
VỀ CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC
DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở VIẸT NAM

Vượt qua tầm nhìn hạn chế của những nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Áí Quốc
là người Việt Nam đầu tiên đã tìm ra con đường giải phóng đúng đắn cho giai cấp
công nhân, cho nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Sau thời gian tìm tòi và khảo nghiệm, thâm nhập phong trào công nhân và
phong trào thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã đi rất nhiều nơi trên thế giới, từ Châu Á,
Phi, Mỹ, tìm hiểu bản chất của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Cuối
cùng, Nguyễn Ái Quốc cũng đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
Việt Nam. Đó là con đường kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp. Người đã rút ra kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, Nguyễn Ái Quốc đã soạn
thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Từ khi mới ra đời, Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã thể hiện rõ đường lối lãnh đạo đúng dắn của Đảng mà đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
được hội nghị hợp nhất Đảng thông qua đã đề ra chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, thu phục công nhân và
nông dân, liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản
bản xứ nhằm thực hiện nhiệm vụ đánh đổ chủ nghĩa Đế quốc Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Việt Nam được độc lập. Như vậy, ngay từ Cương lĩnh đầu tiên,
Đảng đã đề ra đường lối giải phóng dân tộc, phải đánh đổ đế quốc Pháp và phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Có thể nói Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đã kết hợp biện chứng yếu tố dân tộc và giai cấp, trong đó nổi bật lên là
yếu tố dân tộc, là tư tưởng độc lập tự do - đó là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh.
Ngay sau khi ra đời, đảng Cộng sản Việt Nam liền giương cao ngọn cờ cách
mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp. Năm 1930-1931, một phong trào cách mạng đã diẽn ra sôi nổi trong
toàn quốc mà đỉnh cao là Xô Viết Ngệ Tĩnh. Trong cương lĩnh mùa xuân năm 1930
đã thể hiện rõ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc, vấn đề dân tộc,
theo quan điểm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc là vấn đề giải phóng thuộc địa, đánh
đổ chủ nghĩa thực dân, đưa dân tộc thoát khỏi gông xiềng nô lệ, giải phóng mọi
năng lực và tiềm năng của dân tộc, của mọi tầng lớp cư dân, mọi giai cấp bị sự
kiềm chế của chủ nghĩa đế quốc, để phát triển sự nghiệp xây dựng đất nước theo
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thắng lợi của cách mạng thuộc địa trong thời đại
mới có quan hệ chặt chẽ, tác động trực tiếp tới sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản
và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa xâm chiếm và nô dịch thuộc địa
trong bối cảnh quốc tế mới, Nguyễn Ái Quốc đã khắc hạo nổi bật tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc với những nội dung mới, đầy sức sống cách mạng và khoa học.
Nguyễn Ái Quốc đã lý giải vấn đề dân tộc theo quan điểm của người cộng sản,
người mác - xít để xác định trách nhiệm của Đảng Cộng sản đối với dân tộc, coi
nhiệm vụ giải phóng dân tộc không thể tách rời nhiệm vụ giải phóng giai cấp công
nhân, nhân dân lao động. Hơn thế nữa, đó là điểm xuất phát, là điều kiện rất quan
trọng là sự mở đường hướng tới thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, độc lập dân tộc đã mang những yếu tố mới, bản chất mới của chủ nghĩa nhân
văn cộng sản, lấy tự do, hạnh phúc của con người làm tiêu chí, làm thước đo giá trị
của nó. Chủ nghĩa dân tộc (CNDT) Nguyễn Ái Quốc tương đồng với chủ nghĩa yêu
nước. Nó bao hàm những nội dung và đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa yêu nuớc
Việt Nam; Ý thức độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và tự tôn dân tộc, Chủ nghĩa
yêu nước Hồ Chí Minh là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống vốn đã được hình thành và phát triển trong tiến trình đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. Cho tới năm 1920, khi Nguyễn Ái Quốc
đang đi tìm con đường cứu nước cứu dân, tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng là

lúc Người bắt đầu đưa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phát triển lên tầm cao mới,
chất lượng mới; chủ nghĩa yêu nước truyền thống kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa
Mác-Lênin, giải phóng dân tộc được tiến hành theo quỹ đạo cách mạng vô sản, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà giá trị thật sự của nó là đời sống ấm
no, tự do hạnh phúc của nhân dân.
Trong số những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường
Chinh nổi lên như một nhà chiến lược lỗi lạc của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân (CMDTDCND), người có những cống hiến quan trọng vào việc phát triển tư
tưởng của Bác Hồ về cách mạng giải phóng dân tộc (CMGPDT). Con đường cứu
nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra đã chám dứt thời kỳ khủng hoảng về
đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam. Đó là con đường gắn giải phóng dân
tộc với giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc và chảu nghĩa xã hội; đưa cách
mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản. Cách mạng Việt Nam phải bắt
đầu từ giải phóng dân tộc, qua đó tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. CMGPDT không nhất thiết phải chờ cách mạng vô sản ở chính quốc,
các dân tộc bị áp bức hoàn toàn có khả năng chủ động tiến hành công cuộc tự giải
phóng và giành thắng lợi trước khi giai cấp vô sản “chính quốc” giành chính quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là động lực vĩ
đại của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Tập hợp mọi
lực lượng dân tộc, dân chủ vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là nhiệm vụ
chiến lược trung tâm cảu Đảng.
Hội nghị Trung ương tháng Đảng tháng 11-1940 ở Đình Bảng, dưới sự chủ trì
của đồng chí Trường Chinh, đã khẳng định chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược do hội nghị Trung ương 6 đề ra, có thể nói là sự chuẩn bị tốt nhất để đồng chí
tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về CMGPDT khi Người về nước trực tiếp lãnh đạo
phong trào cách mạng Việt Nam. Bằng chứng sinh động của sự tiếp thu này thể
hiện ở nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) do đồng chí soạn thảo dưới sự

hướng dẫn của Bác. Nghị quyết nêu lên những quan điểm cơ bản về CMGPDT Việt
Nam: Thứ nhất, cuộc cách mạng này phải do Đảng cộng sản lãnh đạo vì Đảng tiêu
biêu cả tinh thần cách mạng của giai cấp và dân tộc, đủ lý thuyết, năng lực lãnh đạo
cho toàn dân đánh Pháp đuổi Nhật, đi đến thực hiện chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là GPDT, tạm gác khẩu
hiệu cách mạng ruộng đất, tiến hành giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất công, tiến
tới thực hiện người cày có ruộng. Nghị quyết nêu rõ: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
Thứ ba, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dương và mặt trận này như Nghị quyết chỉ rõ “...phải đổi ra
cái tên khác cho có tính dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn..., vậy
mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng
minh. Hay nói tắt là Việt Minh. Đảng ta và Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân
tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai lao độc lập đồng minh
để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh”.
Khi thời cơ đến với lực lượng sẵn có, ta có thẻ lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa
từng phần, mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, quyết định đối với thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám, góp phần khẳng định và phát triển lý luận về
CMGPDT.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIẺU TÀON QUÓC LẦN THỨ 2
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, tháng 2-1951, đồng chí
Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có thể nói, đây là một văn kiện lịch sử, góp
phần bổ sung và phát triển lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về cách