
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Kiểm toán nội bộ (KTNB) đã được tổ chức ở nhiều doanh nghiệp
Việt Nam có qui mô lớn, trong đó có các công ty tài chính (CTTC) Việt
Nam. Bước đầu KTNB đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động quản
lý cũng như hoạt động kiểm soát nói chung tại các CTTC. Tuy nhiên,
KTNB vẫn chưa được triển khai đầy đủ và vận hành hữu hiệu tại các công
ty. Các nội dung kiểm toán cũng như tổ chức bộ máy và hoạt động kiểm
toán chưa đầy đủ, do vậy chưa đáp ứng đầy đủ vai trò trong quản trị doanh
nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: “Tổ chức
kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam”.
2. Tổng quan các nghiên cứu về kiểm toán nội bộ
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có khá nhiều nghiên cứu
của nhiều tác giả trên các khía cạnh và lĩnh vực khác nhau về KTNB.
Modern Internal Auditing của Victor Brink (1942): thay đổi quan
điểm phổ biến trước đó rằng KTNB chủ yếu thực hiện kiểm tra kế toán
và hỗ trợ cho kiểm toán viên (KTV) bên ngoài, thay vào đó cho rằng
một vai trò quan trọng hơn rất nhiều của KTNB là hỗ trợ cho các nhà
quản lý của đơn vị.
Brink’s Modern Internal Auditing, 6 ed. của Robert Moller
(2005): hướng dẫn cho KTNB thực hiện đánh giá đối với kiểm soát nội
bộ theo yêu cầu của Điều 404 Đạo luật Sabanes - Oxley; nhấn mạnh ý
nghĩa của việc hiểu và đánh giá rủi ro đối với KTNB, mối quan hệ giữa
KTNB và ủy ban kiểm toán (UBKT).
Brink’s Modern Internal Auditing, 7 ed. của Robert Moeller
(2009): tổng kết các vấn đề quan trọng nhất mà KTVNB chuyên nghiệp
cần biết để có thể thực hiện thành công các cuộc kiểm toán, cũng như
những vấn đề quan trọng nhất mà các công ty cần biết để có thể thành
lập một bộ phận KTNB hoạt động có hiệu quả.
Risk-based Auditing của Phil Griffiths (2005): nhấn mạnh vai trò,
điểm khác biệt giữa kiểm toán tuân thủ và kiểm toán trên cơ sở định
hướng rủi ro là ở chỗ kiểm toán trên cơ sở định hướng rủi ro xuất phát
từ nghiên cứu mục tiêu và đánh giá rủi ro ảnh hưởng tới mục tiêu để xác
định các thủ tục kiểm toán.
2
Khảo sát về KTNB của PWC (2007): KTNB cần phải thực hiện
kiểm soát rủi ro liên tục và đánh giá rủi ro đối với toàn bộ tổ chức
(enterprise-wide risk management) một cách thường xuyên.
Ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về KTNB
hoặc về kiểm soát trong một số lĩnh vực.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Quynh và cộng sự (1998)
về “Xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát trong quản lý vĩ mô và vi
mô ở Việt Nam” đã phân tích đánh giá thực trạng hoạt động kiểm tra,
kiểm soát nói chung, trong đó đề cập đến KTNB như là một yếu tố cấu
thành HTKSNB.
Tác giả Lê Thu Hằng (2007) với đề tài: “Nghiên cứu xây dựng
nội dung kiểm toán nội bộ doanh nghiệp vận tải ô tô”. Trong nghiên
cứu của mình, tác giả nhấn mạnh một nội dung quan trọng của KTNB là
thực hiện kiểm toán hoạt động.
Tác giả Phan Trung Kiên (2008) với đề tài “Hoàn thiện tổ chức
kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”. Trong
nghiên cứu này, tác giả đưa ra khái niệm “kiểm toán liên kết”, là sự kết
hợp giữa các loại hình kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ, tiêu
chí đánh giá trong kiểm toán hoạt động tại doanh nghiệp xây dựng.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy (2010) với đề tài: “Hoàn thiện tổ
chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam”: đưa ra các
giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại các tập đoàn kinh tế theo hướng
liên kết các hình thức kiểm toán theo hướng chú trọng kiểm toán hoạt
động, thay đổi cách thức tiếp cận kiểm toán, hoàn thiện mô hình tổ chức
KTNB tại các tập đoàn kinh tế.
Trong các công trình trên, chưa có đề tài nghiên cứu nào được
thực hiện đối với hoạt động KTNB tại các CTTC Việt Nam. Các CTTC
là một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tín
dụng, có các đặc thù riêng khác với các doanh nghiệp sản xuất, thương
mại. Hoạt động của các CTTC cũng chứa đựng nhiều loại rủi ro như rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro đầu tư,… cần được kiểm soát một cách
chặt chẽ.
Vì những nguyên nhân trên, Tác giả đã lựa chọn Đề tài nghiên
cứu “Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam”.
Đây là nghiên cứu đầu tiên về hoạt động KTNB tại các CTTC Việt
Nam. Nội dung của Đề tài không những tập trung đánh giá thực trạng
KTNB tại các CTTC Việt Nam với những đặc thù riêng trong hoạt