
  1
Tiểu luận 
Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ. 

  2
LỜI MỞ ĐẦU 
Sau khi một cuộc chiến đã đi qua, mỗi bên sẽ đều có những bước đi nhằm tiếp 
tục một cuộc chiến mới với các sách lược thu hút tìm kiếm thêm đồng minh hoặc 
dần dần thiết lập lại nền hòa bình giữa các bên tham chiến cũng như những nước 
có liên quan khác.  
Suy cho cùng, những động thái khác nhau của một quốc gia cũng đều xuất phát 
từ những người lãnh đạo và đề ra chính sách của nước đó. Trong đối nhân, mỗi cá 
thể hành xử mỗi khác, hiếu chiến –  ôn hòa,  nóng  vội –  cẩn trọng, lãnh đạm và 
nhiệt tâm... Chính những con người ấy với những cách hành xử khác nhau đã viết 
nên những trang lịch sử của cả một dân tộc mà khi nhìn lại ta thấy có những thách 
thức đã vượt qua, nhưng không ít cơ hội đã bị bỏ lỡ... mà nếu không, lịch sử của 
cả một dận tộc có thể đã rẽ sang một trang khác. 
Hơn 20  năm  sau  khi  cuộc  chiến  tranh  của  Mỹ  ở  Việt  Nam  đã  qua  đi,  ngày 
11/7/1995, quan hệ Việt – Mỹ mới chính thức thiết lập mặc dù những nỗ lực bình 
thường hóa đã được bắt đầu ngay sau chiến tranh. Vậy liệu trong 20 năm ấy, liệu 
có cơ hội nào đã bị bỏ lỡ hay không? Bài tiểu luận sau đây cố gắng tìm kiếm câu 
trả lời cũng như những nguyên nhân đã cản trở tiến trình bình thường hóa quan hệ 
Việt – Mỹ. 

  3
1. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp 
Điểm qua giai đoạn ngay sau cuộc kháng chiến chống pháp, ta thấy Việt Nam 
đã từng nhìn thấy lợi ích to lớn trong việc thiết lập quan hệ với Hoa Kì những năm 
45 – 48. Nhưng khi đó, chính sách của Mỹ lại đang là một chính sách “tránh khỏi 
Đông  Dương”  ngoại  trừ  các  hoạt động  tình  báo  chống  đối  lại đối  tượng  người 
Nhật 1, nên TT Truman đã làm ngơ bức thư của Bảo Đại yêu cầu Mỹ giúp đỡ VN 
bảo vệ nền độc lập giành được từ nay Nhật cũng như những kêu gọi của Hồ Chí 
Minh hồi tháng 8 và 9/1945 yêu cầu Hoa Kì “một quán quân về dân chủ” hãy can 
thiệp để Việt Nam trở thành một nước được Mỹ bảo hộ trong một thời gian trước 
khi độc lập như trường hợp Phi luật Tân.2 Phải chăng “tính lầm và hờ hững” trong 
quan hệ Mỹ - Việt đã trở nên một xu hướng cho cả những giai đoạn hậu chiến về 
sau, mà điển hình là trong thời gian 1977 – 1978 sau cuộc kháng chiến chống Mỹ. 
2. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ 
a. Giai đoạn 1975 – 1976. 
Ngay sau khi kết thúc chiến tranh được một tháng, qua Liên Xô, Việt Nam đã 
gửi thông điệp miệng đến Mỹ về một cuộc thương lượng nhằm cải thiện quan hệ 
cũng như giải quyết các vấn đề sau chiến tranh với Mỹ và cũng được Mỹ đáp lại 
1 http://www.hobuivietnam.com/index.php?nv=News&at=article&sid=317, truy cập ngày 
7/4/2009 
2Neil Sheehan, A Bright Shinning Lie, Picador, London, 1990, P.14. 
http://www.vnmoi.net/vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=105&Itemid=66&po
p=1&page=, truy cập ngày 7/4/2009 

  4
trong thông điệp gửi sứ quán Việt Nam tại Paris: ““Về nguyên tắc, Mỹ không thù 
hận gì VNDCCH. Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành  bất cứ quan hệ nào giữa hai 
bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra”.3 
Nhưng đó chỉ là “trên nguyên tắc” Cộng thêm việc dường như Việt Nam đã đồng 
hóa phong trào chống chiến tranh ở Mỹ với những thành phần ủng hộ chính quyền 
cộng sản Việt Nam và đặt nhầm niềm tin vào một văn thư của Nixon, một vị tổng 
thống đã rời Nhà Trắng trong tai tiếng, gửi cho Phạm Văn Ðồng ngày 1 tháng 2 
năm 1973 nói đến "nguyên tắc" Mỹ sẽ đóng góp vào việc tái thiết Bắc Việt sau khi 
hòa bình được lặp lại, và ước tính số tiến cần để tái thiết Việt Nam là 3.25 tỷ USD 
mà không kèm theo bất cứ điều kiện chính trị nào, cộng với các hình thức viện trợ 
khác sẽ được thoả thuận sau giữa hai bên. Vì thế, ngày 11 tháng 7 năm 1975, ta 
gửi thông điệp cho Mỹ nhắc lại việc Chính phủ Hoa kỳ phải  làm nghĩa vụ đóng 
góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng lại sau chiến 
tranh  ở cả hai miền Việt Nam.  Vài tháng  trước đó, ở Paris, các quan  chức Việt 
Nam  tiếp  xúc  với các  công ty dầu  Mỹ về  việc nối lại sự  khoan dầu ngoài  biển 
Đông, một việc làm có thể vượt qua cuộc phong toả về buôn bán và kinh doanh 
sau  khi  chính  quyền  Sài  Gòn  sụp  đổ.  Mục đích  của  Việt  Nam  rõ  ràng  là  dùng 
những tập đoàn kinh doanh hùng mạnh với hy vọng giành một sức đòn bẩy nào đó 
trong các giới chính trị Mỹ. 
Nhưng trên thực tế, năm 1976 là năm  bầu cử tổng thống ở Mỹ. Trong Đảng 
Cộng hoà, cánh hữu tỏ ra rất mạnh và Gerald Ford, tổng thống đương kim,  làm 
hết  sức mình  để giữ  địa vị  trước  thách  thức  của  Ronald Reagan  bằng  việc  đẩy 
mạnh thái độ chống cộng của ông ta. Tháng 3 năm 1976, ông ta nói xấu các nhà 
lãnh đạo Hà Nội là một “bọn kẻ cướp quốc tế" trước những đám đông cộng hoà 
hăng hái. Điều đó không phải là một không khí hứa hẹn cho việc bình thường hóa 
quan hệ giữa Việt Nam và Hoa  Kỳ.  Cuối tháng 4, sau khi bị Reagan khích bác, 
3 http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1/, truy cập ngày 
8/4/2009 

  5
Ford tuyên bố: "Tôi không hề nói chúng ta sẽ tìm kiếm việc bình thường hoá quan 
hệ hoặc thừa nhận Bắc Việt Nam".4 
Và Ford không những bác kiến nghị của Quốc hội Mỹ yêu cầu tạm ngưng trong 
6  tháng  lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam, mà  còn lên án  chính quyền miền 
Bắc Việt Nam vi phạm hiệp định Paris cho nên không có quyền đòi Mỹ thi hành 
lời hứa viện trợ một khi hòa bình được tái lập. Mỹ đòi ngược lại, là Việt Nam phải 
cung cấp trọn vẹn tin tức (full accounting) về số phận những người Mỹ bị mất tích 
trong chiến tranh và phải chứng tỏ không có tham vọng bành trướng ở Ðông Nam 
Á. Thêm vào đó, chính quyền Mỹ còn phong tỏa các tích sản của chính phủ Việt 
Nam Cộng Hòa cũ không trả lại cho chính phủ mới, và nới rộng chính sách phong 
tỏa kinh tế đối với miền Bắc Việt Nam để áp dụng trên toàn lãnh thổ. Từ 1975 đến 
1976, Mỹ đã ba lần phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của Việt Nam. 
Trong năm bầu cử, vấn đề người mất tích là một vấn đề có trọng lượng trong 
tay phái hữu ở quốc hội, nhất là trong một năm bầu cử, và nhiều nghị sĩ dường như 
tin rằng Việt Nam còn giữ một số những người mất tích đó. . Nhưng lời rêu rao đó 
đã bị bác bỏ trong một phiên họp báo cáo tháng 12 năm 1976 của Uỷ ban đặc biệt 
Hạ nghị viện Mỹ nói rằng không có bằng chứng còn bất kỳ người Mỹ mất tích nào 
còn sống hoặc bị cầm tù. Sau khi điều tranh chấp đó đã được làm rõ, không còn 
trở ngại nào lớn nữa ngăn cản việc bình thướng hoá các quan hệ của Mỹ với Việt 
Nam. Nhưng ý nghĩa thực sự của vấn đề người mất tích sớm được trở nên rõ ràng. 
Cánh hữu định dùng nó làm phương tiện trì hoãn việc bình thường hoá với Việt 
Nam một cách vô thời hạn. 
Mỹ đã dùng vấn đề người mất tích để phủ quyết việc Việt Nam trở thành thành 
viên Liên hợp quốc tháng 11 năm 1976, lấy lý do là Hà Nội có thái độ cho là “tàn 
bạo và vô nhân đạo” đối với vấn đề người mất tích. Cũng tương tự như vậy, Mỹ là 
thành viên duy nhất bỏ phiếu chống lại việc Việt Nam tiếp quản ghế thừa kế của 
4 http://www.quansuvn.net/index.php?topic=98.10, truy cập ngày 25/3/2009 


























