Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

Tiểu luận

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 1 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

LỜI MỞ ĐẦU

N ền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ X VIII - đầu

thế kỷ X IX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây  u và thế giới. Đây là đỉnh cao của

thời kỳ triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại triết học

cổ điển Đ ức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa M arx -

nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng

Pháp).

N ền triết học cổ điển Đ ức là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp

xướng của triết học Tây Âu. Trong bản giao hưởng đầy tính bác học của triết học Tây

Âu mà khúc dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hoàng đó là tư tưởng biện chứng triết học cổ

điển Đ ức, nó bức ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu sắc thần linh để khảy lên bằng

chính đôi tay người phàm tục. N hững đôi tay vàng ấy được phản ánh qua những triết gia

dệt nên những trang bất hữu bởi thời gian. Đặc biệt là tư tưởng biện chứng của triết

học cổ điển Đức thể hiện thông qua một số đại biểu tiêu biểu như: Canter, Hegel,

Feurbach.

Tuy đứng trên lập trường duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây

dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện

chứng, học thuyết về các quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi

của họ đó là phép biện chứng. Với cách nhìn tổng quát về phương pháp biện chứng, các

nhà triết học cổ điển Đ ức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân

loại đã đạt được. Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất đó không thể không kể tới Georg

Wilhelm Friedrich H egel. Phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của

triết học M ácxit. Triết học của Hegel có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước

Đức và cả Châu  u đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện

chứng của H egel là phép biện chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự vận động và

phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật.

K hông chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại

cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại.

Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, H egel đã làm sáng tỏ đối tượng,

chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học

khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 2 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ NH ỮN G ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌ C

CỔ Đ IỂN Đ ỨC :

1. Điều kiện lịch sử:

Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. N ước Đ ức vào

cuối thế kỷ X VIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển

hình với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu

về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này

vương triều Phổ Phriđrich Vin H em vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ,

cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu

không khí bất bình của đông đảo quần chúng.

Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản. Ở nước Anh thực

hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu  u bước vào nền

văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần cách mạng

của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp

tư sản Đ ức lúc này tỏ ra hèn kém, những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những

vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếukém về kinh tế và chính trị nên

không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn mà chỉ tiến hành cách mạng về

phương diện tư tưởng. Người ta nói rằng tương lai của tư sản nước Đức vẫn còn rất xa

vời. H ọ muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương

trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước. N hưng với tinh thần cách mạng

của mình, giai cấp tư sản Đức phải tìm cách nào đó để thể hiện tinh thần đó và đã gửi gắm

vào trong triết học cổ điển Đ ức. Đồng thời, trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương

thức sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn:

phát hiện ra điện, phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế

bào của Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo... N hững thành tựu đó

chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các

hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới,

phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con người. Triết học cổ điển

Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.

2. Những đặc điểm cơ bản:

- Triết học cổ điển Đ ức có nội dung rất cách mạng nhưng hình thức thể hiện rất rối

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 3 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

rắm, bảo thủ. Triết học cổ điển Đức là tiếng nói của giai cấp tư sản Đức nhằm phê phán

trật tự xã hội đương thời. Tuy nhiên, tinh thần phê phán đó là tinh thần mang tính ôn hòa.

Người ta nói rằng: triết học cổ điển Đức là sự thể hiện cách mạng tư sản Pháp trên nước

Đức. Triết học cổ điển Đ ức nhằm phê phán trật tự xã hội đương thời, vẫn còn dưới sự

thống trị của vương triều Phổ. Tuy nhiên, nếu so sánh tinh thần phê phán của triết học cổ

điển Đ ức vào nửa đầu thế kỷ X IX với tinh thần phê phán của triết học Tây  u thế kỷ

XVII thì tinh thần phê phán đó mang tính ôn hòa hơn, nó không quyết liệt bằng tinh thần

phê phán của triết học Tây  u thế kỷ XVII - XVIII vì nó được bao bọc bởi những vỏ sinh

tâm thần bí trong triết học của Hegel hay Canter, Phicter…

- Triết học cổ điển Đ ức đã xây dựng phép biện chứng như là học thuyết triết học về

mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trên thế giới.

- Triết học cổ điển Đ ức đề cao vai trò tích cực của con người với tính cách là chủ thể

của mọi hoạt động cải tạo thế giới – khách thể và khảo sát khách thể gắn liền với hoạt

động thực tiển của chủ thể - con người. Tuy nhiên, họ đã gắn cho con người một vai trò

quá lớn ở chỗ họ thần thánh hóa trí tuệ của con người, coi con người có sức mạnh, là chúa

tể của giới tự nhiên.

- Triết học cổ điển Đ ức có những đóng góp to lớn với sự phát triển văn hóa và khoa

học của nhân loại, đóng góp lớn nhất là đóng góp về phép biện chứng gắn liền với tên tuổi

của Hegel, đóng góp thứ hai là đóng góp về thế giới quan duy vật (chủ nghĩa duy vật) gắn

liền với tên tuổi của L.L.Feurbach (1804 - 1872).

II. PH ÉP BIỆN CH ỨNG CỦA HEGEL – MỘ T TRONG NHỮ NG THÀNH TỰU VĨ

ĐẠI C ỦA TRIẾT HỌ C C Ổ Đ IỂN ĐỨ C:

G .Ph.Hegel (1770 - 1831) xuất thân trong gia đình công chức, đã từng tốt nghiệp đại

học tổng hợp. Bản thân ông từng là giáo sư dạy trung học, sau đó là giáo sư giảng dạy

trong trường đại học. Theo đánh giá các nhà kinh điển của chủ nghĩa M arx: H egel

không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là nhà triết học có tri thức bách khoa nên tất cả

mọi lĩnh vực, H egel đều là người của mọi thời đại. Triết học của H egel là tinh hoa của

triết học cổ điển Đức và là nguồn gốc lý luận trực tiếp của cổ điển M arx. H egel đã để lại

cho đời sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Hệ thống của Hegel rất khó đọc. Thời kỳ nước

Đức lên cơn sốt Hegel chứng tỏ trình độ tư duy của người Đức rất cao. Lúc bấy giờ nước

Đức hình thành hai phái: một H egel già và H egel trẻ, đều ảnh hưởng trực tiếp của Hegel.

Hegel từng tuyên bố: triết học của Hegel là cuối cùng trong lịch sử, về sau này sẽ không

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 4 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

tìm được bộ óc nào vĩ đại hơn H egel. Sự tuyên bố đó tất nhiên là không đúng nhưng có cơ

sở của nó. Tư tưởng của H egel bao bọc bởi duy tâm huyền bí.

1. Học thuyết của He gel về ý niệm tuyệt đối :

- Đây là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học Hegel. Ô ng thông qua học thuyết

ý niệm tuyệt đối để trình bày nguồn gốc của thế giới. H egel coi ý niệm tuyệt đối là đấng

tối cao sáng tạo ra tụ nhiên và con người. Bản thân con người là sản phẩm và là giai đoạn

phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối và hoạt động nhận thức. H oạt động cải tạo thế

giới của con người chính là công cụ để ý niệm tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình và

trở về với chính bản thân mình. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả

những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. H ọc

thuyết ý niệm tuyệt đối nằm trong hệ thống triết học của ông gồm ba phần:

(+) Khoa học logic: nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là

xuất phát điểm của hệ thống, trình bày các quy luật phổ biến của sự vận động và phát

triển.

(+) Triết học tự nhiên: triết học đem lại bức tranh về sự phát triển của giới tự nhiên

dưới hình thức duy tâm.

(+) Triết học tinh thần: dưới hình thức triết học tinh thần, Hegel đã trình bày lịch sử

của con người và sự tự nhận thức của con người.

- Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần có trước giới tự nhiên, giống thượng đế sáng

tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế

giới đều được sinh ra bởi một thực thể tinh thần, ý thức, tinh thần có trước vật chất nhưng

đó không phải là ý thức, tinh thần của từng cá nhân, con người cụ thể mà là một thực thể

tinh thần bên ngoài con người và ông đặt tên là ý niệm tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ triết

học của H egel là duy tâm khách quan. Trong quá trình tự vận động biện chứng, nó đạt tới

sự phát triển đầy đủ ngay trước khi giới tự nhiên xuất hiện và khi đạt tới sự phát triển đầy

đủ thì ý niệm tuyệt đối “tha hóa” thành giới tự nhiên. Ý niệm tuyệt đối là một thực thể

tinh thần nên có tính ham hiểu biết, bởi vậy muốn biết mình thì phải tha hóa mình ra thành

cái khác mình. Theo học thuyết ý niệm tuyệt đối điểm khởi đầu là tinh thần và điểm kết

thúc của sự phát triển cũng là tinh thần, chỉ có khác ở chỗ điểm khởi đầu là tinh thần thế

giới còn điểm kết thúc là tinh thần tuyệt đối.

- Như vậy, Triết học của H egel nếu xét về hệ thống thì nó là triết học duy tâm khách

quan, thể hiện ở chỗ triết học này đã thừa nhận tinh thần thế giới là cái có trước còn giới

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 5 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

tự nhiên (vật chất) là cái có sau, cái phụ thuộc hay cái phái sinh vào ý niệm tuyệt đối. Xét

về cấu trúc thì hệ thống triết học của H egel là siêu hình, coi sự phát triển có tận cùng và

khi có sự nhận thức đầy đủ thì giới tự nhiên nó không vận động phát triển về thời gian và

chỉ vận động phát triển về mặt không gian.

2. Phép biện chứng duy tâm của He gel:

Đ ây được xem là một thành tựu vĩ đại của Triết học cổ điển Đ ức, là một trong những

cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học của nhân loại.

- Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của H egel là tất cả những gì hiện

thực đều hợp lý, tất cả những gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là sự tồn tại trong tính

tất yếu. Đ ây là cách đánh giá của M arx: “Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng

của H egel: hiện thực không chỉ đơn giản là sự tồn tại mà là sự tồn tại trong tính tất yếu,

nghĩa là tất cả các sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ này vận động và phát triển theo các quy

luật vốn có”. Điều này được thể hiện qua hai mặt:

(+) M ột mặt được bảo vệ và duy trì nền chuyên chế của Nhà nước quý tộc Phổ lúc

bấy giờ.

(+) M ột mặt, theo H egel không phải tất cả những gì hiện đang tồn tại cũng đều là

hiện thực mà thuộc tính hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu. Như vậy,

theo H egel hiện thực không phải là cái tồn tại nói chung mà tồn tại trong tính tất yếu của

nó, là hiện thực trong sự phát triển. Đ ây là tư tưởng tuyệt vời của H egel.

- Đằng sau vỏ duy tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cả sự vật trên thế giới, kể cả tư

duy của con người đều vận động, phát triển theo các quy luật, chính H egel là người đầu

tiên xây dựng một hệ thống các phạm trù các quy luật của phép biện chứng đó. Toàn bộ

ba quy luật cơ bản (lượng – chất, quy luật phủ định của phủ định và một phần của quy luật

mâu thuẩn), sáu khoa học phạm trù: (chất lượng, mâu thuẩn, phủ định, cái chung & cái

riêng, nguyên nhân & kết quả, bản chất và hiện tượng) được khái quát lên chính là Hegel.

Đây là điểm sáng thứ hai trong phép biện chứng.

- Đối lập với tư duy siêu hình Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch sử

và tư duy dưới dạng một quá trình nghĩa là nằm trong sự vận động, biến đổi và phát triển

không ngừng, đồng thời hiểu phát triển là quá trình phủ định biện chứng, trong đó cái mới

ra đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ những mặt tích cực có thể thúc đẩy sự

phát triển. Tự nhiên, lịch sử và tư duy theo H egel trình bày ở dạng quá trình, tức là trong

sự sinh thành, biến đổi và phát triển. K hác với siêu hình, siêu hình cho rằng phát triển là

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 6 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

sự tăng giảm đơn thuần về lượng, còn Hegel hiểu rằng phát triển là quá trình phủ định từ

thấp đến cao, đó là quá trình phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có hai đặc điểm:

khách quan và kế thừa, kế thừa có sự chọn lọc, phê phán, người đầu tiên khái quát lên tư

tưởng đó là Hegel. Học thuyết của H egel chứng minh: con cái ra đời từ cha mẹ sẽ kế thừa

những mặt tích cực của cha mẹ, loại bỏ những mặt tiêu cực. Ví dụ: chế độ tư bản ra đời

dưới chế độ phong kiến, cũng là quá trình phủ định biện chứng, nó không phủ định sạch

trơn tất cả những chế độ, hệ tư tưởng, những tư tưởng mà chế độ phong kiến đã tạo ra,

không phải đạp đổ tất cả mọi thành quách, đền đài, lăng cẩm mà cũng kế thừa những mặt

tích cực, chọn lọc phát triển chủ nghĩa tư bản.

Với tinh thần biện chứng, khi đánh giá bất kỳ sự vật nào đó phải thấy hai mặt: tích

cực và tiêu cực để từ đó loại bỏ những mặt tiêu cực và kế thừa những mặt tích cực. N hư

vậy, tinh thần của biện chứng người đầu tiên khái quát lên là Hegel. Nếu thừa nhận phủ

định biện chứng này thì đánh giá của các nhà chủ nghĩa tư bản đa số đều khách quan. Đối

với Heghen không có gì được gọi là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả mà nó chỉ tính

chất quá độ của mọi sự vật, không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình

thành, của sự tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng, vô tận từ thấp đến cao.

- Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình, nhận

thức và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người nhận thức và

cải tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ ý thức mà nhân loại đã

trải qua. Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể của chính bản thân mình là quan

điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được vai trò của lao động đối với sự hình thành

và phát triển của ý thức. Lao động đã giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con người

đi lên thẳng đứng, tách con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con

người đã tạo thức ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động vào thế

giới xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức. Cũng chính

trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình. Vậy không có quá

trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc con người không hoàn thiện,

không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới, không có ý thức của con người. Hegel

khẳng định ý thức và tư duy của con người hình thành trong chừng mực con người nhận

thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ rằng đã bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự hình

thành và phát triển ý thức và tư duy. Từ đó Hegel cho rằng: bằng cách đó, con người tác

động vào giới tự nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên.

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 7 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

Quan điểm giới tự nhiên thứ hai người đầu tiên đưa ra chính là Hegel. Chân lý là sự thống

nhất của tinh thần và vật chất là cả một quá trình. Chân lý là tri thức có nội dung phản ánh phù hợp với hiện thực khách quan.Ví dụ: tổng ba góc trong một tam giác = 1800 là chân lý.

- Những quan điểm về chân lý sau này của M arx cũng chính là sự kế thừa quan điểm

của H egel. Chân lý là cả một quá trình, nghĩa là toàn bộ tri thức mà con người có được

đến thời điểm hiện tại là chân lý, có thể thực tiễn sau đó sẽ bác bỏ nó, không là chân lý

nữa. Có nhiều luận điểm cả ngàn năm là chân lý, thực tiễn sau đó bác bỏ nó, nghĩa là thực

tiễn kiểm tra chân lý.

- Theo Hegel, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế thừa.Vì

vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ lịch sử mà tư

tưởng nhân loại đã trải qua. Như vậy, trong ý thức của ta có ý thức của nhân loại trong

quá khứ và trong hiện tại. Đây chính là quan điểm duy tâm của H egel. N hững quan hệ xã

hội hình thành nên bản chất của ta, không chỉ trong hiện tại mà còn trong cả quá khứ. N ếu

tách con người hiện tại ra khỏi liên hệ lịch sử thì con người trong hiện tại phát triển phiến

diện và bề ngoài. Người đặt nền móng tư tưởng này chính là Hegel.

- Hegel là người nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình độ lý luận và là

người đầu tiên trình bày phép biện chứng ở dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù.

Trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, phép biện chứng tồn tại dưới ba hình

thức cơ bản, đó là:

 Phép biện chứng chất phác trong thời kỳ cổ đại.

 Phép biện chứng duy tâm gắn liền tên tuổi H egel.

 Phép biện chứng duy vật do M arx - Engels sáng lập vào giữa thế kỷ XIX.

Trong thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng đã khái quát một bức tranh chung về thế giới

mang tính biện chứng dựa trên sự quan sát mang tính trực quan cảm tính. Ví dụ: trong thời

kỳ đó, H ecralite đưa ra luận điểm nổi tiếng, cho rằng trong thế giới không có sự vật, hiện

tượng nào đứng im tuyệt đối mà vạn vật vừa tồn tại, vừa không tồn tại, chúng luôn trôi

qua, luôn nằm trong quá trình không ngừng sinh thành, biến đổi và chuy ển hóa, cái này

biến hóa thành cái kia và ngược lại. “Con người không ai tắm hai lần ở trong cùng một

dòng sông”, nghĩa là vạn vật không ngừng thay đổi. Theo Hecralite, dòng sông ngày hôm

nay sẽ không là dòng sông của ngày hôm qua vì dòng nước đã thay đổi. Chúng ta ngày

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 8 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

hôm qua và hôm nay cũng khác nhau bởi theo biến đổi tâm sinh lý trong cơ thể. Tư tưởng

đó là tư tưởng biện chứng. Sau này học trò của H ecralite còn nói lên phép biện chứng còn

hơn cả thầy mình là: “Con người không ai tắm một lần ở trong cùng một dòng sông”. Với

tư tưởng đó mới chỉ ra thấy rằng thế giới là sự vận động, phát triển liên tục và vô tận. Tuy

nhiên, cả thế giới vận động, phát triển theo quy luật biện chứng nào thì tư tưởng biện

chứng ở thời cổ đại không trả lời câu hỏi đó. Phương pháp biện chứng ở thời kỳ cổ đại

mang tính chất sơ khai và thời kỳ này phép biện chứng chưa thật sự trở thành khoa học.

Chính vì vậy ở thế kỷ XVII - X VIII, khi phong kiến phát triển thì phép biện chứng đã bị

phủ định bởi phép siêu hình. Sự phát triển của khoa học tự nhiên thế kỷ XVII và XVIII,

đặc biệt là sự phát triển của vật lý học và toán học khiến người ta nhìn nhận thế giới ở

trong trạng thái bất biến và cô lập. Ảnh hưởng của khoa học Newton, người ta cho rằng

thế giới là một kho đáy khổng lồ và các bộ phận thế giới là những bộ phận riêng biệt, tách

rời nhau. Cũng thời kỳ này, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phát triển khoa

học tự nhiên để phát triển lực lượng sản xuất. K hi khoa học tự nhiên phát triển như vậy

dẫn đến sự ra đời của một phương pháp nghiên cứu, gọi là phương pháp thực nghiệm.

Thực nghiệm là khảo sát, nghiên cứu của hiện tượng nào đó bằng cách tạo ra điều kiện

phùhợp với mục đích nghiên cứu. Ở trong khoa học tự nhiên, thực nghiệm thực hiện trong

phòng thí nghiệm để nghiên cứu hiện tượng nào đó. Bằng phương pháp thực nghiệm, khi

khảo sát hiện tượng A trong giới tự nhiên, người ta tạm thời cô lập nó, không tính tới sự

hình thành, biến đổi và phát triển của nó. Từ đó người ta có thói quen nhìn nhận các sự

vật, hiện tượng nghiên cứu trong trạng thái bất biến và cô lập, dẫn đến sự ra đời và thống

trị của phương pháp siêu hình trong triết học. Chính phép biện chứng trong thời cổ đại

chất phác đã bị phủ định bởi phương pháp siêu hình vào thế kỷ XVII và X VIII.

Đ ến nửa đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng đã phát triển lên trình độ lý luận trong

phép biện chứng duy tâm của H egel, chính H egel làm sống lại tư tưởng biện chứng. Có

thể nói H egel là người đầu tiên có công nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình

độ lý luận và và chính ông là người đầu tiên đã khái quát được đầy đủ phép biện chứng

dưới dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù. Toàn bộ hai nguyên lý, ba quy luật và sáu phạm

trù chính M arx kế thừa của Hegel. Theo phép biện chứng của Hegel, các sự vật, hiện

tượng trên thế giới không cô lập, tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và

không ngừng chuyển hóa cho nhau, nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau một cách phổ biến.

Điều này hiện nay đã được khoa học chứng minh. Theo H egel, vạn vật không những liên

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 9 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

hệ, tác động qua lại với nhau mà còn không ngừng vận động và phát triển từ thấp đến cao,

từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện cho đến hoàn thiện hơn. Nguồn gốc của động

lực và phát triển là sự đấu tranh của những mặt đối lập. Đ ây là tư tưởng hoàn toàn bình

đẳng, hợp lý. Đây cũng là quan điểm của triết học M arx về sau này.

Ví dụ:

 Nguyên tử vận động vì nguyên tử là thể thống nhất của những mặt đối lập trong

lòng nó, hạt nhân mang điện tích âm dương.

 Cơ thể sống vận động biến đổi vì cơ thể sống là thể thống nhất những mặt đối lập

trong lòng nó, đó là đồng hóa, dị hóa, biến dị, di truyền, hấp thụ, bài tiết.

 Nền kinh tế biến đổi, phát triển bởi sự đấu tranh của những mặt đối lập trong lòng

nó: cung và cầu, tích lũy và tiêu dùng, kế hoạch hóa và vô chính phủ…

Cách thức phát triển là chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi

về chất và ngược lại (quy luật vật chất).

N guyên nhân phát triển là theo con đường xoắn ốc mà mỗi vòng khâu của nó là một

mắc xích quá trình phủ định của phủ định.

Phủ định biện chứng là một sợi dây chuyền diễn ra liên tục và vô tận trong tất cả lĩnh

vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Liên tục diễn ra cái mới hay cái cũ nhưngnó kế thừa cái cũ

những mặt tích cực, còn khả năng thúc đẩy sự phát triển. Và cũng theo phép biện chứng

của H egel, giữa cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên,

nội dung và hình thức, bản chất hiện tượng, khả năng và hiện thực nó không cô lập nhau,

cũng không tách rời nhau mà chuyển hóa cho nhau.

Toàn bộ hai nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý sự phát triển;

ba quy luật cơ bản: quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định của phủ

định và sáu quy luật phạm trù: cái chung cái riêng, nguyên nhân kết quả, tất nhiên ngẫu

nhiên, nội dung hình thức, bản chất hiện tượng, khả năng hiện thực đã được Hegel khái

quát. Nhưng vì phép biện chứng của Hegel mang tính duy tâm nên toàn bộ những nguyên

lý, quy luật phạm trù đó được Hegel trình bày trên lập trường duy tâm, vì vậy, vai trò

khám phá chân lý của nó bị giảm đi. Sau này giữa thế kỷ X IX , chính M arx và Engels đã

phải cải tạo phép biện chứng của H egel, đặt nó trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật và

sáng tạo ra hình thức thứ ba của phép biện chứng, đó chính là phép biện chứng duy vật.

N ói đến phép biện chứng của M arx và Engels không thể không nói đến phép biện

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 10 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

chứng của H egel. Đ ánh giá của M arx đối với phép biện chứng của H egel vì chính M arx

không những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của Hegel mà còn cải tạo

phép biện chứng đó, xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học

với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". M arx viết:

“Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không

ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những

hình thái vận động chung. Phép biện chứng của H egel bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần

dựng ngược lại là tiền nhân nhân hợp lý của nó đằng lớp vỏ thần đó. Phép biện chứng của

Hegel nếu đặt trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật giống như con người đi bằng hai chân

vậy, nhưng vì đặt trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm, bao bọc bởi những lời thông thái

thông thường giống một người lộn ngược đầu xuống đất, chân trỏng lên trời”. Nhiệm vụ

của M arx là dựng ngược lại, tìm hạt nhân hợp lý. Chính M arx và Engels đã làm điều đó.

Hai ông loại bỏ chủ nghĩa duy tâm và kế thừa hạt nhân hợp lý, đó chính là phép biện

chứng. Trong triết học của M arx phép biện chứng duy vật, nội dung gồm hai nguyên lý,

ba quy luật và sáu phạm trù. Người đầu tiên khái quát nên những nguyên lý, quy luật và

phạm trù đó không phải là M arx mà là Hegel. Hegel là nhà bác học có tri thức bách khoa,

là một thiên tài sáng tạo, chỉ có điều phép biện chứng của Hegel bị ông đặt trên nền tảng

của chủ nghĩa duy tâm nên vai trò khám phá chân lý của nó bị giảm đi. G iữa thế kỷ X IX,

M arx và Engels đã cải tạo lại phép biện chứng của Hegel, đặt nó trên nền tảng của chủ

nghĩa duy vật và từ đó sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Nhà sáng lập chủ nghĩa

M arx không bao giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật

đối với phép biện chứngcủa H egel đã hoàn tất. Trái lại, cho đến tận cuối đời, các ông vẫn

không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và những khái quát

mới về phép biện chứng của H egel.

N oi theo tấm gương của M arx và Engels, V.I.Lenin cũng kiên trì nhấn mạnh về sự

cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép biện chứng của

Hegel. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu" – tác phẩm được coi

một cách xác đáng là di chúc triết học của Lenin - ông kêu gọi thành lập "H ội những

người bạn duy vật của phép biện chứng Hegel" để tiến hành công tác nghiên cứu giải

thích và tuyên truyền phép biện chứng của H egel: "Dựa vào cách của M arx đã vận dụng

phép biện chứng của Hegel hiểu theo quan điểm duy vật, chúng ta có thể và cần phải

nghiên cứu phép biện chứng đó trên tát cả các mặt".

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 11 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

Phép biện chứng của Hegel là một trong những cống hiến vĩ đại của ông trong quá

trình phát triển văn hóa khoa học của nhân loại, đặc biệt là trong sự ra đời của triết học

M arx. Từ đó cho thấy rằng hạt nhân phép biện chứng của Hegel là tư tưởng về sự phát

triển. Hegel đã mang lại phong cách tư duy mới, đó là phong cách tư duy biện chứng.

H egel, một nhà bác học kiêu căng nhất trong lịch sử, là một thiên tài sáng tạo có tri

thức bách khoa, ông từng tuyên bố rằng nhân loại không tìm bộ óc nào vĩ đại hơn Hegel

được nữa. Chính H egel là người đã khái quát nên phép biện chứng, đây là thằng bé trai

đẹp kháu khỉnh mà Engels đã từng ví. Engels ví: “Phép biện chứng của Hegel như thằng

bé trai đẹp kháu khỉnh được sinh ra bởi một người đàn bà nhưng chủ nghĩa duy tâm của

Hegel là nước dơ, nước bẩn trong chậu nước. Khi sinh em bé này, người ta đặt nó trong

chậu nước bẩn thì bình thường phải hắt nước bẩn giữ thằng bé để nuôi thằng bé lớn,

nhưng chỉ có điều đáng tiếc là L.Feurbach khi kế thừa H egel thì kế thừa nguyên si, nhưng

khi loại bỏ thì loại bỏ cả duy tâm và phép biện chứng”. Do đó Engels nói rằng: “Ô ng Lút

vích L.Feurbach khi ông hắt nước bẩn trong chậu nước thì đồng thời hắt luôn cả thằng bé

ngồi trong chậu nước”, nghĩa là Engels ví phép biện chứng của H egel giống như thằng bé

kháu khỉnh được sinh ra bởi người đàn bà, còn chủ nghĩa duy tâm của H egel là nước dơ,

nước bẩn trong chậu nước. Bình thường khi mới sinh em bé, người ta đặt em bé trong

chậu nước bẩn và sau đó người ta hắt nước bẩn đi để nuôi em bé lớn nhưng L.Feurbach

không làm điều đó. Phê phán của Engels đối với L.Feurbach là cực kỳ sâu sắc để thấy

được rằng M arx và Engels đánh giá cực kỳ cao Hegel và không phải ngẫu nhiên M arx và

Engels thừa nhận H egel là người thầy vĩ đại của mình.

K hông có phép biện chứng của H egel thì không có phép biện chứng của M arx và

Engels giữa thế kỷ XIX. Người thầy vĩ đại nhất M arx phải thừa nhận chính là Hegel.

M arx tuyên bố rằng: “Hegel là người thầy vĩ đại của tôi về phép biện chứng”. Cha đẻ của

thuyết tương đối là Enstein, một nhà bác học chính xác đến cau có, nghiệt ngã phải tuyên

bố rằng: “Tiến sĩ M arx là một người thực sự nghiêm túc khoa học, nghiêm túc đến nỗi ông

ta suy tôn H egel - kẻ thù của mình - là người thầy của mình về phép biện chứng. Cả cuộc

đời của M arx có một người duy nhất M arx thừa nhận là thầy, đó chính là Hegel”.

M ặc dù Hegel là một cái đầu bách khoa nhất của thời đại mình song ông vẫn bị hạn

chế.

- M ột là bởi những giới hạn không thể tránh được của sự hiểu biết của bản thân ông.

- Hai là bởi những kiến thức và những quan niệm của thời đại ông cũng có tính chất

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 12 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

hạn chế như thế cả về khối lượng lẫn về chiều sâu.

- Ba là Hegel là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với Hegel, những tư tưởng trong đầu

óc của mình không phải là những phản ánh ít trừu tượng của những sự vật và quá trình

hiện thực, mà ngược lại, đối với ông, những sự vật và phát triển của chúng chỉ là những

phản ánh vốn là hiện thân của một "ý niệm" tồn tại ở một nơi nào đó ngay trước khi có thế

giới. N hư vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của thế giới đều hoàn

toàn bị đảo ngược.

M ặc dầu H egel đã nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số liên hệ cá biệt

giữa các hiện tượng nhưng do những nguyên nhân nói trên, về chi tiết, nhiều cái trong hệ

thống của ông ta nhất định phải có tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị giải thích

sai lệch đi. H ệ thống Hegel, với tư cách là một hệ thống như thế, là một cái thai đẻ non

khổng lồ nhưng đó cũng là cái thai đẻ non cuối cùng trong loại.

Cụ thể là hệ thống ấy chứa đựng một mâu thuẫn bên trong không thể cứu chữa được:

một mặt, tiền đề cơ bản của nó là một quan điểm lịch sử cho rằng lịch sử nhân loại là một

quá trình phát triển mà xét về bản chất thì không thể tìm được đỉnh cao của nó về mặt trí

tuệ trong việc phát hiện ra cái gọi là chân lý tuyệt đối. Nhưng mặt khác, hệ thống Hegel

lại khẳng định rằng nó là hiện thân của chính ngay chân lý tuyệt đối ấy. M ột hệ thống

nhận thức về tự nhiên và lịch sử bao quát tất cả và hoàn tất một lần là xong vĩnh viễn, là

mâu thuẫn với những quy luật cơ bản của hệ tư duy biện chứng; nhưng điều đó hoàn toàn

không loại trừ mà trái lại còn bao hàm việc cho rằng sự hiểu biết có hệ thống về toàn bộ

thế giới bên ngoài có thể đạt được những bước tiến khổng lồ từ thế hệ này qua thế hệ

khác.

Tuy có nhược điểm là mâu thuẫn giữa phép biện chứng có tính cách mạng với hệ

thống duy tâm có tính chất bảo thủ nhưng triết học của Hegel thực sự là một hệ thống đồ

sộ, kỳ vĩ nhất trong lịch sử trước M arx nói chung và trong triết học cổ điển Đức nói riêng.

Như vậy, muốn thấy được giá trị đích thực của phép biện chứng H egel phải luôn luôn lật

ngược vấn đề: biện chứng khách quan sinh ra biện chứng chủ quan nghĩa là phải nghiên

cứu triết học Hegel trên tinh thần duy vật.

3. Q uan điểm xã hội của He gel:

- Q uan điểm nguồn gốc và bản chất Nhà nước: con người bản tính bất bình đẳng vì

vậy mọi sự bất công, mọi tệ nạn xã hội là những hiện tượng tất yếu của sự phát triển xã

hội. Vì nó xuất phát từ bản tính con người do đó trong xã hội thường xuyên xảy ra mâu

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 13 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp khác nhau cũng như mối cá nhân với xã hội. Chính vì

những mâu thuẫn xã hội trên mà N hà nước phải xuất hiện nhằm dung hòa các mâu thuẫn

giữa người giàu với người nghèo, giữa các đẳng cấp xã hội khác nhau nhằm định hướng

phát triển xã hội.

- Q uan điểm về lịch sử: H egel coi lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và

tính chủ quan trong hoạt động của con người, dẫu vậy ông cho rằng lịch sự không bao giờ

diễn ra theo ý muốn chủ quan của họ mà trái lại thế giới hiện thực thế nào thì tất yếu phải

như thế. Lịch sử nhân loại diễn ra thông qua lịch sử của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc riêng

lẻ, sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc không thể vượt ra ngoài khung cảnh lịch sử

toàn thế giới nói chung mà phải tham gia vào lịch sử nhân loại.

- Q uan điểm về vĩ nhân và lãnh tụ: vĩ nhân của mỗi thời đại lịch sử là những người

suy nghĩ và hiểu được những gì là cần thiết những gì là hợp thời.

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 14 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

KẾT LUẬN

Phép biện chứng duy tâm của Hegel là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển

Đức. Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hegel song không thể phủ

nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của ông

chính là phép biện chứng duy tâm. Hegel là người có công phê phán tư duy siêu hình và

ông cũng là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng

một quá trình, nghĩa là trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.

Trong khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của mình, Hegel không chỉ trình bày các

phạm trù như: chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà ông còn là người diễn đạt được các

quy luật theo khuôn khổ của phép biện chứng, nghĩa là ông coi sự liên hệ, vận động phát

triển của thế giới tuân theo các quy luật như “Lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”,

“Phủ định của phủ định” với tư cách là sự phát triển diễn ra theo hình “Xoáy ốc” và quy

luật mâu thuẫn với tư cách là nguồn gốc động lực của sự phát triển. Như vậy, những vấn

đề cốt lỗi nhất đã được Hegel đề cặp một cách bao quát nhất. Nhưng khi trình bày quy luật

của phép biện chứng Hegel lại cho rằng “Tất cả những quy luật đó chỉ là sản phẩm của sự

vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối”. Do đó, phép biện chứng của Hegel là phép biện

chứng duy tâm, hệ thống triết học của ông là hệ thống triết học duy tâm. Nét đặc trưng của

hệ thống đó là không phải ý thức phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự

nhiên và xã hội mà ngược lại, tự nhiên và xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát

triển của ý niệm tuyệt đối. Marx và Engels đã phê phán một cách triệt để tính chất duy tâm

trong phép biện chứng của Hegel. Đồng thời, các ông cũng kế thừa, tiếp thu những mặt tiến

bộ trong phép biện chứng ấy để hình thành phép biện chứng duy vật và các ông coi Hegel là

người có nhiều công lao trong việc phát triển phép biện chứng.

Chính học thuyết của Hegel là thứ triết học đã biến phép biện chứng thành trung tâm,

thành hạt nhân đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học. Phép biện chứng được Hegel lý

giải là phương pháp đúng đắn để nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện

chứng được ông nghiên cứu một cách đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc, là phương pháp

chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Marx. Trong triết học Hegel, phép biện chứng

biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của logic học, của tư duy logic.

Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu

của sự tiến bộ với tư cách là kết quả của sự phát triển hợp quy luật.

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 15 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hòa với trật tự xã hội

Phổ hiện tồn thời đó mà Hegel đã có những kết luận mâu thuẫn và không nhất quán. Trái

với các nguyên tắc xuất phát của mình, Hegel đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của

nhân loại, kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là

sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học. Nhưng ngay cả những điều ấy cũng

không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của các nguyên tắc biện chứng xuất phát của Hegel. Phù

hợp với chúng, Hegel quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do.

Cho dù bản chất của tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành

một trong những tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội.

Gần hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hegel ra đời, song ảnh hưởng

của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên. Bởi lẽ như Engels đã

khẳng định: "Hệ thống Hegel bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào

trước kia và phát triển trong lĩnh vực đó. Một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người

ta vẫn còn ngạc nhiên... Vì Hegel không những chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một

nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại... Nếu đi

sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật quý giá

đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng... Nói chung, với Hegel, triết học đã đi

đến điểm tận cùng. Một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức

hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học. Mặt khác, vì Hegel dù không có ý thức cũng đã

chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học để đi tới

sự nhận thức thực sự tích cực về thế giới". Là những người ủng hộ sự phát triển, sáng tạo

phép biện chứng, chúng ta đánh giá cao công lao vĩ đại của Hegel cho phép biện chứng và

coi việc tiếp tục tổng kết khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học và của thực tiễn

hiện đại để làm giàu thêm phép biện chứng duy vật của Marx là nhiệm vụ quan trọng và

không bao giờ kết thúc.

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 16 SVTH : Trần Đăng Ninh

Phép biện chứng của Hêghen – Một trong những thành tựu vĩ đại của TH cổ điển Đức

TÀI LIỆU THAM KH ẢO

1. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Giáo trình Triết học, Nxb Đại học kinh tế Tp. HCM,

2011.

2. GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình Triết học Mac – Lênin, Nxb giáo dục, 2002.

3. Lưu Phóng Đồng (chủ biên), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 2004.

4. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2002.

5. Paul Redding, Thông diễn học của Hegel, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2006, dịch bởi Lê

Tuấn Huy.

GVHD: TS.Nguyễn Ngọc Thu 17 SVTH : Trần Đăng Ninh