiện độ phù hợp. Khi k có giá trị trun g gian (khoản g 3 hay 4), sự tươn g
quan giữa các cấu h ình lân cận trở n ên yếu hơn; n gược lại, kh i k có giá trị rất lớn dẫn đến đồ
thị hình sin ngẫu nhi ên, và trong đồ thị này việc tìm hiểu có ít tác dụng hay không có ích gì
cho quá trình ngh iên cứu.
Khi đồ thị h ình sin bằng ph ẳng, thay đổi thông qua tìm kiếm có xu hướn g xuất hiện tăn g dần,
thông qua quá trình học tập thử- làm -và-phạm-lỗi. Sự thách đố ở đây chính là quyết định xem
Nhóm 12 18
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
yếu tố nào trong cấu hình hệ thống tạo ra sự khác biệt, và quyết định hướng thay đổi và mức
độ thay đổi đạt được sự phù hợp nhất. Các phươn g pháp cải thiện chất lượn g truyền thống tập
trung vào các thay đổ i tăng dần hàn g n gày chính là ví dụ loại này của quá trình nghi ên cứu.
Trong đồ thị hình sin thoai thoải, cải thiện sẽ khó khăn h ơn. Người ta có x u hướng thiển cận
khi đề cập đến kiến thức của họ về các cấu hình tiềm năn g; họ có xu hướng cho là chỉ có các
cấu hình hiện hành mới khả t hi, và việc đánh giá lạc quan ch ỉ là vấn đề điều chỉnh hệ thống
hiện hành đến m ức tốt nhất. Điều này có thể dẫn đến việc đánh giá dưới mức lạc quan, v ì m ột
nghiên cứu có thể tự cho là đạt đến đỉnh cao nh ất m à không biết là còn có những cấu hình
khác thật sự có được sự ph ù h ợp hơn. Trong trường hợp này, thay đổ i ph ụ th uộc vào điều
kiện ban đầu, vì có x u hướn g là một nghiên cứu có kết thúc tại đỉnh tối ưu gần điểm khởi đầu
nhất. Để tránh tình trạng này, nhiều nghiên cứu nên được thực hi ện cùng một lúc. Các n ghiên
cứu song son g có thể giúp cho v iệc học hỏi bằng c ách tạo ra những giải ph áp khác nhau. Rất
nhiều tổ chức sử dụn g loại nghiên cứu này t rong quá trình đổi mới của họ, theo đuổ i nhiề u
giải pháp khác nhau ngay lập tức. Ho ạt động đa dạn g này chỉ giảm xuống khi các giải pháp
cụ thể có vẻ khôn g có tiềm năn g gì nữa.
Trong đồ thị hình sin gấp kh úc nhi ều, có nhiều cấu hình khác nhau có cùng mức độ ph ù hợp.
Vì các điều k iện gần đó khá là không tương quan với nhau, chi ến lược nghiên cứu dựa vào
thông tin lịch sử cũn g trở nên vô ích. Các tình huống như vậy có xu hướng dẫn đến hoặc quá
bảo t hủ hoặc quá nôn nóng thay đổi. Một số nhà quản lý có thể tìm kiếm sự thay đổi v ì chính
lợi ích của sự thay đổi, khi họ dò theo đồ thị h ình sin để tìm ra điểm ph ù h ợp nhất, trong khi
các nhà quản lý khác có thể thoải m ái h ơn đứn g bên n goài vì họ khôn g tìm được ph ươn g thức
nào để cải thiện và học hỏi. Khi các tác giả của tổ chứ c sử dụng từ hỗn loạn theo n ghĩa riên g
của nó, sơ đồ h ình sin chính là bố i cảnh mà họ m uốn ám chỉ đến ( Dooley và Van de Ven,
1999). Trong một m ôi trường nh ư vậy, học hỏ i qua sai lầm và học hỏi qua việc bắt chước có
thể là quá trình nổi bật. Các nghiên cứu về việ c cải tiến thường xuất phát t ừ những việc tình
cờ, và nhữn g gì đạt được của tổ chức chính là ví dụ cho quá trình học hỏi ẩn trong việc bắt
chước.
Thể loại chiến lược thay đổi phù h ợp phụ thuộc vào bản chất của đồ thị hình sin. Nếu nhữn g
người thực thi công v iệc trong tổ ch ức có cái nhìn lệch lạc về đồ thị hình sin, thì việc học hỏi
sai lầm có nhiều khả năng xảy ra. Hãy tưởng tượn g là m ột nhà quản lý tìm kiếm trên đồ thị
hình sin gấp khúc nh iều một m ô hình trí tuệ m à đồ thị hình sin đang vận hành dựa v ào nó lại
khá bằng phẳng. Các thay đổi và thí n ghi ệm có xu h ướn g đưa đến kết quả ph i lý và không
nhất quán. Lỗi t rong các chẩn đoán và quy kết là rất dễ thấy. Nhà quản lý có thể tin là anh ta
Nhóm 12 19
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
hay cô ta đã chọn biến sai để thực h iện thay đổ i hoặc t hay đổi quá nh iều hay quá ít hoặc v iệc
thực hiện có nhiều sai sót.
Các tình huống này có thể khá phổ biến trong hệ thống. Su y nghĩ đơn biến có xu h ướng trở
thành nét tiêu biểu c ủa con người (tháng 3, 1994). Các nhà quản lý có x u hướn g tin tưởng là
đồ thị hình sin đơn giản và thách thức của họ là tìm kiếm vài biến có thể tạo ra sự khác biệt.
Trong đồ thị hình sin gấp khúc nhiều hay thoai t hoải, chỉ có suy ngh ĩ chính luận m ới hướn g
tới được sự quyết tâm t hực hiện chiến lược thay đổi phù hợp. Kh i m ột hệ thống ý thức được
có m ột m ô hình phức tạp, nó có thể nỗ lực kiểm soát quá trình thay đổ i như là một phương
tiện để giải quyết nhữn g việc bất n gờ x ảy ra t rong các lãnh vực khác trong hệ thống lớn hơn.
Ví dụ như các dự án t ái cấu tr úc thường đi k èm với việc thay đổi hệ thống với qui m ô lớn.
Trong khi nh ữn g thay đổi như vậy được ủng hộ “từ dưới lên” có cả nhữn g công nhân làm
việc cận kề nhất với nh iệm vụ thiết kế l ại h ệ thống, tron g thực tế nó lại x uất hiện “ từ trên
xuốn g”, khi các nhà quản lý và tư vấn tiếp quản quá trình thay đổi (Jaffe và Scott, 1998). Có
quan niệm cho là ch ỉ có cách xuất hi ện từ-trên-x uốn g m ới có thể x em xét được tất cả các
tương tác ph ức tạp có thể xảy ra.
Quá trình thay đổi có thể được đơn giản hó a bằng cách làm cho đồ thị hình sin đơn giản hơn.
Có m ột cách có thể làm được việc này là điều chỉnh lại. Nếu các thành phần trong hệ thống
được thiết kế để hoạt động độc lập, thì mỗi thành phần có thể được tối ưu hóa m à khôn g ảnh
hưởn g gì đến các thành phần khác. Thiết kế các điều chỉnh n gày càn g trở nên phổ biến trong
sản phẩm (Meyer v à Lenhnerd, 1997), và khôn g có lý do gì m à nó lại không được m ở rộng ra
ở hệ thốn g lớn hơn như các tổ chức đa bộ phận h ay m ạn g cun g ứng. Thực sự thì các bộ phận
và trung tâm tạo ra lợi nh uận có thể được xem là v í dụ của việc thiết kế lại. Một cách khác m à
đồ thị hình sin được đơn giản hóa là thông qua việc ráp nối (Kauffm an, 1995; Eisenhar dt và
Brown, 2000). Việc ráp nối đò i hỏ i phả i có vi ệc ghép lại các cặp yế u tố có quan hệ còn lỏng
lẻo; các điều chỉnh nội bộ này tập hợp lại ở cấp độ hệ thốn g theo phươn g thức tự tổ chức.
Mô hình năng động của sự thay đổi tổ chức
Mô tả khái q uát
Như lời của Her aclitus nói, bạn không bao giờ tắm trên cùng một dòng sôn g. Ở cấp độ vi m ô,
vị trí của từng phân tử nước luôn luôn thay đổi, và cấu trúc tổng thể chính x ác của chúng
không bao giờ giốn g nhau tại những điểm thời gian khác nhau. Mặc dù vậy, cấu trúc của
dòng sôn g dù được kho anh v ùn g theo 3 hướng của nó vẫn thể hiện sự thay đổi t heo thời gian.
Nhóm 12 20
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Cơ thể con n gười cũn g vậy. Trong khi hàn g triệu tế bào trong cơ thể chúng ta chết đi và được
thay thế mỗi ngày, n gười khác vẫn nhận ra ch ún g ta bởi vì hình thể của ch ún g ta vẫn giữ y
nguyên (Mat urana v à Varela, 1992).
Nếu bạn quan sát kỹ sẽ thấy hệ thống v à các thành phần c ủa nó thay đổ i thườn g xuyên. Thật
sự thì những thay đổi không dứt này làm cho hệ thống tồn tại – nếu không có gì thay đổi và
m ọi thứ ở điểm cân bằn g thì hệ thống đã chết hết rồi (Dool ey, 1997). Cuộ c sống đòi hỏi sự
tương tác không ngừng giữa các yế u tố trong hệ thống. Các quá trình tạo ra cuộc sống h ay cơ
chế này thúc đẩy hành vi thườn g lệ trong hệ thống – và việc xá c định, hiểu biết các cơ chế
này thường là ch ìa khóa để hiểu rõ hơn hệ thống ở m ức độ cơ bản nhất. Ví dụ các quá trình
tài chính của một công ty tuân theo thứ tự thời gian đòi hỏi các hoạt độn g phải có trình tự và
thời gian rõ r àn g để có thể đồn g bộ với các yêu cầu v ề thuế c ủa liên ban g v à quốc gia. T ươn g
tự như v ậy đối với m ức tồn kho của m ột công ty cũn g tuân theo nh ững biến đổ i theo mùa về
chất lượn g và số lượng của nguyên vật liệu. Ở cấp độ vi mô, biến đổi đầ u ra của quá trình có
thể ngẫu nh iên tại bất kỳ thời gian nào chịu vô số tác động của các y ếu tố tự nhiên và sản
xuất.
Mô hình năn g động phác họa các thay đổi khôn g n gừn g và được sử dụn g theo 3 cách. Một số
nhà nghiên cứu tổ chức thu thập thông tin từ kinh n ghiệm và sau đó sử dụng phươn g pháp
thống kê để xem loại m ô hình năng độn g nào x uất hiện (Poole, Van de Ven, Dooley, và
Holm es, 2000). Các mô hình năn g động này đưa ra một số điều về bản chất của hệ thống
nhân quả. Đây là ph ươn g pháp quy nạp. Các nhà n ghiên cứu khác sử dụn g m ô h ình năn g
động với số lượn g lớn để m ô phỏng xem thay đổ i xảy ra nh ư thế nào trong c ác biến đổi tổ
chức. Cuối cùng, m ột số nhà n ghi ên cứu sử dụn g các đặc điểm về chất lượng của các m ẫu
năng độn g, đặc biệt là sự hỗn loạn, để đưa ra lý th uyết về bản ch ất của thay đổi t rong tổ chức.
Mô hình kinh nghiệm
Có 4 loại mẫ u có t hể quan sát từ kinh nghiệm thông qua mô hình thống kê của các biến đổi
trong tổ chức: sự tuần hoàn, sự hỗn loạn, nhiễu trắng và nhiễu m àu. Bốn m ẫu này chỉ ra bốn
cơ chế phát sinh cơ bản khác nhau, được xác định bởi hai biến : kích thước v à bản chất c ủa sự
phụ th uộc lẫn nhau. Kích thước đề cập đến một số biến thúc đẩy hành vi. Ví dụ như quá trình
định kỳ (theo m ùa) có thể có tính khoản g cách thấp vì chúng tuân theo m ột số yếu tố liên
quan đến môi trườn g (thời tiết), trong khi quá trình k inh doanh có khoản g cách cao vì chúng
tuân theo những quyết định của rất nhiều chủ thể độ c lập (khách hàn g). Các biến này có thể
hành xử độc lập với nha u, tại đó tổng tác dụn g ch ính là toàn bộ các tác dụn g đơn lẻ, hoặc có
thể có sự tương tác qua lại giữa chúng, đại diện cho các sự kiện n gẫu nhiên.
Nhóm 12 21
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Các hệ thống nhân quả có khoảng cách thấp sinh ra c ác n ăng độn g hỗn loạn và định kỳ trong
khi hệ thống nhân quả có khoản g cách cao tạo ra n ăn g độn g nhiễu trắng và nhiễu hồng. Năn g
động nhiễ u trắn g và định kỳ bắt nguồn từ các h ệ thống có yếu tố nhân quả hoạt độn g độc lập,
hay theo phương thức t uyến tính trong khi hệ thống nhiễu hồng và hỗn loạn bắt nguồn từ các
hệ thống có yếu tố nhân quả hoạt độn g ph ụ thuộc lẫn nha u theo phươn g thức phi tuyến tính
(Dooley v à Van de Ven, 1999).
Nhiễu trắng được đề cập đến như là sự n gẫu nh iên thuần kh iết, và nó được sinh r a từ quá
trình có khoảng cách cao (Peitgen, Jur gens và Saupe, 1992). Luật lỗi lầm ( Ruhl a, 1992) cũng
chỉ ra rằn g “nhiề u biến ” tác động đến hành vi cũng làm như vậy t heo phương thức độc lập.
Nếu h ành vi được quan sát đáp ứn g lại hành động xã hội chung, điều này ám ch ỉ r ằng nhữn g
cá nhân nào có cách cư xử son g son g với nhau, có thể lại không hợp tác với nhau. Quá trình
nhiễu trắng cứ tiến triển mà không có ghi nhớ gì về hành vi tron g quá khứ, vì vậy hệ thống
không quyết định được tươn g lai từ những gì trong quá kh ứ - ch úng không có mối liên hệ gì
với nhau.
Nhiễu hồng c ũn g giống nhiều với nhiễu trắng, trừ việc nó là một loại ngẫu nhiên m iễn cưỡn g
nhờ đó tươn g tác giữa các yế u tố/cá nh ân đẩy hệ thống ra khỏi nhiễ u trắng thuần kh iết
( Schroeder, 1991). T ươn g tác giữa các yế u tố có thể bắt n guồn từ sự hiện diện của vòn g phản
hồi và/hoặc sự ép buộc trong hệ t hống. Sự ép buộc và/ho ặc vòng phản hồi mang tính cục bộ
địa phươn g hơn là toàn cục, vì khi có phản hồi và/hoặc ép buộc toàn cục sẽ dẫn đến xu hướn g
giảm mạnh khoảng cách của hệ thống và v ì v ậy không phải là dấu hiệu của nhiễu hồn g. Q uá
trình nhiễu hồng được phát hiện có mặt khắp mọi nơi, xuất hiện trong các hiện tượn g x ã hội,
kinh tế, sinh họ c, t âm sinh lý, địa chất và thiên văn. Mô hình cồn cát được thảo luận trong
phần các mô hình vi tính chính là m ột ví dụ của cơ ch ế phát sinh được đề cập đến t rong năn g
động nhiễu hồng.
Quá trình hỗn lo ạn có khoảng cách thấp, và tương tác phi t uyến tính giữa các yếu tố/ biến chị u
trách nhiệm thúc đẩy hành vi. Khoản g cách thấp có thể bắt nguồn từ phạm vi c ủa h ành vi
đang nghi vấn, hay nó có thể ám chỉ các cơ chế khác đang giảm khoảng cách của hệ thống
nhân quả thông qua phản hồi toàn cục và/hoặc bị bắt buộc, bởi vì đương nhiên là m ột hệ
thống xã hội có nhiề u ch ủ thể (t heo định nghĩa) sẽ có khoảng cách c ao, t rừ khi có điều gì cản
trở tự do tiềm ẩn và nhiều lo ại hành vi có thể xảy ra.
Các cơ chế này có thể được xem là đại diện cho việc kiểm soát của cá nhân và/hoặc sự hợp
tác giữa các cá nhân với nhau. Kiểm soát và hợp tác có thể quản lý ( Sim on, 1957), thích n ghi
Nhóm 12 22
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
được (tháng 3, 1994), hoặc m ang tính tổ chức (Scot t, 1995), hay tự thuyết phục (Dooley,
1997).
Hành vi chu kỳ cũn g có khoản g cách thấp tại đó các biến nguyên nhân hoàn toàn không
tương tác với nh au hoặc tương tác theo phươn g thức tuyến tính đơn giản. Trong khi m ột hệ
thống như vậy có t hể xuất hiện một cách tự nhiên, việc tương tác tuyến tính (hoặc không có
tương tác) có thể xảy ra bởi vì hệ thống đã được thiết kế như vậy. Ví dụ trạng thái đều đặn
của hoạt độn g bắt buộc của tổ chức ph ải trãi qua nh iều quá trình để có thể trở thành chu kỳ.
Tóm lại, phươn g pháp nhiễu trắng bao gồm nhiều yếu tố quan trọng hoạt độn g theo xu hướn g
độc lập, và các quá trình này m inh họa cho v iệc thiếu sự ph ụ th uộc lẫn nh au. Phươn g pháp
nhiễu hồn g bao gồm nhiều yếu tố độc lập bị các phản hồi cục bộ chế ngự theo m ột khuôn
m ẫu nào đó. Phươn g pháp dao độn g bao gồm vài yếu tố quan trọng hoạt độn g theo phương
thức tác độn g qua lại, ở mức độ toàn cục. Những phương pháp như v ậy thể hiện sự phụ thuộc
vào phương h ướn g v à là đại diện cho v iệc k iểm soát và/hay hợp tác. Phươn g pháp chu kỳ bao
gồm vài yếu tố quan trọng hoạt độn g theo phươn g thức độc lập hay phươn g thức tuyến tính
đơn giản. Các phươn g pháp này cũn g đề cập đến các cấp độ nổi bật của việc kiểm soát và/hay
hợp tác.
Các m ô hình mô phỏ ng nă ng động
Vì mô hình chu kỳ và dao độn g năn g độn g có kho ản g cách thấp ( ch úng có vài biến), cá c nhà
nghiên cứu có thể tạo r a các mô hình c ụ thể và đưa ch ún g vào m ôi trườn g m ô phỏn g để xem
hành vi theo thời gian của một số biến tổ chức. Ví dụ nh ư các m ô hình hệ thống năn g độn g
( Sterman, 2000) mô tả nguy ên nhân và kết quả giữa các biến tổ chức sử dụn g ph ươn g trình vi
phân và sau đó tạo lập hệ thống trong môi trườn g m ô phỏng. Các hệ thống này có biến liên
quan với nha u trong mạng phức hợp của n guyên nhân và k ết quả. Ví dụ nh ư một trong các
kết nối của m ô hình hệ thống hệ thống năng động đưa ra rằn g vì tỉ lệ đầu tư cho nghiên cứu
và phát triển tăng n ên tỉ lệ th u nhập từ phí bản quyền c ũn g tăn g. Mô hình hệ thống năn g độn g
chỉ ra tỉ lệ thay đổ i trong các biến t hay đổi như thế nào h ơn là ch ỉ ra mức độ thật sự của
chính các biến thay đổi. Các mô hình này trông giống như các m ô hình căn bản của khoa học
tự nhiên chú trọng đến tỉ lệ hơn là ch ú trọng đến mức độ (McKelvey, 1997). Trong khi hệ
thống năn g độn g có thể có bản chất tuyến tính hay phi tuyến tính, các mô hình đa ph ần là
tuyến tính. Điều này dẫn đến việc các mô hình n gh iên cứu đều theo chu kỳ và tuyến tính.
Nhữn g m ô hình năn g động nào có tiềm năng tạo ra sự dao độn g c ũng có thể được tìm thấy
trong vài nghiên cứu v ề tổ chứ c ( Feichtinger an d Kopel, 1993), nh ưng các nghiên c ứu này
hiếm hoi hơn.
Nhóm 12 23
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Đặc điểm số lượng của các mô hình nă ng độ ng
Trong khi các m ô hình m ô phỏng của h ệ thống dao động không hề phổ biến, nhiều nhà
nghiên c ứu về tổ chức đã nắm lấy những đặc tính về ch ất lượn g của dao độn g v à sử dụn g
chún g để lý thuyết hóa về thay đổ i tổ chức. Một trong nhữn g phép ẩn dụ phổ biến nhất được
sử dụng là “hiệu ứn g bướm ”. Hiệu ứn g này nói là những thay đổ i nhỏ trong hệ thống có thể
có ảnh h ưởn g lớn. Đây là ch ủ đề vang dội và ổn định xuyên suốt các mô hình khoa học phức
hợp khác nhau, nhưn g khả năn g để hình dung “tính nhạy cảm đối với các điều kiện ban đầu”
này đem lại sự quan tâm chú ý thái quá đố i với dao động hơn hẳn những hiện tượn g khoa học
phức hợp khác. Người ta ch ú ý nhiều đến hoạch định chiến lược – nếu dao độn g tồn tại nhiề u
trong hiện thực, t hì dù có bao nhiêu thông tin và c ác m ô hình có chính xác bao nhiêu đi chăng
nữa, t ính nhạy cảm đối v ới các điều kiện ban đầu đều cản trở dự đoán về tương lai. Khả năn g
tồn tại của quá trình hoạch định ch iến lược bị thách thức ( Stacey, 1992).
Rất nhiều nhà n ghiên cứu đã h iểu lầm tầm quan trọn g của tính nhạy cảm đối với các điều
kiện ban đầu. Như đã đề cập trước đây, các mẫ u x uất hiện trong hệ thống năng độn g được đề
cập đến như là c ác điểm hấp dẫn ( Guastello, 1995). Điểm hấp dẫn là một hiện tượn g ổn định;
nó đại diện cho nhữn g m ẫu hành v i hiện h ành hoặc tình trạn g c ủa h ệ thống khi ch úng hướn g
về phía tươn g lai. T uy nhiên, mẫu này không được phát hiện ra n gay. Tồn tại một khoảng
thời gian khi hệ thống ch uyển dần từ “ trạng thái đầu tiên” san g điểm hấp dẫn của nó. Hành vi
trong khoảng thời gian n ày được đề cập đến như là trạn g thái ngắn hạn. Có điều ngạc nhiên
về trạng thái ngắn hạn này là chúng có x u hướng kết thúc ở cùn g m ột chỗ - điểm hấp dẫn –
cho rất nhiều dạn g trạng thái ban đầ u. “ Tập hợp hấp dẫn” của điểm hấp dẫn là m ột loạt những
trạng thái ban đầu v à những trạn g thái ban đầu này đều h ướn g về phía “tập hợp hấp dẫn”.
Hệ thống dao động rất nhạy cảm với nhữn g thay đổi nhỏ nhất trong điều kiện ban đầ u của
chún g, liên quan đến cách thức ch ính xác dẫn đến tươn g lai. Điều này quan trọn g đối với
nhữn g gì ch úng ta tin tưởn g m ãi cho đến gần đây hệ thống quyết định đã không còn nhạy
cảm nhữn g trạng thái lo l ắn g nhỏ nữa. Nhưng lưu ý rằng sự nhạy cảm này chỉ có tác dụn g đối
với trạng thái ch ính xác (hoặc m ức độ) của các biến trong câu hỏi, phương cách chính x ác đi
đến t ươn g lai. Điển hình là các tập hợp yế u tố hấp dẫn có xu hướng có m ối quan h ệ mật thiết
đối với điểm hấp dẫn tương ứn g. Điều đó có n ghĩa là một số lượn g lớn các điều kiện ban đầu
dẫn đến cùng một m ẫu chun g về hành vi và điểm hấp dẫn. Vì vậy điểm hấp dẫn của hệ thống
hoặc mẫ u không cảm nhận được nhữn g thay đổi trong điề u kiện đầu tiên. Hệ thống dao độn g
nhạy cảm theo phương cách cụ thể chứ không theo những mẫu tổng quát. Vì vậy bản chất c ủa
phươn g pháp tổ chức có thể dự đoán được lại có thể không cảm nhận được những dao động
Nhóm 12 24
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
nếu nhữn g dao động này lớn (ví dụ như hoạch định chiến lược), nhưng điểm hấp dẫn của hệ
thống hoặc m ẫu lại có thể cảm nhận được nếu các dao động này nhi ều (ví dụ nhu cầu về dự
đoán).
Một cách khác m à hệ thống độn g lực có thể thay đổi là nếu tham số x ác định việ c thay đổi hệ
thống. Ví dụ như xem xét 1 phương trình hợp lý có biến x tại m ột thời điểm trong tương lai
t+1 như m ột hàm số của tham số k và giá trị của biến x tại thời điểm t là:
x(t+1) = k . x(t) . {1- x(t)}
Vì k tăng lên từ 1.0 đến 4.0, điểm hấp dẫn biến đổi. Giữa m ức 1.0 và 3.0, điểm hấp dẫn của
hệ thống là m ột điểm . Khi k ở giữa 3,00 và 3,449, điểm hấp dẫn là chu kỳ, v ới độ dài chu kỳ
là 2. T rên mức 3,449, hệ thống chia ra làm hai nhánh, điểm hấp dẫn vẫn có chu kỳ, nhưng độ
dài của ch u kỳ bây giờ là 4. Việc này sẽ tiếp tục tăng vì giá t rị của tham số k tăng. Độ dài
chu kỳ tăng lên 8, 16, 32, v.v.. Tại số Feigenbaum 3,569 điểm hấp dẫn ch uy ển từ ch u kỳ sang
dao động hỗn loạn (T eitgen etal., 1992); tại giá trị k>4, hệ thống không ổn định và không có
trạng thái hấp dẫn x ác định.
Trong ví dụ này, thay đổi tham số quan trọng không có tác động sâu sắc đến hành vi hệ
thống. Từ quan điểm tổ chức, câu hỏi sẽ là tham số quan trọng nào nếu thay đổi, có thể
chuy ển dịch h ệ thống từ trạng thái h ấp dẫn này san g trạng thái khá c?
Xem xét ví dụ về giao thông trên đường cao tốc (Nagel và Paczuski, 1995). Các mẫu x uất
hiện trong hệ thống giao thông ph ụ thuộc rất lớn vào m ột tham số quan trọng, m ật độ của
giao thông ( số lượn g xe lưu thông trên đường vào một thời gian cho trước). Ở m ật độ thấp, hệ
thống hoạt động có khoản g cách r ất cao, và x e lưu thông độ c lập với nhau vào các lối vào
ngẫu nhi ên. Khi mật độ tăng lên, các dãy xe đều di chuyển v ới cùn g m ột vận tốc, tương đối
sát nhau – và khoản g cách giảm dần. Vượt qua m ật độ ở mức cao, xe bắt đầu đi ch ậm lại và
tăng tốc theo từng đợt có thể dự đoán trước được, và các đợt này đi theo không gian và t hời
gian, t heo phươn g thức vừa dừn g v ừa đi. Khi m ật độ tăng lên tối đa, khoảng cách giảm xuốn g
tối thiểu và khôn g có xe nào di chuyển được n ữa.
Trong các hệ thống tổ chức, những tham số quan trọng như vậy luôn tồn tại. Một ví dụ n ữa về
m ức độ nối kết giữa các cá nhân, đội nhóm, và chức năng trong cùng côn g ty (Burt, 1992;
Ro ger s, 1995). Khi mức độ nối kết đạt đến ngưỡn g giá trị nào đó, h ành vi c ủa h ệ thống sẽ có
xu h ướn g thay đổi về chất lượng ( Kauffm an, 1995). Ví dụ như sự nố i kết đang ở m ức độ
thấp, thông tin sẽ lan truyền chậm và theo phươn g thức nảy sinh tạm t hời, dẫn đến các m ẫu
giao tiếp mang tính cục bộ, không phối hợp v à rời r ạc, có thể là m ột quá trình lặp l ại ngẫu
Nhóm 12 25
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
nhiên. Khi nối k ết ở mứ c độ cao, các thành v iên trong tổ chức bị choán g ngợp v ới các thông
tin về nhu cầu, các m ẫu giao tiếp có thể bị ghìm lại, lặp lại qui trình có khoản g cách thấp.
Mô hình tự tổ chức của sự thay đổi tổ chức
Mô tả tổng q uát
Khi thông số quan trọng thay đổi, một loại t hay đổi đặc biệt là mức độ năn g lượn g trong hệ
thống xuất hi ện. Các m ô hình thay đổi còn-xa-trạng-thái-cân-bằng mô tả hệ thống là tự tổ
chức, tự làm mới thông qua việc tái cấu trúc tổ chức ( Go ldstein, 1994). Việc tái cấu trúc x uất
hiện trong m ột phương thức nổ i bật là các nội lực và n goại lực thúc đẩy hệ thốn g tiến tới
trạng thái còn-xa-trạng-thái-cân-bằng. Trong trạn g thái còn-xa-trạn g-thái-cân- bằn g, t ổ chức
hiện hành của hệ thống được đẩy đến mức độ tối đa c ủa v iệc xử lý và làm tiêu hao năn g
lượn g. Khi tổ chức h iện hành của hệ thốn g bị đẩy ra n goài giới h ạn này, hệ thống nhận ra
rằng cấu t rúc hiện t ại khôn g còn đủ khả n ăng xử lý năng lượn g dôi r a, và các thành phần c ủa
tổ chức tái cấu tr úc theo m ột cấu trúc khá c có khả n ăng làm tiêu hao năn g lượng một cách
hiệu quả hơn. Sự biến đổi trạng thái c ủa nước từ thể rắn sang thể lỏng và sang thể khí mô tả
rõ ràng các thay đổi trạng thái này. Trong trạng thái còn-x a-trạng-thái-cân- bằng, các giao
động nhỏ có thể đẩy hệ thống sang một hành vi hấp dẫn khác và tại đây các lực hội tụ lại m ột
lần nữa chiếm lĩnh và gắn chặt hệ thống với trạn g thái hấp dẫn mới (Prigo gine và Stengers,
1984). Về bản chất, thay đổi qua còn-xa-trạn g-thái-cân- bằng là một trường hợp đặc biệt của
quá trình thay đổi được thảo luận trong phần trước, m à nhờ đó thay đổi điều kiện hay thông
số của trạng thái ban đầu trong hệ thốn g dẫn đến v iệc xuất hiện hành vi mới.
Goldstein (1998) cho là tự tổ chức chính là “việc tổ chức lại một cách triệt để c ấu trúc của hệ
thống; sự xuất hiện tự ph át của các mẫ u v à cấu trúc m ới lạ; sự kh uếnh đại và hợp nhất c ác sự
kiện ngẫu nhiên; sự phát hiện các chọn lựa sán g tạo cho việc thực hiện chức năn g của tổ
chức, và sự x uất hiện tính mạch lạc và phối hợp các phần trong h ệ thống”. Môi trường không
thay đổi h ệ thống, v à hệ thống khôn g đơn phương thay đổi m ôi trườn g; môi trường tạo ra các
cơ chế bên trong và các cơ chế này là n guồn dồi dào cho việc biến đổi (Maturana và Var ela,
1992)
Thay đổ i xuấ t hiện như thế nào trong các hệ thống tự tổ chứ c?
Các m ô hình tự tổ chức cho thấy điều kiện cho việc thay đổi về ch ất hơn là bản chất chính
xác của việc thay đổi xuất hiện như thế nào. Nói chung, các mô hình này cho thấy thay đổi
xuất hiện khi hệ thống còn xa trạng thái cân bằn g. Đến lượt các nhà ngh iên cứu tổ chức đưa
Nhóm 12 26
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
ra giả thuyết về cách thức hệ thống xã hội được hình thành h ay hệ thống xã hội nhận thấy nó
đang tron g trạng thái cách x a trạng thái cân bằn g.
Ví dụ như các cơn khủn g hoản g đã dẫn đến vi ệc thay đổ i của cá nhân hay tổ chức. Nonaka
(1998) cho là việc tạo ra các cuộc khủn g hoảng có ch ủ đích chính là phư ơn g tiện để giữ cho
tổ chức linh hoạt và thường x uyên đổi m ới. Quản lý chất lượn g toàn diện và nhữn g hành
động khác đã xóa đi ranh giới giữa côn g ty và khách hàng cũng có thể được xem là phươn g
tiện thúc đẩy sự xuất hiện của các điều kiện còn-xa-trạng-thái- cân- bằn g. Gol dstein (1994)
đưa ra vài phươn g tiện khác nhau hỗ trợ cho hệ thống tiến đến trạng thái còn-x a-trạng-thái-
cân- bằng:
Gia tăng mối liên hệ giữa hệ t hống với m ôi trường của nó, vì sự gia t ăng về t hông tin (năng
lượn g) sẽ đẩy hệ thống ra khỏi trạng thái cân bằn g.
Đặt ra nhữn g câu hỏi kh ác nha u (m ột phương pháp được sử dụn g trong liệu pháp tâm lý), l úc
đó cơ sở giả định của một cá nhân bị thách thức.
Đặt các giả định của cá nhân theo hướng khác thông qua việc hình dun g hệ thống và các kỹ
thuật suy nghĩ sáng tạo khác.
Xác định những “tiên đoán tự hoàn t hiện” trong hệ thống có thể đóng vai trò như yếu tố hấp
dẫn v à phá vỡ các m ối liên hệ đã duy trì được nhữn g m ẫu hành vi lặp đi lặp lại.
Olson và Eoyan g (2001) t rình bay một m ô hình chun g về hình thức tự tổ chức trong các hệ
thống xã hội; để hình thức tự tổ chức có thể x uất hiện được, cần phải có một tổ chức khép kín
(m ột ranh giới xác định cái gì bên trong và bên ngoài hệ thống và kiềm chế sự tương tác lẫn
nhau), nhữn g khác biệt có thể phân biệt được đâu là chủ thể và đâu là yếu tố trong hệ thống,
cũng như các trao đổi đã biến thể. Ví dụ nh ư trong một đội thực hiện dự án sẽ hình thành tiêu
chuẩn ch ung của cả nhóm theo hướng tự tổ chức vì đó là ( a) ranh giới xác định c ả nhóm là
m ột thực thể trong hệ thống tổ chức, hình thành nên “chúng ta và họ”, (b) sự khác biệt giữa
các thành viên trong nhóm ví dụ như sự khác biệt về chức năn g, về tính cách và (c) sự trao
đổi (ví dụ như diễn t huyết) có t hể thay đổ i trạn g thái nhận thức của các chủ thể từ quan điểm
này sang quan điểm khác. Vì vậy O lson v à Eoyan g thừa nhận là có thể thay đổ i tổ chức bằn g
việc thay đổ i vỏ của nó, tập trung vào nhữn g điểm khác biệt khác nhau hay thay đổ i bản chất
của sự trao đổ i.
Ví dụ về mô hình tự tổ chứ c trong tha y đổi tổ chức
Licht enstein (2000) trình bày m ô hình thay đổi t ự tổ chức trong bối cảnh c ác hoạt độn g kinh
doanh. Việc ông thách thức các quy ước tiêu chuẩn t rong thôn g tin hệ thống xã hội hơi giốn g
Nhóm 12 27
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
như quyền l ực thay vì đánh đồn g quyền lự c với m ức độ hoạt độn g thực sự c ủa hệ thống. M ô
hình của ôn g gồm có 3 giai đo ạn (và vì vậy là m ôt m ô hình vòng đời). Đầu tiên, nguồn lực
gia tăng làm cho việc tổ ch ức gia tăng. Trong giai đo ạn này những gia tăn g nhỏ trong nguồn
lực có thể được sử dụng nhưng tổ chức vẫn chống lại thay đổ i lớn. Khi khoảng cách giữa khả
năng thực hi ện côn g việc với yêu cầu thực hiện côn g việc n gày càn g căng thẳng v ì cấu trúc
gốc của hệ thống trở nên yếu ớt trong việc xử lý một lượn g lớn m ức côn g việc kh ác nha u,
căng thẳn g n gày càn g phát triển và hệ thống bị đẩy tới n gưỡn g phải thay đổi. Chính tại trạng
thái còn-xa-trạng-thái-cân- bằng này, m ột thay đổi nhỏ hay m ột lo lắng cho tổ chức – việc đi
và đến c ủa m ột cá nh ân, nhận xét c ủa một ai đó, phương pháp thực hiện côn g v iệc hơi chệnh
hướn g – cũn g có thể dẫn đến m ột sự thay đổi lớn trong việc tổ chức. Giai đoạn thứ ba là sự
xuất hiện của c ấu trúc mới có định hướn g nhưn g ch ưa mới lạ cũn g làm tăng năn g suất và
thường ẩn ch ứa sự phức tạp hơn (thông qua v iệc tươn g tác giữa các yếu tố trong hệ thốn g) so
với cấu tr úc gốc.
Sự thay đổi việc hình thành khái niệm
Một hệ thống đơn giản có thể m inh họa sự thay đổi có thể được khái niệm hóa như thế nào từ
4 viễn cảnh khác nhau được m ô hình hóa. Hãy x em xét việc quản trị dự án ph át triển phần
m ềm . Công v iệc của dự án được thực hiện bởi một nhóm kỹ sư phần mềm. Những n gười này
sẽ báo cáo cho quản lý dự án. Nhóm này tồn tại trong phạm vi chức năng côn g vi ệc của tổ
chức. Ch úng ta cho rằn g dự án đã bắt đầu và chúng ta đan g theo dõi nhóm này dưới dạn g m ô
hình hoạt động nào đó và có thể thay đổ i nh ư thế nào. Vấn đề đặc trưng xảy ra sắp tới là
nhóm giải quyết một cách tập thể những vấn đề m à những vấn đề này sẽ nảy sinh trong quá
trình mã hóa cho phần m ềm .
Một nhà nghiên cứu sử dụn g m ô hình CAS xây dựn g sự mô phỏng một nhóm với những kỹ
sư phần m ềm làm nhữn g ch ủ thể. Nhữn g chủ thể này có một mục tiêu (n ghĩa là, tối t hiểu hóa
các vấn đề trong quá trình sản xuất với việc sử dụng quy ền lực ít nhất) và một giản đồ phác
họa m ôi trường làm việc và côn g việc mà các ch ủ thể t hực hiện. Giản đồ này có thể là quy
luật “ Nếu – thì” dưới h ình thức các thuật toán phát sinh yêu cầu các ch ủ thể đưa ra các giải
pháp giải quy ết và các chủ thể có thể sẽ thấy phản ứn g tươn g ứn g n gay sau đó. Do đó, trong
m áy tính, các ch ủ thể này đang cố gắn g nhận diện r a vấn đề và đưa ra giải ph áp giải quyết nó.
Nhữn g cá nhân có thể bị giới h ạn bao nhiêu vấn đề m à họ có thể thấy hoặc họ nhận ra những
vấn đề chính xác như thế nào và quan hệ nối liền nh au của các ch ủ thể này có t hể được sử
dụng để đồn g hóa thông tin và phối hợp.
Vài v ấn đề n ghiên cứu điển hình được kiểm tra nhanh bằn g m ô hình gồm có:
Nhóm 12 28
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
- Cấp độ k ết nối nào cun g c ấp đủ sự cộn g tác và nhữn g học hỏi chung m à không làm
cho các ch ủ thể bị bù đầu với nhữn g côn g v iệc giao tiếp qua lại?
- Nhữn g ch ủ thể tìm hiểu để khái quát hóa nh ư thế nào. Vì vậy, họ có thể giải quyết vấn
đề mà những vấn đề này họ chưa từng thấy trước đây.
- Sẽ tốt hơn nếu có nh ữn g ch ủ thể có n gười có kỹ năn g ch uy ên sâu (kỹ năn g nh ận ra
vấn đề và giải quyết vấn đề), có ch ủ thể có kỹ năng sâu hoặ c có ch ủ thể có kỹ năn g
rộng.
Người nghiên cứu cũng có thể xem xét giải quyết vấn đề từ mô hình Kauffman’s. Bằn g việc
xem xét bản chất của ph ần mềm và mô hình hóa nó nh ư là m ột cấu trúc h ệ gen, người n ghiên
cứu ước lượn g số lượng gen và mối liên h ệ của ch ún g. Sử dụng mô phỏn g Kauffman cho kết
quả m ất bao lâu để giải quy ết vấn đề m ã hóa, phần mềm có nên cố định các bước v à nhóm có
thường lưu lại giải pháp mà giải pháp n ày gần điểm cực thuận.
Một người n ghiên cứu sử dụn g mô hình năn g động có thể đạt một trong hai cách tiếp cận.
Đầu tiên, anh ấy hay ch ị ấy có thể th u thập chuỗi dữ liệu v ề thời gian theo kinh n ghiệm từ
m ột nhóm t hự hiện trong thực tế và ph ân tích chúng bằng những phươn g pháp phân tích khác
nhau, để quyết định những m ẫu hình có tính chu kỳ, hỗn loạn, ngẫu nhiên hoặc nhiễu hồng có
tồn tại hay không. Nhữn g biến số có thể được quan sát gồm có số lỗi được phát hiện, và hoặc
cố định, mỗi ngày, số thời gian giữa nhữn g lần khắc phục lỗi, số em ail trao đổi giữa các chủ
thể trong nhóm mỗi ngày. Những sự chuẩn đoán như vậy có thể khám phá những mẫu hình
có t ính chu kỳ của sự đồng th uận giữa nhóm và “đồn g hồ và lịch” xác định tổ chứ c và m ôi
trường của nó, hoặc lỗ i trình bày về nhữn g công việc thườn g n gày được tự tổ chức, khuôn
m ẫu hỗn loạn giải thích nh ững khuôn mẫu tổng thể v ới tính mới l ạ từ thời điểm này đến thời
điểm khác, hoặc ngẫu nhiên hoặc nhữn g kh uôn mẫ u ch ỉ ra bản chất m ở c ủa h ệ thống và vô số
nhữn g trườn g hợp ảnh h ưởn g đến biến được quan sát.
Thứ 2, người làm m ô hình năng động có thể xây dựn g m ột bộ phương trình m ô tả độn g lực
của nhóm và lúc đó mô phỏng nó để xem khuôn mẫu nào nổi bật. Bước đầ u tiên sẽ nhận ra
nhữn g biến chính: số lỗi được phát hiện, số khiếm khuyết vẫn được tìm thấy, khả năng giải
quyết vấn đề, thông tin được đưa vào và v.v.. Bước kế tiếp sẽ đề n ghị nh ữn g kết nối n gẫu
nhiên giữa nhữn g biến này, một cách điển hình là dưới h ình thức những ph ương trình khác
nhau, và lúc đó mô phỏn g hệ thống một cách toàn diện c ái gì có thể tìm thấy, ví dụ, kh i tỷ lệ
các khiếm khuy ết (lỗi) đạt tới một mức độ nhất định, nó làm nhóm t rở nên quá tải vượt quá
giới hạn về khả năn g theo kịp những vấn đề m ới phát sinh và chún g nó đánh lừa những giải
Nhóm 12 29
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
pháp giải quyết vấn đề thông thườn g, dẫn đến nh ững giải ph áp không đầy đủ v à còn đưa ra
nhiều côn g việc hơn.
Người n ghiên cứu sử dụng mô hình tự tổ ch ức để n ghiên cứu thay đổi trong nhóm sẽ tìm
kiếm sự thay đổi đán g kể và định tính bằn g c ái cách nhóm đang tổ chức, và lúc đó tìm kiếm
sự thay đổi c ăng thẳng gia tăng và h ành động nhanh m ang lại sự biến đổi. Anh ấy hoặc cô ấy
cũng sẽ xem xét những chỉ t iêu và côn g việc thườn g n gày của nhóm để xem chúng nó có giới
hạn nhóm tránh xa việc đi vào m ột khuôn mẫu hành vi kh ác như thế nào.
Mặt khác một người quản lý nhóm về dự án, mong m uốn tạo ra sự thay đổi về h ành vi của
nhóm , có thể hình dung những điểm đòn bẩy khác nhau tùy th uộc v ào m ô hình nào mà người
quản lý đan g nghĩ tới. Xem hệ thống dưới cách đơn giản t r uyền t hống, nhà quản lý có khả
năng biết chắ c hành vi c ủa nhóm đến động cơ thúc đẩy của c á nhân v à hoặc kỹ năn g, v à hoặc
nguồn lực và quy trình mà nhóm đang làm việc và đề nghị thay đổi về quá trình v à hoặc cấu
trúc, hoặc tìm kiếm để trao cho các ch ủ thể của nhóm sự kh ích lệ để đưa tới những hành vi
được mon g đợi. Nếu nhà quản lý xem nhóm như là m ột CAS, anh ấy hoặ c chị ấy sẽ tập trung
vào mô hình của những kỹ sư ph ần mềm, và nhữn g quy tắc đơn giản đưa họ đến sự tươn g tác.
Nếu nhà quản lý xem nhóm như được tính toán, anh ấy hoặc chị ấy sẽ tập trung mối liên hệ
giữa các kỹ sư và thành phần của vấn đề. Nếu nhà quản lý xem nhóm đang trong tình trạng
bất ổn, anh ấy hoặc chị ấy có thể có thể tìm kiếm sự thay đổi nhỏ để thực hiện, điều này sẽ có
m ột tác độn g lớn. Cuối c ùn g, n ếu quản lý xem nhóm như là tự tổ chứ c, anh ấy hoặc chị ấy có
thể tìm kiếm những cách để man g nhóm “xa trạng thái cân bằng” để đem lại sự tự thay đổi.
Lúc đó, nói chung, những mô hình khoa học ph ức h ợp có cái gì. Đầu tiên, tất cả m ô hình
động - thời gian là nhữn g k iểu quan trọng nhất trong nhữn g m ô hình khác nhau. Thứ hai, theo
kinh nghi ệm , hoặc là dữ liệu được quan sát từ một hệ thống thật, hoặc là m ột hệ thống được
m ô phỏng và dữ liệu được phân tích. Nhữn g khuôn m ẫu về những loại dữ liệu này trở thành
tư liệu cho lý t huyết hóa. Thứ ba, những mô hình này sinh ra nhữn g khuôn mẫu hành vi nổi
bật vẫn đã khôn g thể suy ra từ bộ phận cấu thành. T hứ tư, nó có ích trong thực tế chỉ với sự
giúp đỡ của máy tính, đối với hoặc là mô phỏng hệ thống và hoặc tìm những khuôn m ẫu từ
dữ liệu được quan sát. Thứ năm, hoặc là dứt khoát trong nhữn g hành v i cấu thành của nó,
hoặc hoàn toàn thông qua sự kết hợp các thành phần, nhữn g m ô hình mô tả hành vi mà những
hành vi này khôn g t uyến tính, nơi m à sự thay đổi v ề n guyên nhân là khôn g cân xứn g cần thiết
với nhữn g thay đổi tươn g ứn g trong thực tế. c uối cùn g, nhữn g mô hình này mô tả sự thay đổi
khi có cả hai những thành phần phân kỳ và hội t ụ.
Nhóm 12 30
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
Những thách thức trong tương lai
Mặc dù khả năn g rõ ràng của nó để khái quát hóa nhiều trong số nhiều hơn nh ững điểm đặc
trưng cụ thể của những mô hình thay đổi tổ chức, khoa học phứ c hợp vẫn còn thiếu m ột sự
quan tâm quan trọng – Nó khôn g có lý t huyết hoặc các mô hình mà những mô hình này kết
hợp nhữn g n gười trong sự trao đổi về m ột tổ chức có khả năn g thích n ghi với sự phức hợp, c ụ
thể là thảo luận. Nếu không có thảo luận, t ổ chức sẽ không có tồn tại hoặ c ít nhất nó sẽ khôn g
thú vị. Thảo luận dưới h ai hình thức đàm l uận và bài viết là nhân tố quy ết định của hệ thống
xã hội ( Boden, 1997). Nhờ v ào thảo luận m à nhữn g ch ủ thể c ủa tổ chức phối h ợp nh ữn g m ục
đích, những mục tiêu và những hành động, nhưng cũn g nhờ thảo luận mà những thành viên tổ
chức xây dựn g tính xác thực, xác định cái gì quan trọng và cái gì khôn g, t ạo ra sự lựa chọn,
và t ạo ra trật tự giữa sự rối rắm, mơ hồ, không chắc ch ắn và lập lờ nước đôi (Wick, 1995)
nhữn g m ô phỏng của hệ thống có khả năn g thích ứng với sự phứ c hợp xem thảo luận như là
m ột vấn đề của việc thông qua thông điệp. Trong kh i điều n ày có thể là đầy đủ đố i với m ô
hình những chủ thể phối hợp với nhau như thế nào để thực hiện những côn g việc khôn g mơ
hồ, để nắm bắt sự phong phú của thảo luận con người trong thực t ế là không đủ. Stacy (1999)
nhận ra điều này và đề nghị rằn g ứng dụn g CAS cho tổ ch ức con n gười là không ph ù hợp,
thay vào đó chúng ta nên phát triển m ột m ô hình “ quy trình phản ứng phứ c hợp” trong m ô
hình này, memes (m ột chút ý tưởng, văn hóa, tiêu chí cơ bản, ….) thay cho những con người
ở vai trò chủ thể.
Trong khi điều này là một bước trong m ột hướng đi đúng, có một vấn đề chính – meme
không có ch ủ thể. Một mem e có thể có cuộc sống của ch ính nó, nhưng khôn g có “người đưa
tin là con người” nó không thể tồn tại. Nếu m ột cá i gì đó mang chủ thể trong CAS đi, thì cái
đó ph ải ở lại với một hệ thống hoàn toàn tĩnh lặn g và nh àm chán mà hệ thống này có thể chỉ
thay đổi thông qua sự tiến hóa loại Lam ac. Rõ ràn g câu trả lời th ú vị hơn là để phát triển m ột
m ô hình CAS m à nó kết hợp thảo luận như m ột cái gì đó mà cái này di ch uyển giữa các chủ
thể. Như vậy, n iềm tin, giá trị, mục đích và sự nhận dạng nhữn g n ét đặc trưn g n ày có thể
được tưởng tượn g th uộc về một cá nhân, nhưng trước hết nhờ thảo luận m à chún g nó được
phát ra và dễ thấy.
Một nền tảng cơ bản của nhiều lý thuy ết và nhữn g mô hình thay đổ i trong hệ thống xã hội là
nếu bạn thay đổ i cái bạn nói, bạn có thể thay đổi c ái bạn làm và cái bạn tin. Đ ây có lẽ là chiến
lược cơ bản nh ất về thay đổi đối với những cá nhân hay nh ữn g nhóm người, và nó là m ột
hiện tượn g m à vẫn ch ưa được khoa học ph ức hợp n ắm bắt đầy đủ. Để tập hợp thảo luận thành
m ột mô hình, nó phải được trình bày rõ ràng bằn g m ột cách mà cách này phải tuân theo sự
Nhóm 12 31
Chương 12: Các mô hình khoa học ph ức hợp của sự thay đổi và đổi mới tổ chức
tính toán. Corman, Kuhn, Mcphee, và Dooley (2002) tạo “Phân tích cộng hưởn g trun g tâm”
như là m ột phương tiện để trình bày nhữn g văn bản dưới dạng mạn g lưới. Thảo luận có thể
được mô hình hóa như một sự tiến hó a của những mạng lưới thuộc n guyên bản, những mạng
lưới này xuất hiện như những chủ thể thay đổi nguy ên bản và làm tiến triển những mô hình
m ới dựa trên nền tảng nh ững quy luật kết hợp, sự hoán chuyển, và hệ vô tính (Dooley,
Corman, Mcphee, v à Kuhn, 2003).
Thậm chí sự tập hợp thành tổ chức về thảo luận rõ ràng bằn g nhữn g mô hình khoa học phức
hợp có thể là chưa đủ. Nói chung nhữn g nhà ngh iên cứu đồn g ý rằn g việc có thể thấy được
phức hợp bằn g việc tồn tại những mô hình kho a học phức hợp, trong khi sự mới lạ và sự sâu
sắc khôn g ph ù h ợp sự phức hợp mà ch úng ta thấy tron g nhữn g tổ chứ c và hệ thống hiện nay.
Điều đó có thể là m ột hình thức về t oán học kh ác, và như v ậy lập luận n gẫu nhiên, sẽ cần
thiết để xem cái gì ch ún g ta đan g thiếu sót .
Một thách thức cuối cùn g đang tồn tại là tính kỷ luật. Tuần tự, nhiều sự khám phá hơn được
thực hiện trong những m ô hình mới được phát triển, nhiều nhà khoa học xã hội t hen chốt và
nhữn g nhà n ghiên cứu tổ chức xuất hiện. Điều n ày không đơn giản, khi trước tiên là những
khái niệm này rất khó để h iểu và nhiều m ô hình hoặc yêu cầu sự tinh thông về toán học để
hiểu sâu. Nh ững phươn g pháp tiên tiến mà những nhà nghiên cứu tổ chức sử dụng xây dựn g
và kiểm tra lý thuyết thì hầu hết không đủ khả năng nắm bắt sự phứ c hợp, khi đó, họ không
dễ dàn g m ô hình hóa về quan h ệ nhân quả lẫn nhau, ph ản hồi, và khôn g t uyến tính.
Cộng đồn g n ghiên c ứu về tổ chứ c đầu tiên chú ý đến nhữn g m ô hình tự tổ chức, cơ bản bởi vì
việc làm của họ là khôn g cần nhữn g kỹ năng toán. CAS, nh ữn g mô hình tính toán và năng
động yêu cầu tinh thông (hiểu tườn g tận) để ph át triển và phân tích nh ữn g m ô hình mô phỏng
dựa trên máy tính. Sự có m ặt của những gói phần mềm như Stela và NetLogo tạo ra sự m ô
phỏng thì có giá trị cho nhữn g nhà n ghiên cứu tổ chức, nhưng tính n guyên tắc về phương
pháp luận của nh ữn g nghiên cứu này là “ một dấu hỏi” (Doo ley, 2002b). Ngược lại, việ c m ô
hình hóa độn g dựa trên phép quy n ạp y êu cầu những kỹ n ăn g thống kê quan trọng, và nhữn g
công cụ phần mềm t hì không sẵn có.
Có thể, nhữn g khái niệm về khoa họ c phức hợp đôi khi làm nảy sinh câu hỏi giá trị của những
m ô hình hiện tại t rong phạm vi quy tắc về lý thuyết tổ chức và hành vi. Như v ậy, sự ứn g dụn g
và phổ biến những mô hình này t ùy th uộc vào v iệc các mô hình cung cấp kh ả năng lý giải
siêu v iệt và mang lại kh ái ni ệm hóa các lý t huyết sâu sắc và thanh thoát.
Nhóm 12 32