
LỜI MỞ ĐẦU
Với đặc điểm 80% dân số nước ta sống ở nông thôn và trên 70% lực
lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, việc phát triển toàn
diện nông thôn có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội ở nước ta. Kinh nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng
nếu không phát triển nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển
ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài.
Thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông thôn là một tất yếu
trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước ta nhằm:
1. Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng
cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho bộ phận dân cư khu vực
nông thôn, tăng khả năng tích luỹ nội bộ từ nông thôn và nâng cao
khả năng đầu tư vào khu vực nông thôn
2. Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn cũng như
trong cả nước.
3. Giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn
đề việc làm, khai thác nguồn nhân lực ở mỗi địa phương, khắc
phục tình trạng chênh lệch không đáng có giữa các vùng, các dân
tộc.
4. Thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng di dân
từ nông thôn chuyển vào các đô thị, tạo đIều kiện để các đô thị
phát triển thuận lợi.

Tiểu luận triết học
1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP
HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG THÔN.
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ-HIỆN ĐẠI HOÁ.
1. Công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
1.1.Khái niệm.
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội
từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ
thuật, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
1.2.Tính tất yếu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Tất cả các nước khi tiến lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua thời
kỳ quá độ và tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Có 2 loại quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ tuần tự và quá độ tiến
thẳng.
Ở các nước quá độ tuần tự hay còn gọi là những nước quá độ từ chủ
nghiã tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội nhưng cũng đã có tiền đề vật chất là nền đại công
nghiệp cơ khí do chủ nghiã tư bản để lại. Vì vậy, để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, những nước này chỉ cần tiếp tục đẩy
mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, ứng dụng thành
tựu của nó vào sản xuất, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghiã về
quan hệ sản xuất, phân bố và phát triển sản xuất một cách đồng bộ trong
cả nước. Thực chất của quá trình này là biến những tiền đề vật chất do
chủ nghĩa tư bản để lại thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội ở trình độ cao hơn.
Ở các nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản
như ở nước ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chât kĩ thuật cho chủ nghĩa
xã hội được thể hiện bằng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình biến đổi một nước có
nền kinh tế lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Qua các kì
đại hội VI,VII,VIII Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá hiện đại hoá
là một nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Tiểu luận triết học
2
ở nước ta. Đại hội lần thứ IX của đảng Cộng sản Việt Nam lại một lần
nữa xác định mục tiêu cho những năm trước mắt: “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém
phát triển; tập trung sức xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp
nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để
trang bị và trang bị lại kĩ thuật công nghệ tiên tiến cho các ngành kinh tế
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đáp ứng được nhu cầu quốc phòng,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp”.
2. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
2.1. Khái niệm
Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp
và bộ mặt kinh tế –xã hội nông thôn, biến lao động thủ công thành lao
động cơ giới, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hàng hoá; là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ
trọng các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm
năng tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất trong
nông nghiệp nông thôn, từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế-xã hội nông thôn
tiến gần đến thành thị.Trong đó:
- Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
- Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ
khoa học kĩ thuật, công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông
nghiệp.
2.2. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.
Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn bao gồm:
- Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng
trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế cho lao động thủ
công.
- Áp dụng phương pháp quản lý mới, hiện đại tương ứng với công nghệ
và thiết bị vào nông nghiệp nông thôn.
- Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị
và công nghệ mới vào nông thôn.

Tiểu luận triết học
3
II. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng đặc biệt là lương
thực nhưng chất lượng nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh còn
yếu kém.
Từ năm 1981 đến nay, nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình
quân hàng năm là 4,5%. Năm 2000 sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp phát
triển toàn diện tăng bình quân 5%. Sản xuất lương thực tăng nhanh, bình
quân mỗi năm tăng khoảng 1,3 triệu tấn. Lương thực bình quân đầu
người tăng từ 370 kg (năm 1995) lên 435 kg (năm 2000). Năng xuất lúa
từ 32 tạ/ha (năm 1990) lên 43 tạ/ ha (năm 2000). Sản xuất mầu cũng ổn
định, nhất là ngô. Năm 1995 diện tích cả nước mới đạt 55 vạn ha, năng
suất 21 tạ /ha, sản lượng 1,184 triệu tấn. Đến năm 1999 diện tích ngô 69
1 vạn ha, năng suất 25 tạ/ha, sản lượng 1,75 triệu tấn. Cây công nghiệp,
cây ăn quả có bước phát triển khá bình quân 10 năm1990-1999 so với
bình quân 5 năm trước đó: sản lượng lạc tăng 74% cà phê nhân tăng 2,8
lần, cao su tăng 87%, hồ tiêu tăng 68%, chè tăng 27,3%, bông tăng 2,83
lần. Cây ăn quả cả nước năm 1999 đạt 512,8 nghìn ha.
Chăn nuôi có bước tăng trưởng khá cao và ổn định. Bình quân 10
năm 1990-2000 so với bình quân 5 năm trước đó: đàn lợn tăng 20%, bò
tăng 10%, sản lượng trứng tăng 33%.
Thuỷ hải sản tăng liên tục. Hoạt động khai thác thuỷ sản trên sông,
trên biển phát triển mạnh. Đến năm 2000 cả nước có 229,9 nghìn hộ dân
trang bị 7150 tầu đánh cá cơ giới.
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 năm 2000, trang 6,7,8)
Tuy nhiên do sản xuất các mặt hàng nông sản tăng nhanh so với nhu
cầu trong nước khiến cho sản lượng hàng hoá cần được xuất khẩu tăng
lên. Vì vậy giá cả nông sản phần lớn phụ thuộc vào xuất khẩu. Trong
thời gian qua một số mặt hàng nông sản giá xuống thấp: lúa gạo, cà phê,
tiêu, … chủ yếu là do xuất khẩu kém hiệu quả. Chính vì vậy để phát triển
nông nghiệp chúng ta cần chú trọng đến tiêu thụ sản phẩm, giảm khó
khăn cho người nông dân. Muốn giải quyết được vấn đề này cần phải
thay đổi cơ cấu và chất lượng sản giống, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến và đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, bảo quản để nâng cao chất
lượng hàng hoá. Bên cạnh đó để nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt
hàng nông sản, chúng ta phải đa dạng hoá sản phẩm, tập trung phát triển
những mặt hàng chiến lược dựa vào lợi thế so sánh giữa các vùng sản
xuất hàng hoá.

Tiểu luận triết học
4
2. Hình thành các khu vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tập
trung
Việt Nam đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập
trung như: lúa, cao su, cà phê … nhưng nhìn chung vẫn còn phân tán,
manh mún, qui mô hộ gia đình nhỏ bé, trước mắt có thể có hiệu quả
nhưng về lâu dài thì sẽ là một cản trở cho quá trình công nghiệp, hoá
hiện đại hoá.
Trong khi các vùng chuyên canh về cao su, cà phê, chè, tiêu đã khá ổn
định thì các vùng chuyên canh khác còn trong quá trình hình thành, ít về
số lượng, qui mô nhỏ, chưa ổn định. Các vùng chuyên canh cây ăn quả,
chăn nuôi gia súc gia cầm chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng
truyền thống, thiếu sự tác động của khoa học công nghệ. Hiện nay cả
nước có tới hàng triệu thửa ruộng nhỏ, manh mún tập trung chủ yếu ở
đồng bằng sông Hồng và miền trung. Những thửa ruộng này chỉ phù hợp
với sản xuất bằng lao động thủ công. Đây chính là một trở ngại lớn của
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
3. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu được thuỷ lợi hoá, hoá học hoá,
cơ khí hoá, điện khí hoá, áp dụng các thành tựu của khoa học công
nghệ nhưng cơ sở hạ tầng còn thấp, lao động thủ công vẫn còn khá
phổ biến, trình độ khoa học công nghệ còn thấp so với thế giới.
Trong những năm qua nhà nước và nhân dân đã thực hiện nhiều công
trình xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Tuy nhiên chất lượng các công trình còn thấp cần tiếp tục
được tu bổ, nâng cấp, xây dựng mới. Hiện nay chúng ta đã hình thành
một hệ thống các công trình phân bố trên phạm vi rộng với 743 hồ chứa
nước lớn và vừa, 1017 đập dâng, 4716 cống tưới tiêu, 1796 trạm bơm
đIện và hơn 2000 trạm biến thế chuyên dùng cho thuỷ lợi. Đã xây dựng
được mạng lưới giao thông nông thôn phát triển theo chiều sâu và rộng.
Năm 1994 tỷ lệ xã có đường ô tô về đến trung tâm xã là 86,5%, năm
1999 tăng lên 95%, khoảng 9777 xã. Tuy nhiên đường giao thông lạc hậu
đã gây ách tắc về giao lưu hàng hoá trên thị trường. ĐIện đã xuống được
thôn xóm nhưng chất lượng còn thấp và giá cả cao so với thu nhập của
người dân nông thôn. Năm 1999 có 8 894 143 hộ ở nông thôn có đIện
dùng, đạt 69,3% số hộ nông thôn được dùng đIện lưới quốc gia (Nguồn:
Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12 năm 2000 trang 7).

