TNU Journal of Science and Technology
229(16): 196 - 204
http://jst.tnu.edu.vn 196 Email: jst@tnu.edu.vn
FRIENDSHIP WITH AGEMATES AND OTHER MANDARINS
IN LE QUY DON’S POEMS
Dinh Thi Huong*
Posts and Telecommunications Institute of Technology (PTIT)
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
04/10/2024
Le Quy Don had some poems about his friendship with other
individuals of the same age and governmental positions. Through the
literary criticism of his some typical poems and the comparison of the
friendship conception in Chinese culture, the study presents the
precious values of Le Quy Don's relationship with his agemates and
other mandarins. They are friends who are useful to each other with the
qualities of sincerity, loyalty, uprightness, trust, understanding, and
profound knowledge. Their friendship is both simple and thoughtful,
and their principles are standard, sustainable and interesting, their
friendship is also strengthened by their responsibility to the country.
The settings of these poems were the farewell moments where the
friends drank together or read their poems as a goodbye saying, their
friendships are admirable and followable. This study can be useful in
teaching and learning about Le Quy Don’s poems as well as has
contribution to studies of ancient people’s friendship in the government.
Revised:
18/11/2024
Published:
18/11/2024
KEYWORDS
Le Quy Don’s poetry
Friendship
Agemate friendship
Mandarin friendship
Farewell poems
NH BNG HU VỚI ĐỒNG NIÊN VÀ ĐỒNG LIÊU TRONG THƠ LÊ QUÝ ĐÔN
Đinh Thị Hương
Hc vin Công ngh Bưu chính Vin thông
TÓM TT
Ngày nhn bài:
04/10/2024
Quý Đôn một s bài thơ thể hin mi quan h kết giao vi bn
đồng niên và đồng liêu. Bằng phương pháp phân tích, đim bình nhng
bài thơ tiêu biểu, so sánh vi nhng quan nim kết giao bng hu trong
lch s văn hoá cổ đin Trung Quc, bài viết nhận đnh nhng gtr sâu
sc trong mi giao tình bng hu của Quý Đôn với bạn đng niên
đồng liêu. Đó nhng bng hu ích vi phm cht chân thành, trung
chính, tín hiểu, đa văn. Tình bằng hu ca h va thân thiết thanh đạm
vừa chu đáo lễ nghĩa, bn vng mà thú v, luôn gn cùng trách nhim ca
ngưi b tôi vi dân với nước. Tình bng hu y lấy không gian đưa tiễn
làm bi cnh, lấy thơ u làm vt phm trao gi, lấy ý đp li hay làm
ước hn, lấy đất tri núi sông làm minh chng, tình bng hu rất đáng
trân trng hc tp. Bài viết này th đưc s dng trong vic nghiên
cu ging dy v thơ Quý Đôn, cũngth góp phn vào vic tìm
hiu cách thc giao kết bng hu của người xưa ở nơi quan trường.
Ngày hoàn thin:
18/11/2024
Ngày đăng:
18/11/2024
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.11238
*Email: huongdt@ptit.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology
229(16): 196 - 204
http://jst.tnu.edu.vn 197 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Gii thiu
Quý Đôn (1726 1784) t Doãn Hu, hiu Quế Đường, thường được ca ngi
nhà thơ, nhà bác hc, nhà ngoi giao xut sc ca dân tc. Ngoài s phong phú v trưc thut, s
nghiệp sáng tác thơ ca của Lê Quý Đôn cũng khá dồi dào. T thơ tiễn mng tặng đáp đến thơ đề
vnh (các cảnh đẹp trong nước cảnh đẹp ca những vùng sông nước Trung Hoa Quý
Đôn trong hành trình đi sứ đã trải qua) nay còn lưu lại khong 500 bài, mt phần trong đó đã
được các bc túc nho gii thiu, gần đây lại được kế tha kho cu và dch chú trong 2 tp ca b
sách Quế Đưng thi tp do Trn Th Băng Thanh chủ biên [1]. Trong s những bài thơ tiễn mng
tặng đáp, những bài thơ th hin tình kết giao bng hu của Quý Đôn, kết giao đồng
niên và đồng liêu trong nước, có kết giao bng hu vi c quan li Trung Hoa và kết giao vi mt
s s thần nước khác trên hành trình đi sứ phương Bắc. V s kết giao vi quan li Trung Hoa,
nhà nghiên cu Trn Th Băng Thanh trong lời gii thiu b sách trên đã viết khá rõ s kết giao
của Lê Quý Đôn với Tra Kiệm Đường (người tiếp đón sứ) và đặc bit là s kết giao bng hu ca
ông vi H Trai (tên là Tn Triều Vu, là người tin s Vit v c), khẳng định Lê Quý Đôn yêu
mến tài năng cùng sự chân tình ca H Trai tình bn gia h "trường hp hiếm trong
nhng cuc Hoàng hoa" (cuộc đi sứ) [1, tr. 36-63]. V vic kết giao vi mt s s thn Hàn Quc,
nhà nghiên cu Nguyễn Minh ng trong bài báo "Cuc tiếp c gia s thn Đại Vit Quý
Đôn và sứ thn Hàn Quc Hng Khi Hy, Triu Vinh Tiến, Lý Huy Trung ti Bắc Kinh năm 1960"
đã nhận định rằng "Hơn ai hết, Lê Quý Đôn hiểu rõ tm quan trng ca vic kết giao tình bn, tình
hu ngh vi các đoàn sứ b của các nước khác trong khu vc", "Nhà bác học nước Đại Vit đã
bc l tình cm thm thiết của mình đối vi các bn mi Hàn Quc" tình cm thm thiết y
"được các s thn Hàn Quc Hng Khi Hy, Lý Huy Trung đáp lại tht chí tình" [2].
Vi bn ngoi quốc đã có tình cảm "hiếm có" như vậy, vi bạn trong nước t hn snhng
tình cm rất đáng để người sau ngưỡng m và hc tp. Với trước tác để li ti "gn 40 b sách mà
nội dung đề cập đến hu hết mọi lĩnh vực" và "phn lớn được viết bng ch n" thì dù "đã được
nhiu hc gi dch thut nghiên cu" "vn n nhiu tác phẩm chưa được khai thác hoc nghiên
cu mt cách toàn din trit để" [3]. Các bài thơ về s kết bn với đồng niên và đồng liêu (Lê Quý
Đôn gọi "niên hu" "liêu hu") thc s những bài thơ rất đáng được nghiên cu, không
ch góp phn làm sáng t con người nhân trí của Lê Quý Đôn mà còn thể hiện được nhng v đẹp
và s sáng suốt đáng ca ngi hc tp ca tin nhân trong vic kết giao bng hu chn quan trường.
S giao kết bng hữu đã sớm được kinh điển Nho gia nói đến [4] ít nhiu ảnh hưởng
tích cc ti quan nim giao kết bng hu của các nhà thơ cổ đin Việt Nam, như Nguyễn Bnh
Khiêm đã bài thơ Khuyến đãi bằng hu (Khuyên đi x vi bu bạn) khuyên con người phi
gi ch tín vi bạn không được buông phóng bn thân với rượu bc nhng thú tầm thường
để tình bạn được thm bn [5]. V đề tài bng hữu trong văn học, đó đề tài quen thuc của thơ
c đin Trung Hoa. Nhng cảnh tượng tng bit, ni bun xa nhau, nim vui trùng ng, liu xanh
Chương Đài, cành mai tin nhạn… đều tr thành nhng biu hin ca tình bng hu. Nghiên cu
v tình bng hữu trong thơ Đưng, H Thúy Ngc nhận định "đó một thanh khí t nhiên gn
kết hai người xa l", "ít b chi phi ràng buc bi nhng l giáo kht khe vì ch yếu xut phát t
s tương hợp ca nhng tâm hn đồng thanh tương ứng đồng khí tương cu" [6]. Hán Th Thu
Hin vi bài báo "Th tài tng biệt trong tViệt Nam thế k XVIII XIX" tuy không nhắc đến
trưng hợp Quý Đôn các bng hu của ông nhưng đã nhận định "tình bng hu mt
trong nhng ni dung cm xúc tiêu biu ni bt" cm xúc này th hin "s khẳng định, ca
ngi, trân trng tình cm bn rịn, lưu luyến, thu hiu, đồng cm vi bn"; "s ca ngi tp
trung vào ca ngợi tài năng, phẩm chất, công lao đóng góp của người đi" "khi tiễn người đi sứ,
các tác gi thường chú ý khẳng định tài năng hơn người của người lên đường" [7].
Tình bng hữu trong thơ Quý Đôn ch yếu gn lin với các đồng liêu chc phn ca
người làm b tôi (có người va đồng niên vừa đồng liêu) nên t nhiên những điểm khác
với đề tài bng hu quen thuộc thơ cổ đin Trung Hoa hay nói tới. Xét trong thơ Việt Nam,
Quý Đôn trường hp hiếm gp khi ông dùng t "niên hu" (bn cùng tui) "liêu hu"
TNU Journal of Science and Technology
229(16): 196 - 204
http://jst.tnu.edu.vn 198 Email: jst@tnu.edu.vn
(bn cùng làm quan). S ông nhiều bng hữu làm quan cũng một phần là "ông đã được
h Trnh quan tâm ng h, tin dùng" "các b trên này đã bố trí ông vào nhng chc v trng
yếu trong triều đình, tạo điều kiện cho ông đi nhiều, đọc nhiu, tri nghim nhiu, biết nhiu" [8].
Vì vy, nghiên cu tình bng hu của Quý Đôn với các đồng liêu cũng s cho thy nhng giá
tr ảnh hưởng tích cc ca loi tình cm này vi mt s phương diện lch s hi gián tiếp
cho thy mt phần tư tưởng t "một nhà tư tưởng ln ca dân tc Vit Nam thế k XVIII" [9].
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này, phương pp phân tích, điểm nh, so sánh được dùng làm ni bt những đc
đim giá tr trong các i thơ v s giao kết bng hu với đồng niên và đồng lu ca Lê Quý Đôn.
V d liu nghiên cu trong bài viết này, các bài tcủa Quý Đôn những người bn
(bao gm c bn dịch nghĩa dịch thơ cùng các chú thích liên quan) đều được trích t tp mt
trong Quế Đưng thi tp mà nhóm Trn Th Băng Thanh đã biên dịch.
3. Kết qu và bàn lun
3.1. Nhng bi cnh th hin tình bng hu với đồng niên và đồng liêu trong thơ Lê Quý Đôn
3.1.1. Cnh tin bng hữu đi sứ
Quý Đôn từng đi sứ được những người bạn làm thơ tặng trong cuc tiễn đưa, ông cũng
có thơ hoạ li những bài thơ tiễn ấy. Ông cũng là người tin mt s người bạn đi sứ nên ông cũng
có thơ tiễn bạn đi sứ. Do vy, những bài thơ xướng ho đáp tặng trong nhng cuc tin s đã thể
hin rõ tình bng hu ca ông.
Khi Quý Đôn đi sứ (năm Canh Thìn, 1760), tiệc tiễn đưa đưc diễn ra trên ngôi đình bên
b nam dòng Nh Hà, vào bui sm xuân, c tiết, mai liu tốt tươi, hoa nở chim hót, thơ
u tặng đáp, trẻ con đến xem, thuyn ch dưới bến. Mt s người bạn đồng liêu có thơ tiễn ông
(đã được ông chép lại thơ trong nhóm bài Ph chư liêu hữu tin thi) Đông các Đại học
Nguyễn Huy Đài, Giám sát Ngự s Vũ Miên, Sơn Tây Hiến sát s Trương Đình Tuyên, Hàn lâm
vin Hiu tho Phan Nhu, Hữu Công khoa Đô cấp s trung Vũ Huy Đĩnh. Trong các bài thơ ca
những người bạn đó, cảnh tượng tin s được th hin khá chi tiết. Cảnh tượng tin s y có thp
thoáng như những cảnh tưng tng bit trong thi ca c điển Trung Hoa, ly b sông bến nước và
đình đài làm chỗ tiễn đưa, lấy mai liu làm tín vật, hoa khói mùa xuân, rượu thơ tặng đáp, người
đi bằng thuyền thì người tiễn đứng trên đài cao mà trông theo đến khi hút bóng, người đi bằng
ngựa tngười tin dõi theo my dặm trường đình cho ti khi liu che nga khut, t ấy đôi
bên hoài nim, mong ngóng trùng phùng. Đó cũng cảnh tượng đầy thi vị, đầy l nghi, s
trang trng t chỉnh, đông không loạn, yến m tao nhã, trời đất người vt chng
giám, gió giúp c tiết php phi, sóng giúp thuyền lướt trôi, t hn phi ngày lành gi
tt, s cảnh tượng tương xứng vi cảnh tượng tiếp s của phương Bắc, khiến người đi sứ
thêm t tin chuyện đáng để k đáng để t hào với người phương Bắc. Cảnh tượng y
cũng thân quen gần gũi, khiến người đi sứ không th quên, không th không gi tiết tháo khi
sang đất khách, nht định có ngày tr v an toàn, v vang s mnh.
Khi nhng bng hu đồng niên và đồng liêu đi sứ, Lê Quý Đôn cũng làm thơ tiễn. Ông không
miêu t khung cnh tin s ch yếu dùng lời thơ ca ngợi, dn chúc mng bng hu.
Những người bạn đi sứ mà được ông làm thơ tiễn gm Thám hoa Nguyn Huy Oánh (làm Chánh
s đoàn đi sứ sang nhà Thanh năm 1765), đồng niên Đoàn Nguyễn Thc (làm Chánh s sang nhà
Thanh năm 1774), đồng niên Nguyn Xuân Huyên (theo các nhà nghiên cu suy lun thì Nguyn
Xuân Huyên đi sứ sau năm 1760), Hồ công Sĩ Đống (làm Phó s sang nhà Thanh năm 1777), Đỗ
công Huy (đi sứ khoảng sau năm 1780), Nguyễn công Trọng Đưng (nhà có ba thế h đi sứ,
các nhà nghiên cứu chưa năm đi sứ ca Nguyn Trng Đường). Như vậy, Quý Đôn
người đi sứ trước những người bạn trên (ông đi s khoảng năm 35 tuổi). l khi ông làm thơ
tin bạn đi sứ, ông không tp trung miêu t khung cnh tin s như những người bạn khác đã làm
TNU Journal of Science and Technology
229(16): 196 - 204
http://jst.tnu.edu.vn 199 Email: jst@tnu.edu.vn
tp trung vào viêc ca ngi, dn dò chúc mng bn hai lí do. Mt Quý Đôn đã đi sứ
trưc nên có kinh nghiệm để dặn người sau, điều này cũng gián tiếp th hin rng ông t mình
thy rt trách nhim tình cm vi chuyện đi sứ của người sau, cũng trách nhiệm tình
cm vi quc gia; hai là khung cnh tin s hẳn không có gì thay đổi nhiu so vi cnh mà nhng
ngưi bạn kc đã m nên ông kng cần t li, dành thời gian thơ từ cho mục đích tn.
3.1.2. Cnh tin bng hữu đi nhậm chc xa
Quý Đôn một s bài thơ tiễn bạn đi nhậm chức nơi xa, dụ như thơ tiễn Nguyn
Nghiễm đi làm Hiệp đốc suất đạo Ngh An, thơ tiễn Nguyễn Đình Huấn đi làm Thống lĩnh các
đạo Tuyên Hưng Sơn (Tuyên Quang, Hưng Hoá, Sơn Tây), thơ tin Cn Nguyễn Trác đi
Ngh An. Khoảng cách không gian đa sau tng bit của ông đối vi bng hu không phi
quá lớn như khoảng cách không gian sau tng bit bng hu của các nhà thơ đời Đường nhưng
cũng đủ để th hin nhiu trng thái cm xúc gia những người bn tốt. Thơ ông làm khi tin
Nguyn Nghim và Nguyễn Đình Huấn thì giọng điệu vui tươi, cảm mng vì bạn được b trên tín
nhim mà gánh thêm vic ln, giọng thơ khí độ dt dào, hào sng khích l, ca tụng tài năng phẩm
cht ca bạn, cũng gián tiếp ca ngi s trng tài ca b trên; cảnh thùng tráng, tề chnh oai
nghiêm, hoc hch truyền đầu nga, hoặc văn chiếu lnh gm thêu, hoc hm thuyn tiên
h tng, hoc xe c php phi dẫn đưa, gió mây trợ giúp, rượu quý trao mời, định ngày tài ng,
đón tiếp khi hoàn, thc là nhng cảnh tượng khiến c người đi và người tin thêm vì thế mà cm
kích phn chấn. Nhưng khi ông làm thơ tiễn Cn Nguyn Trác, giọng thơ không khác với
tình điệu bi thương của đa phần thơ tống biệt đời Đường. Tiễn đi xa vài trăm dặm mà tưởng như
"xa ba ngàn dm", rồi "đèn tàn trăng sớm, mt mnh tâm tình, bun bi hi, không th kìm
nén, nên viết thành một thiên thơ ngũ ngôn cổ phong ba mươi vn k tình ly bit" [1, tr.159-162].
y là hoàn cnh tng bit nhiu phn bi cảm, người đi không phn chn, hai bên đơn chích
nh, nhng k nim t những năm đầu tao ng, gic công hu gp nhiu nỗi trái ngang… Trong
thơ tống biệt đời Đường, khong cách sau tng bit ca bng hu thường là quá xa xôi. Đất nước
Trung Hoa rng ln, bng hu mun gp nhau ch th đi bộ, hoc bng nga, bng xe kéo,
bng thuyền, cách nào cũng không thể nhanh, đường thy hay đường rng cũng nhiều nguy
him, thế tbng hu tốt cũng khó gặp nhau, tin thư đi lại cũng không hề thun tin. Cho nên,
tiễn nhau trước khi đi, chẳng phi ch để trao tình ng ý hay dn hẹn ước còn th như
mt s chun b hay d cm cho nhng ngày mãi mãi v sau dường như không còn cơ hội trùng
phùng tái ng, s sinh ly có khi cũng là tử bit t đây. Thơ tống biệt đời Đường cũng một phn vì
thế khiến cho nhiều đời sau mỗi khi đọc đều động lòng trc n, xúc cảm bùi ngùi. Đem cái
tình điệu bi thương cùng những điển tích của thơ tng biệt xưa để làm thơ gửi bạn đi xa (dù chỉ
vài trăm dặm và vn còn nhiu ha hn vào s gp mt sau một năm, vào mùa xuân năm sau), Lê
Quý Đôn dường như đã cho người đời sau thy rng nhng mi giao tình bng hữu đôi
bên không d ri nhau, ch cn cách xa không lâu th khiến người động mối thương tâm,
nhất là khi người y lại là người đã từng đọc đến hàng nghìn trang thơ tống bit ca người xưa.
3.1.3. Cảnh tượng xướng ho tặng đáp bằng hữu khi cùng đảm nhim việc trường thi
Tăng Tử từng nói "Người quân t nh văn chương học vn mà hip hi bng hu và nh bng
hu giúp sc tiến lên đức nhân" (Quân t văn hội hữu, hữu ph nhân T thư, Luận
ngữ, chương Nhan Uyên) [4, tr.194-195].
Lập thi xã, tham gia xướng ho tặng đáp việc thường làm của các thi nhân đời xưa, vừa để
kết giao bng hu, va chia s văn chương tâm tình chí ng. Nhng khi tri đất thun hoà,
trăng trong gió mát, lễ tiết bn mùa, bng hu thi nhân t hp, th thêm yến ẩm thanh đạm.
Cách kết giao này thường không ging vi s kết giao bng hữu huynh đệ ca các ho hán giang
h (có th lập đàn tế trời đất cn thận, cũng thể lấy quán rượu làm nơi tế trời đất kết giao
bng hu, lấy rượu làm hương vị, có th ăn miếng tht to và uống chén rượu ln) như sự kết giao
ho hán mà Thi Nại Am đã miêu tả trong Thu Hử. Đối vi thi nhân, vic lp thi còn giúp h
TNU Journal of Science and Technology
229(16): 196 - 204
http://jst.tnu.edu.vn 200 Email: jst@tnu.edu.vn
ngay người bình phm chnh sa thơ mình, thơ cũng được nh bn truyn bá rng, th bn
lưu lại thơ mình cho người sau. Đó cách giao tiếp bng hu rất tao nhã, cũng là cách để thi
nhân tu tâm ỡng tính. Chính Quý Đôn trong bài thơ T đáp Thư Trai (Ln th đáp lại
Thư Trai) đã viết "Đương vi vị ch văn hành sự" (Việc đáng làm không thôi thẩm định văn
chương Băng Thanh dịch), ông không ch kết vi bng hữu cùng độ tui còn kết vi
các "đại lão" để xướng ho tâm tình hc tập như đã viết trong bài H Cơ Quận công trí thứ
vn (Ngày này, Bc Giang có nhiu bậc đại lão/ Chính là lúc nên kết để những người cao tui
cùng trò chuyn tâm tình Băng Thanh dịch).
Quý Đôn những bài ttặng đáp với mt s bng hu khi cùng đm nhim vic
tờng thi Hương tại Hải Dương (ông làm Đề điệu trường thi, tc Chánh ch khảo, điều hành
mi việc trong trường thi), d như thơ xướng ho với Thư Trai (Nguyễn Xuân Huyên, bn
t nhiều năm trước với Lê Quý Đôn, lúc đó đang làm Tham chính Hải Dương), Vu Trai (Dương
Quyết, làm Hiến sát s Hải Dương), Lỗ Trai (Phan Phiên, người đưc c đi làm nhiệm v
trường thi cùng Quý Đôn), Giám khảo Đào Duy Doãn (từng quen biết trước đó nhà nhc
ph Quý Đôn). Trong hoàn cảnh này, mi giao tình bng hu gn lin vi trng trách, va
phải đảm bo hoàn thành tt vic tìm kiếm nhân tài trong cuc thi nghiêm túc công bng, va
phi s phi hp thng nht gia các chc phận, đòi hỏi nhng bng hu phi giao thip
chng mc, l nghĩa, danh chính ngôn thuận, không s thân thiết riêng làm giảm s
trang nghiêm xem nh nhim v cm cân ny mực nơi trường thi, cũng không chc phn
khác nhau nơi trường thi làm tổn thương tình bạn cũ. Quý Đôn đã so sánh vic ông cùng
các bạn được gặp nhau nơi trường thi giống như là "đào lí" đưc hi t không ngi "nhiu ln
vung bút xướng thù" cùng nhau [1, tr.428-429]. Nguyễn Xuân Huyên cũng vui mng ho
rằng "được gp bạn đồng niên, tình thân làm m chiếc áo mùa thu/ Mừng được mt tháng
gần gũi mật thiết…/ Nếu th thu gom được hết tinh hoa đào lý/ Thì xin gắng gi trong công
việc cũng như xướng thù" [1, tr.432]. Dương Quyết cũng hoạ rng "Lúc rnh vic công, vui v
chuyn trò/ Trên toà, kính m phong cách thanh cao ca v điu khin cuc bàn lun" [1, tr.433-
434]. Đào Duy Doãn thì hoạ "May sao được cùng các bác trong công việc nơi trường thi/ S
vng v ca tôi s được gi vào ngòi bút lông th" [1, tr.435]. Phan Lê Phiên cũng hoạ rng công
vic t chức thi đưc làm cn thận nghiêm túc, đi vi bài làm của tử thì "mọi sai sót được
xem xét rõ ràng”, "văn chương đã cân nhắc k nng nh" [1, tr.430-431].
3.2. Nhng biu hin ca tình bng hu với đồng niên và đồng liêu trong thơ Lê Quý Đôn
3.2.1. Những người bn hu ích, tình bng hu gn lin trách nhim ca b tôi vi dân với nước
Trong chương Quý th ca Lun ng lưu lời Khng T nói đến ba kiu bng hu ích li
"hu trc, hữu lượng, hữu đa văn - bn ngay thng, bạn tín lượng, bn nghe nhiu hc rng" và ba
kiu bng hu tn hi "hu bin tch, hu thin nhu, hu bin nnh - bn hay làm b làm tch,
bn hay chiu chung, bn hay xo m"; cũng ba việc ưa thích đưc li ích là "nho tiết l nhc,
nhạo đạo nhân chi thin, nho đa hiền hu ưa theo lễ phép âm nhạc, ưa nhc nh điu thin ca
người, ưa gần gũi với nhiu bn hin" và ba việc ưa thích gây tổn hi "nho kiêu lc, nho dt
du, nho yến lc ưa kiêu sa dục lạc, ưa ci bời phóng ng, ưa yến tic vui say" [4, tr. 260-263].
T quan nim trên ca Khng T v bng hu hu ích, th thấy thơ Quý Đôn thể hin
rng nhng người ông kết giao bng hữu đều thuc kiu bn hu ích, ích cho nhau và cho
dân cho nước. H cũng ưa thích ba việc hữu ích ưa l nhạc, ưa điều thiện, ưa gần gũi với các
bn hin.
Nhng biu hin ca s ngay thẳng, tín lưng, nghe nhiu hc rng thì rt phong phú. Bn ngay
thng thì th thng thn khuyến khích nhau, thành thc với nhau, khun răn nhau, thể can
gián vua chúa, không y tin qu gối khom lưng, làm việc công không v li, không li thng
của nời khác mà thù gt, đi đng đưng hoàng, nghiêm trang l tiết, trung chính công tâm
Quý Đôn khi tiễn Nguyễn Huy Oánh đi sứ phương Bắc đã viết "Bn khuyến khích
nhau gng gỏi" ông đã thng thn khuyến khích bạn "hãy đem tài văn chương để tăng cường