
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Ta đã biết đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền
sản xuất chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã
để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, lực lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay khi
độc lập dân tộc gắn kiền với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai
cấp công nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh
XHCN ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và
triệt để.Đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc
đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra
của cải đời sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó,
trong quá trình đi lên CNXH chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện
đại hoá đất nước. Theo quan điểm của ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VII đã khẳng định“Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện
đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo
ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá với
hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then chốt
đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước
chưa được mở rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa
phát triển mạnh mẽ phải”tự lực cánh sinh” thì đó chính là một trình tự hợp lí
để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiên nay cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới khoảng
thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút

2
ngắn lại, xu hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành
đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đối với các
nước phát triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển giao một cách có hiệu quả
cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị kĩ càng để đón
nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau trong đó có nước ta cần phải làm
ngững gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà các nước
đi trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của
các nước NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng
mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành tựu
của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết
định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.

3
B. NỘI DUNG CHÍNH
I.CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CÁCH MẠNG KH- CN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển,
tức là ở những nước đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập được
nền sản xuất cơ khí hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không
chỉ hạn chế trong ranh giới của các nước phát triển mà ảnh hưởng của nó đang
lan ra tất cả các nước trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH- CN là một
hiện tượng toàn cầu, hiện tượng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả
dân tộc và các quốc gia trên trái đất
Là một hiện tượng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản
thân nó những qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại
hình cách mạng KH- KT. Nhưng mặt khác, mỗi nước tiến hành cuộc cách
mạng này trong những điều kiện riêng của đất nước mình cho nên cách mạng
KH- KT ở những nước khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc
điểm khác nhau. Do đó, khi xem xét cuộc cách mạng KH- KT ở nước ta cần
phải đặt nó trong bối cảnh chung của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành
cuộc cách mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đưa
đất nước ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn
toàn chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta gặp
phải những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân

4
Trước hết, nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học
và công nghệ. Nông nghiệp và công nghiệp chưa hết hợp thành một cơ cấu
thống nhất, sự mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm
trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân cư nước ta
vẫn ở tình trạng mù chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn
cao, thiếu cán bộ văn hoá và kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh
đã gây ra những khó khăn cho việc bảo đảm lương thực, giải quyết công ăn
việc làm cho những người lao động
Ngoài những khó khăn trong nước, nước ta còn phải chịu những di
sản nặng nề do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để
kại, đồng thời các cường đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự
phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ
trong sự phân công lao động quốc tế
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta
là phải tiến hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ
nghĩa thực dân mới và các thế lực phản động để đi lên CNXH.
Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ
nước ta bước đầu có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền
khoa học và kỹ thuật nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát
triển chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nước tiên tiến nhất trên
thế giới, chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức
trung bình ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ ở nước ta không chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi
hỏi bức xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

5
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ
bản nước ta trở thành nước công nghiệp. Khác với các nước đi đàu, công
nghiệp hoá nước ta đòi hỏi phải thực hiện rút ngắn. chỉ có như thế, chúng ta
mới có thể sớm rút ngắn được khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước phát
triển. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá
Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi
hỏi chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh
tế thị trường hiện đại từ điểm xuất phát thấp, nước ta không thể đi theo các
bước tuần tự như các nước đi trước đã làm, mà phải phát triển theo kiểu “nhảy
vọt”,”rút ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nước phát triển sau,
vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị
trường theo cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học-
công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ
bắt nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu
cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hướng tổ chức
nền kinh tế- xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên nguyên tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định
hướng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao mà còn đòi
hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.Ở đó, phát
triển con người và phát triển xã hội bền vững được coi là trung tâm. Đây là
con đường phát triển chưacó tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có nỗ lực
và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của nhân
loại, tránh những sai lầm mà các nước khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình
độ trí tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành công. Do vậy, đẩy
mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất quan trọng và bức thiết.

