intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Chia sẻ: Nguyễn Ngọc Hiếu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:43

1.457
lượt xem
138
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài tiểu luận trình bày tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

  1. TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH 1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã trình bày một cách tổng quát. Chủ  nghĩa xã hội là gì?  Người trả lời: chủ nghĩa xã hội là xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng và  tinh thần ngày càng tốt. Nói một cách cụ thể là: chủ nghĩa xã hội là phải làm cho mọi  người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ.             Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác ­ Lênin về sự phát  triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế ­ xã hội. Quan điểm của  Hồ Chí Minh là: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau  khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã  lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc  sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây  dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX,  khi đã tin theo lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, Hồ  Chí Minh đã khẳng định rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại  cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,  đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho con người và vì con người, niềm vui, hòa  bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên  giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những con  người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”. 2. Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội  ­ Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác ­ Lênin,  trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. ­ Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở phương diện đạo đức, hướng tới giá trị  nhân đạo, nhân văn, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm  của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
  2. ­ Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong xã hội Việt Nam  có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế. b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Theo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác ­ Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí  Minh có quan niệm như sau: ­ Tổng quát: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội bao gồm các mặt rất phong phú,  hoàn chỉnh, trong đó con người được phát triển toàn diện.                                                   ­ Trên một số mặt nào đó: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng không tuyệt đối  hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt mà cần đặt trong một tổng thể chung. ­ Xác định mục tiêu: vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật  chất và văn hóa của nhân dân. ­ Xác định động lực: động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản  Việt Nam. Đó là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu trên những điểm sau: ­ Đó là một chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ. ­ Có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học ­ kỹ thuật. ­ Không còn người bóc lột người. ­ Xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Các đặc trưng trên thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ,  vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là  hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử của nhân loại. 3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt  Nam. a. Mục tiêu ­ Mục tiêu chung: Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. ­ Mục tiêu cụ thể:
  3. + Chính trị: chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước của dân, do dân,  vì dân. Nhà nước có hai chức năng; dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của  nhân dân. + Kinh tế: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công ­ nông nghiệp hiện đại,  khoa học ­ kỹ thuật tiên tiến, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải  thiện. Bên cạnh đó cần phát triển toàn diện các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, thương  nghiệp, trong đó “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà. + Văn hóa ­ xã hội: văn hóa là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.  Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Vì thế, Hồ  Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con  người. b. Động lực ­ Hồ Chí Minh xem xét động lực ở cả các phương diện: vật chất và tinh thần, nội sinh  và ngoại sinh. Động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao  động mà nòng cốt là công ­ nông ­ trí thức. ­ Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh,  giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích  quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội. ­ Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực  tinh thần không thể thiếu.  Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với  sự phát triển của xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực xã hội. Ngoài các động lực bên trong, cần phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng  cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của  giai cấp công nhân. Cùng với việc chỉ ra các nguồn lực phát triển, Hồ Chí Minh còn lưu ý, cảnh báo và  ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội như:  tham ô, lãng phí, quan liêu…
  4. Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định, nội lực là quyết định, ngoại lực là  rất quan trọng. I. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH Đây là một hệ thống bao gồm các luận điểm về bản chất, mục tiêu và động lực của  Chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu của thời ký quá độ và các hình thức,  bước đi trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.  Tất nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh của miền Bắc trong những năm 60 của thế kỷ  XX nên có nhiều điều Người chưa kịp tổng kết.  Ngày nay, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều  thay đổi, nhưng những luận điểm của Người về vấn đề này vẫn là cơ sở lý luận và  phương pháp luận chỉ đạo để chúgn ta tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi làm sống động tư  tưởng của Người.  Khái quát về công cuộc đổi mới từ đại hội VI (1986) đến đại hội IX với những thành  tựu của nó để khẳng định đường lối do Đảng và Hồ Chí Minh vạch ra là đúng đắn.   Vấn đề thời cơ và nguy cơ. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp tục đẩy  mạnh công cuộc đổi mới tiến lên cùng những thành tựu mới, Đảng ta đang kiên trì vận  dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề dưới đây:  1. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa  xã hội trên nền tảng Chủ Nghĩa Mác­ Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phân tích các ý sau:  ­ Đây là MT bất biến của Đảng và nhân dân ta.  ­ Mối quan hệ giữa MT độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.  Sự nghiệp đổi mới ngày nay với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh…” cũng là để hoàn  thành mục tiêu của Đảng và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới.  Tác động sau khi Chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu sụp đổ – bài học.  Xây dựng Chủ nghĩa xã hội gián tiếp… là sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh  vực, là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp. 
  5.   2. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của  nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn nội sinh,  để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ­  Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông  nghiệp lạc hậu quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn đi lên Tư bản chủ nghĩa.  Chúng ta phải tranh thủ những thành tựu của cuộc Cách Mạng khoa học và công  nghệ… để nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại.  Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, chúng ta cần phát huy tất cả các nguôn  lực bên trong và bên ngoài, lấy nguồn lực bên trong làm gốc để phát huy nguồn lực bên  ngoài. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội  là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của  Đảng, phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.  Nguồn nội lực con người là to lớn (trên 80 triệu dân với sức lực, trí tuệ, tài năng…),  làm thế nào để khơi dậy mạnh mẽ nguồn nội lực đó?  Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của người  dân, tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Muón thế phải nâng cao dân trí,  bồi dướng văn hoá chính trị, trau dồi bản lĩnh công dân, cung cấp thông tin đúng đắn  cho người dân, phải thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo  cho người dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của Nhà nước. Đồng thời  phải thực hiện nhất quán chiến lược Đ ĐK của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh  công – nông ­ trí thức làm nòng cốt, tranh thủ sự đóng góp ủng hộ của tất cả những ai  tán thành đổi mới vì mục tiêu “dân giau, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn  minh”. 3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đaị: Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… phải khai thác và sử dụng  tốt nguồn lực bên ngoài: vốn, kinh nghiệm quản lý, và công nghệ hiện đại (phân tích)  Hợp tác bên ngoài đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần  độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân sẵn sàng đem nhân lưc, vật lực, tài lực để tăng  cường sức mạnh quốc gia.
  6.  Giao lưu, hội nhập đồng thời phải không ngừng trau đồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá  dân tộc, đặc biệt cho  Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới tạo ra bộ lọc tốt để tiếp  thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề kháng tốt để chống lại mọi yếu tố  văn hoá độc hại từ bên ngoài tràn vào.  4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh  đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng Chủ nghĩa  xã hội.  ­ Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cán bộ, đảng  viên phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính, thực sự là người “đầy tớ trung  thành của nhân dân”  ­ Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn.  Bài học thực tiễn đã nhắc nhỡ chúng ta phải không ngừng xây dựng Đảng và Nhà  nước trong sạch, vững mạnh; kiên quyết loại trừ nhừng phần tử thoái hóa, biến chất  làm cho đội ngũ cán bộ ngày càng vững mạnh.  ­ Phải thường xuyên chăm lo mối quan hệ gắn bó, máu thịt giữa Đảng và Nhà nước  với nhân dân. II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÔNG  CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Trong 15 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, song sự nghiệp xây dựng bảo  vệ đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức to lớn mà chúng ta  phải chủ động đón lấy và vượt qua. Trong lúc này, cần nắm chắc, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối  quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đưa sự nghiệp  đổi mới vững bước tiến lên.  1) Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn  động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước:
  7.   Hội nghị lần thứ tư (Khóa VIII) BCHTW Đảng đặt vấn đề phải xác định rõ các  nguồn lực và phát huy tối đa các nội lực, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là  nguồn lực con người với sức mạnh vật chất và tinh thần.   Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, gắn kết cộng đồng, có ý chí  kiên cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận hèn… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của dân tộc, dưới sự  lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, tinh thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến  thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên  Phủ và đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.  Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, truyền thống quý báu ấy cần  tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước  vượt qua mọi nguy cơ thử thách, vững bước tiến lên.    2) Quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc  trên quan điểm giai cấp.  ­ Luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò độc quyền lãnh đạo  của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam.  ­ Chủ trương đại đòan kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh  công – nông – trí, dưới sự lãnh đạo của Đảng.  ­ Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực của  quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.  ­ Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 3) Chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc giải quyết tốt mối quan hệ giữa các  dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.  ­ Nhờ vận dụng sáng tạo và kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa dân tộc và giai  cấp, Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,  đại đoàn kết các dân tộc đa số và thiểu số, khơi dậy và phát huy được tiềm năng cách  mạng của toàn dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc và  xây dựng đất nước.
  8.  ­ Trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kết của  Hồ Chí Minh, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân  lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, lấy mục  tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng,  đồng thời chấp nhận những quan điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân  tộc… (NQ 07/1993)  ­ Phải chăm lo và giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong  đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Đại hội IX nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết  dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Đại đoàn kết các dân tộc  anh em trên lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp  dựng nước và giữ nước. (Văn kiện ĐH IX tr.127) (xem GTQG tr.86).  ­ Trong việc đền ơn, đáp nghĩa cho đồng bào miền núi, giúp miền núi nhanh chóng  tiến kịp miền xuôi, Người dạy: “Các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân  tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc”.  ­ Sau 15 năm đổi mới, đời sống của nhân dân miền núi đã có những chuyển biến rõ  nét. Tuy nhiên không phải không có những cơ sở cho các thế lực thù địch khai thác, lợi  dụng.  ­ Để loại trừ nguyên nhân có thể dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa các dân  tộc, có thể bị kẻ thù lợi dụng, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà ĐH  IX của Đảng đã đề ra cho miền núi, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng kết cấu hạ tầng  kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, xóa đói, giảm nghèo; gìn giữ và phát huy  bản sắc văn hóa dân tộc; đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây  là căn cứ cách mạng và kháng chiến, thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo,  bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, chống kỳ thị chia rẽ dân tộc. III.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH VỮNG  MẠNH a) Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh  của việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức cảu người cầm  quyền. 
  9. Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”,  đồng thời kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí.  Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc  trên mặt trận. Người nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn  đồng minh của thực dân phong kiến,...Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc  khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính …  tội lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và Ăngghen đã từng cảnh tỉnh  giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các đảng cộng sản cầm quyền  đến chỗ “đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “...  chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành  tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”. Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là  bệnh quan liêu. Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên  đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không  gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét mọi mặt,  không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không  kiểm tra đến nơi, đến chốn… thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không  nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỹ luật mà không nắm vững… Thế là  bện quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch  nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Vì vậy không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không  kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những  nguyên nhân  gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu. b) Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo  đức cách mạng ­ Theo Hồ Chí Minh. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay một  nhà nước pháp quyền là chưa thể được. Xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn  mạnh vai trò của luật pháp, ban hành luật pháp, phải khẩn trương xây dựng đồng bộ  hệ thống pháp luật, và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân.  Nhưng  không thể đề cao vai trò một chiều của pháp luật mà bỏ qua sự hổ trợ của các  yếu tố khác, nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã  hội có thể kết hợp, bổ sung cho nhau trong thực tế quản lý xã hội, điều hành đất  nước.
  10. Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng  giáo dục đạo đức, nhưng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi  hành pháp luật nghiêm minh. 3. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của thế  hệ trẻ Đó là quá trình dài kêu gọi tuổi trẻ cả nước phát huy những kết quả đạt được, không  ngừng học tập và làm theo những lời dạy của Bác, nỗ lực trong học tập, lao động, rèn  luyện, quyết tâm hành động góp phần thực hiện thắng lợi những đường lối chủ  trương của Đảng và nhà nước           Học tập và làm theo lời Bác là một lòng, một dạ với Đảng, với đất nước, với lý  tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không ngừng sang tạo và tự hoàn thiện  bản thân cho xứng đáng là lực lượng “nòng cốt’ của đất nước           Học tập và làm theo lời Bác là nỗ lực vươn lên, tự lực tự cường, lao động, cống  hiến không ngừng cho vận mệnh của nước nhà           Học tập và làm theo lời Bác là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn  sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội . Luôn  giữ trong mình lòng nhiệt huyết với ngọn lửa “đỏ” và trái tim “hồng” của người Việt  Nam, lòng tự hào và tự tôn dân tộc luôn rực cháy trong nguồn sức mạnh từ ý chí của  những người thanh niên.            Học tập và làm theo lời Bác là luôn xung kích trong các phong trào thanh niên;  gương mẫu, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.  Tấm gương đạo đức cao cả, cuộc đời bình dị trong sáng, tư tưởng vĩ đại, những lời  dạt sâu sắc và tình thương yêu của Bác sẽ mãi là ngọn lửa thiêng soi đường cho tuổi  trẻ Việt Nam tiến bước.Vì thế học tập và làm theo lời Bác là lẽ sống đẹp của tuổi trẻ  Việt Nam.
  11. IV.TƯ TƯỞNG HCM VỀ XD CON NGƯỜI MỚI 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể ­ Con người được xem xét như chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt  động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân ­ Thiện ­ Mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”. Hồ Chí Minh đề cập đến con người trong tính đa dạng: đa dạng trong quan hệ xã hội  (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...); đa dạng trong tính cách,  khát vọng, phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng  đều hợp lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác,  nhưng đều cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện  sống, làm việc... ­ Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và  ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ... Bao gồm tính người ­ mặt xã hội và tính bản  năng ­ mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh con người có tốt, có xấu,  nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”. b. Con người cụ thể, lịch sử Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp  (“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai”...)  nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem  xét con người trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,  trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người  hiện thực, cụ thể, khách quan.
  12. c. Bản chất con người mang tính xã hội ­ Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất,  con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội;  hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau… xác lập các mối quan hệ giữa người với người. ­ Con người là sản phẩm của xã hội, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ  hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào,  loài người. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng  người a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới này  không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì  đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Người cho rằng  “việc dễ mấy không có dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân  là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, dân ta là tài năng và trí tuệ, sáng  tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà  những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Hồ Chí Minh có  niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta,  với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng  ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Nhân dân là yếu tố quyết định  thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực  lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
  13.  Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc,  phát huy nhân tố con người Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. ­ Mục tiêu của cách mạng: là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con  người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. ­ Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách  của Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích  trước mắt, lợi ích cả dân tộc, lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và các nhân. Với  hoạt động thực tiễn thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy ­ ta phải hết sức làm. Việc  gì hại cho dân ­ dù nhỏ mấy ­ ta phải hết sức tránh. Con người là động lực của cách mạng. ­ Con người là động lực của cách mạng, được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn  thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa  to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước  mới lấy công ­ nông ­ trí làm nền tảng. ­ Không phải là mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được  giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi  dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn  hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. ­ Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh  đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. ­ Giữa con người ­ mục tiêu và con người ­ động lực có mối quan hệ biện chứng với  nhau. Càng chăm lo cho con người ­ mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người ­ 
  14. động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người ­ động  lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.  Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó  là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen  truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không  dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo. b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng      Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.  Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người.  Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những  quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó  liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và  “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có  tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người. Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất  nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp.  “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ  nghĩa” ­ Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. ­ Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã  hội chủ nghĩa”.
  15. ­ Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó  chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống.  Hai là, hình thành những phẩm chất mới: như có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo  đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa;  có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.  c. Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của  chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội ­ Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục ­  đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại  tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến  thanh niên. ­ Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo  đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt  đức, tài thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển.  Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy mới có  thể “Học để làm người”. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một chiều”  không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện đến đâu hay đến đó.  Nhận  thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi  con người, suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “việc học  không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”. KẾT LUẬN             Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì  Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì 
  16. những sự đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa  nhân loại ­ Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn  hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước. ­ Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư  tưởng  đạo đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức  học lỗi được thế giới thừa nhận. ­ Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan  trọng:  Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự  nghiệp GD, ĐT con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để  làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục  tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của  sự nghiệp cách mạng XHCN. Đảng ta xác định GD và ĐT là quốc sách hàng đầu. Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong  việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh,  Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu  cao nhất của chế độ ta. Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan  trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương   đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách  nhiệm chính trị của các dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn  minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
  17. V.SINH VIÊN HỌC TÂP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HCM 1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh             ­ Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân:             ­ Đạo đức, hiểu tổng quát là toàn bộ  những chuẩn mực, những quy tắc, những  quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công  bằng được xã hội thừa nhận. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị  con người.             ­ Hồ Chí Minh quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên từ rất sớm,  vì thanh niên là “người chủ tương lai của nước nhà”­ Sdd, t 5, tr 185.             ­Thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày không chỉ có tác dụng tôn vinh,  nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn,  thử thách . ­ Trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người  làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người  cao thượng.             ­ Kiên trì, tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh: ­ Sinh viên phải có “6 cái yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu  lao động, yêu khoa học và kỷ luật ­ Sinh viên phải: + Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực. + Phải xác định  rõ nhiệm vụ của mình. + Trong học tập, phải kết hợp lý luận và thực hành, học tập với lao động; phải chống  mọi biểu hiện của chủ nghĩa các nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi, chống lười 
  18. biếng, coi khinh lao động, kiêu ngạo, giả dối, khoa khoang…Phải trả lời được câu  hỏi: học để làm gì?  Học để phục vụ cho ai? + Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?  2. Nội dung  học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh             ­ Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay             + Phần lớn sinh viên, thanh niên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch,  lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp,  năng động nhạy bén, dám chịu trách nhiệm; gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân  tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn  minh.             + Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh  viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập  thân, lập nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách  nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập hút xách, thiếu trung thực,  gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… Đây là  những biểu hiện không thể coi thường.             ­ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh             +  Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp  giải phóng dân tộc, giải phóng  giai cấp, giải phóng con người             + Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp  sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường
  19.             + Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân  và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu  với con người.             +  Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt  qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. VI.TÍNH NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HCM      Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân  bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người  những gì mà nó vốn có, trước  hết là quyền được sống theo nghĩa “người ta sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền  mưu cầu hạnh phúc”. ­Đất nước Việt Nam ­ cái nôi của con rồng cháu tiên, phải để cho người Việt Nam  được gọi là Tổ quốc, chứ không cần đến một “mẫu quốc” bên phương Tây xa xôi tới  “khai hoá”! Đã là con người  thì ai cũng có quyền làm người, quyền tự do, quyền sống  bình đẳng. Phải trả lại độc lập cho nhân dân Việt Nam để họ làm chủđất nước mình,  tự mình xây dựng cuộc sống. Đưa con người trở về với chính con người, đó là tư  tưởng nhân bản cơ bản đầu tiên được hình thành trong con người Hồ Chí Minh. Trên  cơ sởđó, Người kêu gọi xoá bỏ nô lệ, áp bức, bần cùng, đối xử với con người như là  Con Người chân chính.  Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội  tụ những tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục  hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý  luận khoa học, trở thành học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng cộng  sản chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài là C. Mác, Ph. Ăng­ghen và V. I. Lênin.  ­Thấm nhuần tư tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh tự nguyện đứng  vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế, chiến đấu hi sinh cho lý tưởng nhân văn 
  20. cộng sản chủ nghĩa. Và thực tế, Người đãtrở thành một trong những chiến sĩđi tiên  phong trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng chếđộ xã hội mới trên  phạm vi toàn thế giới. Người quan tâm đến số phận từng con người , vận mệnh từng  dân tộc, từng quốc gia khắp năm châu. Cuộc cách mạng mà người theo đuổi là cuộc  đấu tranh giai cấp, lật đổ giai cấp bóc lột, giải phóng giai cấp bị bóc lột, đưa loài  người tiến đến một xã hội tốt đẹp. Tư tưởng Hồ Chí Minh vì thế có tầm giai cấp  quốc tế, tầm nhân loại. ­ Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sâu sắc lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lấy nguyên lý  của chủ nghĩa cộng sản để thực hiện lý tưởng nhân văn cụ thể của con người: xoá bỏ  xã hội cũ thối nát và phản nhân đạo để xây dựng một xã hội mới màởđó, người với  người làđồng chí, bạn bè, anh em, sống hoà bình, hợp tác, hữu nghị trong thế giới đại  đồng. Chính vì vậy khi Quốc tế II phân hóa thành nhiều khuynh hướng khác nhau,  Người đã chọn Quốc tế III, vì nóđề ra mục tiêu đúng với tư tưởng của Người là  chống phong kiến, đế quốc, giải phóng dân tộc, mà thực chất là giải quyết vấn đề dân  tộc và thuộc địa ­ vấn đề bức xúc nhất, bản chất nhất của cách mạng thế giới lúc bấy  giờ. ­Giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa, theo Hồ Chí Minh không phải là nhiệm vụ  cuối cùng, mà là khâu đột pháđể tiến tới giải quyết vấn đề cách mạng thế giới. Giải  phóng từng dân tộc làđiều kiện cho việc giải phóng tất cả các dân tộc thuộc địa; giải  phóng giai cấp vô sản làđểđi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mục tiêu đó quán xuyến  toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Đó cũng là nền tảng cho tinh thần đoàn kết  giữa các dân tộc toàn nhân loại trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế  chân chính. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, theo  Người, cũng chỉ mới là tiền đềđể thực hiện mục tiêu thiêng liêng nhất của con người  là phát triển toàn bộ bản chất người  với mọi phẩm chất tốt đẹp, với mọi tiềm năng  và năng lực sáng tạo cũng như khả năng hưởng thụ cao các giá trị văn hoá do chính  mình sáng tạo ra.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2