Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế: Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý luận và thực tiễn các phương pháp và công cụ QLNN về kinh tế mà anh/chị quan tâm?
lượt xem 40
download
Nội dung tiểu luận gồm có 2 phần: Phần 1 Phương pháp Quản lý Nhà nước về kinh tế. Phần 2 Công cụ Quản lý Nhà nước về kinh tế. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế: Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý luận và thực tiễn các phương pháp và công cụ QLNN về kinh tế mà anh/chị quan tâm?
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Đề bài: Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý luận và thực tiễn các phương pháp và công cụ QLNN về kinh tế mà anh/chị quan tâm? Bài làm Phần 1: Phương pháp Quản lý Nhà nước về kinh tế Phương pháp quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân (tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và công bằng kinh tế). Nếu nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế là cái phải thi hành và tương đối ổn định thì phương pháp quản lý của nhà nước về kinh tế lại là cái có thể lựa chọn và có tính linh hoạt cao. Qúa trình quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo đúng những nguyên tắc đã định. Nhưng các nguyên tắc đó chỉ được vận dụng và được thể hiện thông qua các phương pháp quản lý nhất định. Vì vậy, vận dụng các phương pháp quản lý là một nội dung cơ bản của quản lý kinh tế. Mục tiêu, nhiệm vụ của quản lý chỉ được thực hiện thông qua tác động quan trọng đến sự thành công hay thất bại các mục tiêu và nhiệm vụ của quản lý kinh tế. Vai trò quan trọng của phương pháp quản lý còn ở chỗ nó nhằm khơi dậy những động lực kích thích tính năng động, sang tạo của con người và tiềm năng của hệ thống cũng như các cơ hội có lợi bên ngoài. Phương pháp quản lý kinh tế của nhà nước là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với các đối tượng quản lý kinh tế, tức là mối quan hệ giữa những con người cụ thể, sinh động với tất cả tính phong phú, phức tạp của đời sống. Vì vậy, các phương pháp quản lý kinh tế mang tính chất đa dạng và phong phú, dó là vấn đề phải đặc biệt lưu ý trong quản lý kinh tế, vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản lý kinh tế. Phương pháp quản lý thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể, tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng cũng như năng lực và kinh nghiệm của Nhà nước và đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước. Tác động của các phương pháp quản lý kinh tế luôn luôn là tác động có mục đích nhằm phối hợp hoạt động, đảm bảo sự thống nhất. Vì vậy, mục tiêu quản lý kinh tế quyết định việc lựa chọn phương pháp quản lý kinh tế. Trong mọi quá Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- trình quản lý kinh tế phải luôn luôn điều chỉnh các phương pháp nhằm đạt được mục đích tốt nhất. Nhà nước có quyền lựa chọn phương pháp quản lý kinh tế nhưng không có nghĩa là chủ quan, tùy tiện muốn sử dụng phương pháp nào cũng được. Mỗi phương pháp quản lý kinh tế khi sử dụng lại tạo ra một cơ chế tác động mang tính khách quan vốn có của nó. Bên cạnh những yếu tố tích cực phù hợp với mục tiêu dự đoán của Nhà nước cũng có thể xuất hiện một số hiện tượng nằm ngoài dự đoán ban đầu, thậm chí trái ngược với mục tiêu đặt ra. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải tỉnh táo, sâu sát thực tế, kịp thời có biện pháp bổ sung để khắc phục các mặt tiêu cực khi chúng xuất hiện. Như vậy, việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ quản lý của Nhà nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung. Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm : 1. Các phương pháp hành chính: Phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp bằng các quyết định dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình huống nhất định. Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong QLKT của Nhà nước là tính bắt buộc, tính quyền lực. Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp nhận nghiêm chỉnh các tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan QLNN chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền của mình. Thực chất của phương pháp hành chính trong QLKT là sử dụng quyền lực nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân và tổ chức trong hoạt động và quản lý kinh tế. Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế rất to lớn. Nó xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống, kết nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống có thể giấu dược ý đồ hoạt dộng và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng. Phương pháp hành chính tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý kinh tế. Theo hướng tác động về mặt tổ chức, Nhà nước xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động trong an toàn và trật tự. Những chủ trương chính sách có tầm vóc lớn và dài hạn của Nhà nước đều phải được thế chế hóa bằng các đạo luật do
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Quốc hội thông qua nhằm bảo đảm được chấp hành nhất quán. Ban hành các văn bản quy định về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định những mối quan hệ hoạt động nội bộ theo hướng tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý, quy định những thủ tục hành chính bắt buộc tất cả các chủ thể cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp đến hộ gia dình đều phải tuân thủ. Những công cụ này nhằm giúp Nhà nước cụ thể hóa khung luật pháp và các kế hoạch hướng dẫn thị trường, tác động trực tiếp vào các chủ thể, như thủ tục xét duyệt cấp giấy phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp, thủ tục dăng ký kinh doanh, đăng ký chất lượng, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Phương pháp hành chính đòi hỏi chủ thể quản lý phảo có quyết định dứt khoát, rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ khả năng có sự giải thích khác nhau đối với nhiệm vụ được giao. Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy phương pháp hành chính sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý rơi vào những tình huống khóa khăn, phức tạp. Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy phương pháp hành chính hết sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý rơi vào những tình huống khó khăn, phức tạp. Đối với những quyết định hành chính thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện, không được lựa chọn, chỉ có cấp thẩm quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi quyết định. Cần phân biệt phương pháp hành chính với kiểu quản lý hành chính quan lieu do việc lạm dụng các kỷ luật hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan, thường những mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan, thường những mệnh lệnh kiểu đó dễ gây ra các tổn thất cho quản lý, hạn chế sức sang tạo của người lao động. Đó là nhược điểm của phương pháp hành chính, cán bộ quản lý và ác cơ quan quản lý nhà nước nếu thiếu tỉnh táo, say sưa với mệnh lệnh hành chính thì dễ sa vào tình trạng lạm dụng quyền hành, là môi trường tốt cho bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh hành chính quan liêu, các tệ nạn tham nhũng, đặc quyền đặc lợi… Sử dụng phương pháp hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn cứ khoa học, được luật chứng đầy đủ về mặt kinh tế. Người ra quyết định phải hiểu rõ tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên, khi đưa ra quyết định hành chính phải cố gắng có đủ thong tin cần thiết cho việc ra quyết Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- định. Chủ thể quản lý chỉ ra quyết định trên cơ sở đủ đảm bảo về thong tin. Tập hợp đủ thong tin, tính toán dầy đủ đến các lợi ích và các khía cạnh có liên quan, bảo dảm cho quyết định hành chính có căn cứ khoa học. Người quản lý giỏi, có nhiều kinh nghiệm không chỉ ra quyết định khi có thong tin mà còn dự đoán được những nét phát triển chính, những mặt tích cực cũng như những khía cạnh tiêu cực có thể diễn ra khi quyết định được thi hành, từ đó sẵn sàng bổ sung các biện pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực nếu có. Hai là, khi sử dụng phương pháp hành chính gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của cấp ra quyết định, mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử dụng các quyền hạn đó. ở cấp càng cao, phạm vi ra quyết định càng rộng, nếu càng sai thì tổn thất càng lớn. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về quyết định của mình. Như vậy, phương pháp hành chính là hoàn toàn cần thiết, không có phương pháp hành chính thì Nhà nước không thể quản lý kinh tế có hiệu quả. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật với các thể chế quản lý kinh tế phù hợp là nội dung cơ bản của quán lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay. 2. Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế nhằm làm cho họ quan tâm tới hiệu quả cuối cùng của sự hoạt động, từ đó mà tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không cần phải có sự tác động thường xuyên của Nhà nước bằng phương pháp hành chính. Mọi hoạt dộng của con người đều tuân theo yêu cầu của các quy luật khách quan. Sự chi phối của các quy luật đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người dều được thực hiện thong qua lợi ích kinh tế. Phương pháp kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của nhà nước lên đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước lên đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế dựa trên cơ sở vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế kỹ thuật. Tác động dựa trên lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lự thúc đẩy con người tích cực hoạt động. Động lực đó càng to lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn các lợi ích tồn tại khách quan trong hệ thống. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế chính là ở chỗ nó tác động vào lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý (là cá nhân hoặc các doanh nghiệp) xuất phát từ đó mà họ lựa chọn phương án hoạt động vừa đảm bảo lợi ích riêng, vừa đảm bảo lợi ích chung. Vì vậy, thực chất của các phương pháp kinh tế là đặt mỗi người lao động, mỗi tập thể lao động dựa vào những điều kiện kinh tế dể họ có khả năng kết hợp
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế với lợi ích của hệ thống chung. Điều đó cho phép người lao động lựa chọn con người có hiệu quả nhất dể thực hiện nhiệm vụ của mình. Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu nhiệm vụ phải đặt ra, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Chính các tập thể lao động (với tư cách là dối tượng quản lý) vì lợi ích thiết thân, phải tự xác định và lựa chọn phương án giải quyết vấn đề. Phương pháp kinh tế cho phép có thể sử dụng những giải pháp kinh tế khác nhau cho cùng một vấn đề. Đồng thời, khi sử dụng các phương pháp kinh tế, Nhà nước phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện lợi ích cá nhân và của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của nhà nước. Phương pháp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết than của đối tượng quản lý, chứa đựng nhiều yếu tố kích thích kinh tế cho nên tác động rất nhạy bén linh hoạt, phát huy được tính chủ động sang tạo của người lao động và các tập thể lao động. Với một biện pháp kinh tế đúng đắn, các lợi ích được thực hiện thỏa đáng thì tập thể con người trong hệ thống quan tâm hoàn thành nhiệm vụ, người lao động hăng hái sản xuất và nhiệm vụ chung được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Phương pháp kinh tế là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực tế quản lý chỉ rõ khoán là một biện pháp tốt để giảm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Phương pháp kinh tế mở rộng quyền hành động cho các cá nhân và các doanh nghiệp, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Điều đó giúp Nhà nươc giảm được nhiều việc điều hành, kiểm tra, dôn đốc những nhiệm vụ vụn vặt mang tính chất sự vụ hành chính, nâng cao ý thức kỷ luật tự giác của con người và của mọi doanh nghiệp. Việc sử dụng phương pháp kinh tế luôn luôn dược Nhà nước định hướng nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế của từng thời kỳ của đất nước. Nhưng đây không phải là những nhiệm vụ gò ép mệnh lệnh chủ quan mà là những mục tiệu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học và cơ sở chủ động. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp kinh tế theo những hướng sau: Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từn phân hệ, từn cá nhân của hệ thống. Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng…), các biện pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và các doanh nghiệp phát triển sản xuất theo hướng vừa lợi nhà, vừa ích nước. Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Ngày nay, xu hướng chung của các nước là mở rộng việc áp dụng phương pháp kinh tế. Để làm việc đó cần chú ý một số vấn đề quan trọng sau đây: Phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hang hóa tiền tệ, quan hệ thị trường. Để áp dụng phương pháp kinh tế phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các cấp dưới. Sử dung phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải có trình độ và năng lực về nhiều mặt bời vì sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu biết về thong thạo nhiều kiến thức và kinh nghiệm quản lý, đồng thời phải có tác phong quản lý dân chủ. Phương pháp kinh tế có độ bão hòa nhanh, do đó phải thường xuyên hoàn thiện nhất là hệ thống định mức, tiêu chuẩn… 3. Phương pháp tâm lý giáo dục: Phương pháp tâm lý giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Phương pháp tâm lý giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối tượng của quản lý là con người một thực thể năng động và là tổng hòa của nhiều mối quan hệ xã hội. Do đó, để tác động lên con người không chỉ dùng các phương pháp hành chính, kinh tế, mà còn có tác động tinh thần, tâm lý xã hội… Phương pháp tâm lý giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân biệt phải – trái, đúng – sai, lợi – hại, đẹp – xấu, thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với doanh nghiệp. Phương pháp tâm lý giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sát đến từng người lao động, có tác động giáo dục rộng rãi trong xã hội. Đây là một trong những bí quyết thành công của nhiều công ty ở Nhật Bản, ở các nước Đông Nam Á và Bắc Âu. Khuyến khích về tinh thần phải đi liền với khuyến khích về vật chất. Nội dung giáo dục:
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để mọi người dân đều hiểu, đều ủng hộ và đều quyết tâm xây dựng đất nước, có ý chí làm giàu Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức Xóa bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân thu vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đinh đầu óc thiển cận, hẹp hỏi, tư tưởng địa phương, cục bộ, phường hội, bình quân chủ nghĩa, không chịu để ai hơn mình, ghen ghét dố kỵ nhau, tác phong làm việc luộm thuộm, tùy tiện, cửa quyền, không biết tiết kiemj thời giờ, thích hội họp Xóa bỏ tàn dư tưởng phong kiến, thói đạo đức già, nói một đằng làm một nẻo, thích đặc quyền, đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi thường phụ nữ Xóa bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng vô đạo đức, cái gì cũng chỉ cốt có lợi, bất kể đạo đức, tình người, chủ nghĩa tự do vô Chính Phủ “ cá lớn nuốt cá bé” Xây dựng tác phong hiện đại công nghiệp, tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ chức, tính kỷ luật, đảm nhận trách nhiệm khẩn trương, tiết kiệm. Các hình thức giáo dục: Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (sách bảo, đài phát thanh, truyền hình…) sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có tính xã hội. Tiến hành giáo dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội chợ triển lãm… sử dụng các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả. Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- Phần 2: Công cụ Quản lý Nhà nước về kinh tế 1. Khái niệm công cụ quản lý nhà nước về kinh tế: Thực chất của Quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu quản lý và căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo mục tiêu đã định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu không có công cụ quản lý tương ứng thì cũng không thể thực hiện, vẫn chỉ là mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải là mục tiêu quản lý trong thực hiện. Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra. Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Nói một cách khác, có thể hiểu hệ thống công cụ quản lý nhà nước về kinh tế là toàn bộ những phương tiện cần thiết mà nhờ đó các cơ quan và các cán bộ quản lý kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu chung. Chính nhờ có công cụ qunar lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động của quản lý Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài.
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Trong hệ thống công cụ đó, việc sử dụng chúng như thế nào lại tùy thuộc vào trình độ phát triển của bản than nền kinh tế, hoàn cảnh trong nước hay quốc gia, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và năng lực đội ngũ cán bộ,..v.v.v. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch trước đây, chúng ta cũng có hệ thống công cụ quản lý nhưng được tạo ra để điều hành nền kinh tế tập trung. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hệ thống công cụ quản lý mà nhà nước sử dụng cần phải đổi mới, gạt bỏ những yếu tố lạc hậu cho phù hợp với điều kiện mới. Đặc điểm chung của các phương tiện sử dụng để quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là mang tính chất can thiệp trực tiếp áp đặt ý đồ của ng quản lý lên đối tượng quản lý. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng phát triển XHCN, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ có thể can thiệp vào quá trình phát triển của nền kinh tế một cách gián tiếp thông qua cơ chế hoạt động của thị trường. Như vậy, các chiến lược các kế hoạch dài hạn, các dự án phát triển… được vạch ra chỉ mang tính chất định hướng. Trên cơ sở đó, Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật kinh tế và các hệ thống chính sách khuyến khích tác động vào quan hệ lợi ích của chủ thể kinh tế, khuyến khích họ vì theo đuổi lợi ích riêng mà hoạt động cho sự nghiệp chung. 2.Các công cụ quản lý nhà nước về kinh tế: 2.1. Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đất nước, được xem là công cụ hàng đầu xủa Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế. Về đường lối phát triển đất nước Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- Đường lối phát triển đất nước là định hướng lâu dài cần đạt được do chính Đảng cầm quyền một quốc gia đặt ra nhằm hướng toàn bộ các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của công dân, các quan kệ đối ngoại bên ngoài để từng bước đạt mục đích đó. Nó mang tính định tính, phản ánh bản chất của hệ thống chính trị xã hội. Ở Việt Nam, đường lối phát triển kinh tế đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và thực hiện. Đó là việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. + Đường lối phát triển kinh tế phải giải đáp các nội dung cơ bản sau: Đường lối đó phải dựa trên học thuyết chính trị nào? Giai cấp nào lãnh đạo và quản lý xã hội? Chế độ sở hữu trong xã hội ra sao? Động lực phát triển kinh tế Cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế Thái độ với con người, khoa học công nghệ, các truyền thống của dân tộc, quan hệ đối ngoại … Đường lối phát triển có ý nghĩa rất quan trọng bởi đường lối đúng đem lại sự phát triển ổn định và thịnh vượng cho quốc gia, đường lối sai sẽ dẫn đến đổ vỡ thất bại. + Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn một cách có căn cứu khoa học trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực và các lợi thế phát triển của đất nước, các mối quan hệ phức tạp trong khu vực và trên thế giới nhằm đạt được một bước phát triển kinh tế của quốc gia trong một thời gian đủ dài (thường là 10 : 20 năm)
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Thực chất chiến lược phát triển kinh tế xã hội là sự cụ thể hóa đường lối phát triển đất nước trong mỗi chặng đường và do Đảng cầm quyền xây dựng. Chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng bởi là nó biến đường lối thực hiện thực từng bước. Nó có độ dài đủ lớn để chuyến biến đất nước qua một ngưỡng nhất định, tạo ra tiền đề thực tế để hình dung rõ thêm đường lối. 2.2. Hệ thống pháp luật: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý của mình đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật. Pháp luật thường được hiểu là hệ thống cá quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định. Đây là loại công cụ tác động mang tính chất bắt buộc. Pháp luật xác định hành lang vận động cho đối tượng quản lý, dựa trên cơ sở chức năng quản lý và uy quyền của Nhà nước. + Vai trò của pháp luật kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế Pháp luật kinh tế bao gồm tổng thể những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến sự tồn tại, vận hành của nền kinh tế. Trong những văn bản pháp luật đó quy định cụ thể các quy tắc xử sự bắt buộc do Nhà nước đặt ra hay thừa nhận mà mỗi cá nhân hay tổ chức kinh tế buộc phải tuân theo để hành vi ứng xử của họ phù hợp với những quan hệ kinh tế khách quan và lợi ích chung của xã hội. Đối tượng Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- điều chỉnh của pháp luật kinh tế là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng và trong quá trình vận hành quản lý kinh tế. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia những quan hệ đó được Nhà nước quy định và được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật và việc xác định quyền và nghĩa vụ cũng như việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ ấy của các bên tham gia vào các hoạt động kinh tế. Bằng cách đo, pháp luật tác động chi phối hành vi kinh tế của đối tượng quản lý cũng như của chủ thể quản lý. Do vậy, pháp luật tồn tại với tính cách là một công cụ quản lý đối với kinh tế và vai trò quan trọng thể hiện trên các khía cạnh sau: Xác lập cơ sở pháp lý, bảo vệ và hỗ trợ cho việc hình thành, phát triển đồng bộ cơ chế thị trường. Dựa trên nhận thực đúng đắn, khách quan và khoa học các quy luật vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Nhà nước ban hành các văn bản pháp quy nhằm tổ chức có tính chất nhà nước các quan hệ kinh tế khách quan phù hợp với cơ chế mới. Mặt khác, sự hỗ trợ và bảo vệ của pháp luật mà ý thực tôn trọng, tuân thủ các quan hệ kinh tế khách quan của các bên tham gia sẽ điều chỉnh hành vi kinh tế của họ, tạo điều kiện để phát triển các mối quan hệ đã được pháp luật xác định, Như vậy, pháp luật giữ vai trò là yếu tố tạo dựng, hỗ trợ và bảo vệ cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế theo mục tiêu định hướng của Nhà nước. Xác lập trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh tế. Bằng việc tổ chức có tính chất nhà nước của các quan hệ kinh tế khách quan dưới hình thức quyền và nghĩa vụ cơ bản, về thực chất pháp luật đã xác định trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho mọi hoạt động kinh tế. Bởi vì những quyền và nghĩa vụ thể hiện ở sự phân cấp và thẩm quyền, điều kiện thực hiện, phạm vi và trình tự thực hiện, những điều được làm và không được làm… mà pháp luật xác định luôn hàm chứa những yếu tố của một trật tự. Bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế. Việc bảo vệ lợi ích nói trên của các chủ thể kinh tế chỉ có thể thực hiện bằng
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế cách ghi nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên, ghi nhận hình thức và các thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh vào pháp luật. Nhờ vậy lợi ích của các chủ thể kinh tế được tôn trọng và được giải quyết thỏa đáng. Nếu thiếu pháp luật thì việc giải quyết, xử lý các quan hệ lợi ích sẽ thiếu trật tự, gây lộn xộn không cần thiết có thể ảnh hưởng tiêu cực tới các hoạt động kinh tế. + Đặc điểm của pháp luật kinh tế trong quản lý nhà nước đồi với kinh tế Công cụ pháp luật kinh tế có sức mạnh uy quyền. Sức mạnh quyền uy của công cụ pháp luật kinh tế là sự kế hợp giữa sức mạnh quyền uy khách quan và quyền uy nhà nước. Nội dung của pháp luật kinh tế chính là những mối quan hệ, những lợi ích kinh tế khách quan được xã hội thừa nhận và bảo vệ dưới dạng ý chí của Nhà nước. Sự thừa nhận và bảo vệ được cụ thể hóa thành những chuẩn mực về quyền lợi và nghĩa vụ để điều chỉnh hành vi của cá nhân và tập thể phù hợp với những yếu cầu khách quan. Do vậy, sức mạnh quyền uy của pháp luật kinh tế nằm ngay trong nội dung của pháp luật và phụ thuộc vào tính chính xác của nội dung đò. Việc tuân thủ pháp luật, hành động theo yêu cầu của pháp luật là yêu cầu đương nhiên của bản than pháp luật chứ không phải vì sự cưỡng chế của Nhà nước. Sự cưỡng chế của Nhà nước mang tính quyền uy chỉ xuất phát từ yêu cầu bảo vệ pháp luật dưới dạng răn đe, do vậy có tác dụng nâng cao hiệu lực của công cụ pháp luật kinh tế. Quản lý bằng pháp luật đảm bảo tính phổ biến và công bằng. Pháp luật kinh tế điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế nhưng không phải tất cả mà chỉ những quan hệ kinh tế cơ bản nhất, quan trọng nhất và khái quát nhất. Hơn nữa, pháp luật kinh tế cũng chỉ lien quan đến tất cả các đối tượng riêng lẻ. Trước pháp luật, mọi chủ thể và mọi người đều bình đẳng và có cơ hội ngang nhau để phát triển kinh tế. Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- Quản lý bằng pháp luật kinh tế là sự tác động điều chỉnh mang tính chất gián tiếp. Tính chất gián tiếp nói trên thể hiện ở chỗ luật chỉ đưa ra các điều kiện giả định để quy định quyền và nghĩa vụ cho các hoạt động kinh tế; đưa ra các quy phạm được phép hay không được phép trong các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực kinh tế, còn các chủ thể kinh tế lựa chọn, tự quyết định hành động trong khuông khổ của những điều kiện và phạm vi đã xác định của luật. Công cụ pháp luật về quản lý nhà nước chủ yếu là quản lý hành chính kinh tế. Do vậy pháp luật là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước điều hành nền kinh tế. 2.3. Kế hoạch hóa: Kế hoạch hóa là công cụ mà Nhà nước sử dụng nhằm định hướng cho sự phát triển của các lĩnh vực, các vùng, các phân ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế phát triển phải được hướng theo những mục tiêu đã được lựa chọn, hướng theo các chương trình có mục tiêu nhất định. Kinh tế trong ngắn hạn, đầu vào khó biến đổi lớn thì hiệu quả đầu ra có giới hạn. Nền kinh tế trong dài hạn có sự biến đổi lớn ở đầu vào, đó là sự thay đổi lớn vè các yếu tố lao động, tay nghề, trình độ học vấn, trình độ khoa học công nghệ… và kéo theo đó là trình độ quản lý cũng không ngừng được hiện đại hóa và nâng cao. Kế hoạch hóa sự phát triển kinh tế bao gồm: Kế hoạch ngắn hạn, kế hoạch dài hạn, kế hoạch từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phuwowng lãnh thổ, kế hoạch các yếu tố đầu vào, đầu ra… Kế hoạch mang định hướng gián tiếp là chủ yếu. Song kế hoạch phản ánh những quy luật, những tất yếu khách quan. Nó được thông qua bộ óc tinh vi thông minh và nhạy cảm của Nhà nước đề chính kế hoạch phát hiện được các tồn tại… Cũng chính kế hoạch mà phát hiện các tiềm năng mới, nội lực mới, thủ đoạn, kỹ năng mới để giải quyết những vấn đề thực tiễn bị che lấp trong kinh tế mà chưa được phát hiện để đẩy nhanh sự phát triển.
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Kế hoạch là hành động một cách tự giác, không tự phát, Hành động của nó được tổ chức, phối hợp, có mục tiêu sát thực…. chống những kế hoạch chủ quan, duy ý chí, phô trương, kém hiệu quả, không hợp lòng dân. Vai trò của công cụ kế hoạch trong quản lý nàh nước đôi với kinh tế thể hiện ở các mặt sau: Kế hoạch cho phép chủ thể quản lý cũng như mọi bộ phận trong hệ thống quản lý nhận thức thống nhất về đường đi, cách đi thích hợp nhanh chóng đạt tới mục tiêu. Trên cơ sở thống nhất nhận thức mà hoạt động của mọi cấp, mọi bộ phận, mọi tổ chức tự giác, chủ động và thống nhất trong hành động thực tiễn. Kế hoạch còn giúp cho các nhà quản lý chủ động thích ứng với những thay đổi trong quá trình phát triển của thực tiễn do có những dự đoán trước; chủ động tạo ra những biến đổi có lợi ích cho quá trình phát triển; hướng các nhà quản lý tập trung vào những nhiệm vụ trọng yếu…. Kế hoạch còn là một căn cứ để tổ chức bộ máy quản lý, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của các hoạt động quản lý ở các cấp, địa phường và toàn ngành. Những yêu cầu cơ bản đổi với công cụ kế hoạch phát triển kinh tế, trong cơ chế thị trường: Các kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học. Hiệu quả tâm lý của công cụ kế hoạch phụ thuộc rất lớn tính sát thực, tính hợp lý và khoa học của nó. Do vậy, khi xây dựng kế hoạch phải chú trọng việc nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý về kế hoạch vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế, phân tích rõ thực trạng cũng như tiềm năng về tài nguyên đất đai cũng như lao động, tiền vồn…Nghĩa là phải gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch. Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
- Gắn kế hoạch với thị trường. Yêu cầu này đòi hỏi phải được đáp ứng cả trong xây dựng và thực hiện kế hoạch. Trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch hướng dẫn và gián tiếp là chủ yếu. Tăng cường chất lượng các hoạt động tiền kế hoạch. Để đảm bảo tính sát thực của kế hoạch, chủ thể quản lý phải coi trọng và tăng cường chất lượng các hoạt động tiền kế hoạch cũng như điều tra khảo sát, nghiên cứu… Ngoài ra, trong quá trình xây dựng kế hoạch còn phân định rõ chức năng kế hoạch của Nhà nước các cấp và kế hoạch sản xuất kinh doah của các doanh nghiệp kinh tế. 2.4. Chính sách kinh tế: Chính sách kinh tế có vai trò quan trọng, giúp Nhà nước điều khiển hoạt động của các chủ thể kinh tế. Nhờ các chính sách kinh tế dẫn dắt hoạt động mà các chủ thể kinh tế đã hành động phù hợp với lợi ích chung của xã hội, các nguồn lực tài nguyên được huy động một cách có hiệu quả để đạt đến mục tiêu và các kế hoạch định hướng. Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, người ta phân loại các chính sách kinh tế như sau: Chính sách tài khóa Chính sách tiền tệ Chính sách xóa đói giảm nghèo, cộng bằng xã hội Chính sách kinh tế đối ngoại Chính sách tạo việc làm Chính sách phân phối thu nhập Chính sách tích lũy, tích tụ và tiết kiệm Chính sách khuyến khích đầu tư
- Trường Đại học Mỏ Địa chất Tiểu luận Quản lý Nhà nước về kinh tế Nền kinh tế thị trường tư bản phát triển theo chu kì kinh doanh, theo khủng hoảng chu kỳ. Các nhà nước tư bản đã sử dụng nhiều chính sách kinh tế phối hợp như chính sách chống chu kỳ bằng sự phối hợp giữa các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để chống lại chu lỳ kinh doanh. Nhà nước tư sản có thể dung chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lại khủng hoảng. Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, bằng các công cụ và chính sách đúng đắn về tài khóa, tiền tệ, giá cả và đầu tư, Nhà nước ta đã từng bước kiềm chế được lạm phát, ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Học viên: Phạm Vũ Linh L ớp: Quản lý kinh tế K30B
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Giải pháp giải quyết khiếu nại về tai nạn lao động
21 p | 6434 | 1574
-
Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước: Không đăng ký khai sinh hậu quả và trách nhiệm thuộc về ai
32 p | 8648 | 1126
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Tranh chấp bất động sản thừa kế là quyền sử dụng đất đối với trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
22 p | 2625 | 619
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Tăng cường công tác phổ biến pháp luật, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh, sinh viên, trong các trường Đại học, Cao đẳng, TCCN
21 p | 1992 | 486
-
Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước: Xử lý tình trạng sinh viên rút hồ sơ thôi học chuyển trường khác
25 p | 1910 | 437
-
Tiểu luận quản lý nhà nước về kinh tế
17 p | 2175 | 252
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Xử lý vi phạm về lấn chiếm hành lang an toàn, lập bến bãi kinh doanh vật liệu xây dựng và vận chuyển vật liệu trên đê bao
23 p | 1009 | 242
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Xử lý vi phạm pháp luật về vi phạm hành lang bảo vệ nguồn nước đối với hồ chứa thủy lợi trên địa bàn tỉnh Bình Dương
24 p | 814 | 169
-
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
29 p | 724 | 158
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão huyện A tham mưu chi quỹ phòng, chống lụt, bão của địa phương sai mục đích theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành
15 p | 619 | 142
-
Tiêu luận Quản lý Nhà nước Chuyên viên 6
19 p | 295 | 85
-
Tiểu luận: Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
11 p | 549 | 81
-
Tiểu luận Quản lý nhà nước về lao động: Quản lý nhà nước về lao động và việc làm ở tỉnh Quảng Trị
18 p | 400 | 46
-
Tiểu luận Quản lý nhà nước: Xử lý hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch đối với bà Trịnh Thị Cửu, tại địa chỉ khách sạn Khánh Trang - số 556 đường ¼, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng
19 p | 84 | 28
-
Tiểu luận Quản lý nhà nước của các cơ quan quyền lực nhà nước: Tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay
28 p | 34 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhà nước về giáo dục tiểu học trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
109 p | 31 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về giáo dục tiểu học trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
25 p | 13 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn