BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂTHAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Ngô Anh Cơ

TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC TỪ GÓC NHÌN THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 9210101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội - 2018

Công trình được hoàn thành tại:

Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

PGS.TS Nguyễn Ngọc Dũng Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS Lê Văn Sửu

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại:

Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

32 Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội

Vào hồi..........giờ.........ngày...........tháng.........năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại :

- Thư viện Quốc gia Việt Nam ;

- Thư viện Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam .

1 MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phần lớn, phần nhiều thông tin mà chúng ta có được mỗi ngày là

thông qua "con đường" thị giác. Trong nhiều phương thức truyền

thông qua giác quan của con người, truyền thông thị giác (TTTG)

được cho là quan trọng nhất, thậm chí có thể thay thế hoặc hỗ trợ cho

các phương thức truyền thông khác. Về sức mạnh của TTTG, Paul

Martin Leter, tác giả cuốn Truyền thông thị giác: thông điệp với hình

ảnh, đã đưa ra một thống kê về khả năng ghi nhớ thông tin: chỉ có

10% thông tin được nhớ khi nghe, 20% nhớ khi đọc và 80% nhớ khi

quan sát và thực hành. TTTG quan trọng như vậy, nhưng đến thời

điểm hiện tại ở Việt Nam hoàn toàn thiếu vắng công trình nghiên cứu

hay bài viết có liên quan đến TTTG, ở cả hai khía cạnh Mỹ thuật và

truyền thông.

TTTG là hình thức truyền tải một thông điệp hay cảm xúc nhất

định nào đó thông qua ngôn ngữ thị giác. Nói một cách cụ thể hơn,

chúng ta không sử dụng lời để nói chuyện với người xem, mà dùng

những hình ảnh, minh hoạ, màu sắc và bố cục...để diễn tả cảm xúc và

thông điệp. Thực tế hoạt động Mỹ thuật ứng dụng hay Mỹ thuật công

nghiệp ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây đều liên quan đến

truyền thông - giao tiếp. Trong nhiều loại hình nghệ thuật thị giác,

TKĐH thể hiện rõ nhất chức năng truyền thông - giao tiếp, chức năng

truyền thông - giao tiếp đã trở thành yếu tố sống còn của TKĐH hiện

đại. Nghiên cứu TTTG từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại qua tạo

hình sẽ mang đến cái nhìn khái quát về TTTG Việt Nam ở mọi khía

cạnh, quá trình nghiên cứu đồng thời chỉ ra những thành tựu và hạn

chế của TKĐH Việt Nam ở góc độ TTTG, từ đó rút ra kinh nghiệm để

TKĐH Việt Nam hiện đại phát triển vững chắc hơn trong hiện tại và

mạnh mẽ trong tương lai.

2

Năm 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới, trong bối cảnh kinh tế, văn

hoá - xã hội có nhiều thuận lợi đã tạo động lực cho TKĐH phát triển.

TKĐH Việt Nam ở giai đoạn này đã hình thành một số thể loại mới

mà trước 1986 chưa hề xuất hiện như TKĐH: nhận diện tổ chức, cá

nhân, thương hiệu, sản phẩm... các hình thức đồ hoạ giao diện người

dùng. TKĐH, ngoài thiết kế phẳng và tĩnh như trước đây đã kết hợp

với thiết kế trong không gian và môi trường động. Bên cạnh những

thuận lợi nêu trên, TKĐH Việt Nam từ 1986 đến nay còn được hỗ trợ

tích cực từ khoa học công nghệ hiện đại và thành tựu của kỷ nguyên

Số hoá. Có thể khẳng định, bắt đầu từ 1986 TKĐH Việt Nam đã phát

triển theo hướng hiện đại, thể hiện rõ chức năng truyền thông - giao

tiếp, biểu hiện sinh động của TTTG. TKĐH Việt Nam hiện đại trở

thành bộ phận quan trọng của TTTG Việt Nam.

Nghiên cứu TTTG từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại là

hướng tiếp cận nghiên cứu mới, kết quả nghiên cứu phần nào bù đắp

sự thiếu hụt những công trình nghiên cứu TTTG hiện nay. Nhận thức

được ý nghĩa, vai trò quan trọng của TKĐH Việt Nam hiện đại trong

mối quan hệ với TTTG là động lực để nghiên cứu sinh ( NCS) thực

hiện luận án tiến sĩ Truyền thông thị giác từ góc nhìn thiết kế đồ hoạ

Việt Nam hiện đại.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu để làm rõ ý nghĩa truyền thông thị giác qua tạo hình

của thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại đồng thời chỉ ra những thành

tựu, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là: yếu tố truyền thông thị

giác được biểu đạt qua tạo hình của thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại.

3.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu tập trung chủ yếu vào những

TKĐH Việt Nam hiện đại xuất hiện từ năm 1986 đến nay. Nghiên cứu

3 tiến hành khảo sát một số thể loại điển hình như: logo, áp phích, bao

bì và web.

4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý thuyết: Trong trường hợp nghiên cứu TTTG từ góc

nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại liên quan đến hai lý thuyết: lý thuyết

Gestalt và lý thuyết Ký hiệu học.

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương

pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu thứ cấp ;

Phương pháp thống kê, phân loại; Phương pháp nghiên cứu liên

ngành.

5. Câu hỏi nghiên cứu

- Câu hỏi 1: Tại sao thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại được cho

là biểu hiện sinh động của truyền thông thị giác Việ Nam.

- Câu hỏi 2: Truyền thông thị giác được thể hiện thông qua

những yếu tố nào của thiết kế đồ hoạ.

- Câu hỏi 3: Nghiên cứu truyền thông thị giác từ góc nhìn thiết kế

đồ hoạ Việt Nam hiện đại cần làm rõ những nội dung gì.

6. Giả thuyết nghiên cứu

- Giả thuyết 1: Mối quan hệ giữa thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện

đại và truyền thông thị giác được thể hiện thông qua ngôn ngữ biểu

đạt và chức năng truyền thông - giao tiếp.

- Giả thuyết 2: Chỉ thông qua ngôn ngữ tạo hình và hình thức

biểu đạt của thiết kế đồ hoạ người x em cảm nhận được dấu hiệu

truyền thông thị giác.

- Giả thuyết 3: Ý nghĩa của dấu hiệu hoặc tập hợp các dấu hiệu

thị giác trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại mang ý nghĩa truyền

thông thị giác.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

4

7.1. Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu khẳng định TKĐH Việt Nam

hiện đại là bộ phận quan trọng của TTTG Việt Nam. Nghiên cứu chỉ

ra hình thức biểu đạt của TKĐH Việt Nam hiện đại mang ý nghĩa

TTTG. Nghiên cứu xác định cơ sở lý luận liên quan đến nghiên cứu

TTTG nói chung trong đó có TTTG Việt Nam.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Công trình đầu tiên nghiên cứu liên quan

đến TTTG từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại. Kết quả nghiên cứu

có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong đào tạo và nghiên cứu

TTTG nói chung. Thông qua nghiên cứu đã chỉ ra những mặt mạnh và

hạn chế của TTTG Việt Nam từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại.

8. Cấu trúc của luận án

Luận án chia thành hai phần: chính văn 161 trang và phụ lục 29

trang. Ngoài phần mở đầu 8 trang, kết luận 6 trang, danh mục tài liệu

tham khảo 8 trang, nội dung của luận án gồm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của

đề tài (44 trang).

Chương 2. Truyền thông thị giác qua tạo hình của thiết kế đồ hoạ

Việt Nam hiện đại (38 trang).

Chương 3. Truyền thông thị giác qua biểu đạt và tiếp nhận tín

hiệu thị giác trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại (46 trang).

Chương 4. Luận bàn những điểm mạnh và hạn chế của truyền

thông thị giác từ góc nhìn thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại (33 trang)

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Những công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài

- Công trình nghiên cứu liên quan đến truyền thông thị giác:

Cuốn Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu biên dịch, 2008), tập hợp

5 các bài viết từ năm 1954 đến 1956 của Roland Barthes liên quan đến

mã ký hiệu. Ông cùng với Ferdinad de Saussure và Charles Sanders

Peirce góp công hình thành lý thuyết ký hiệu học đư ơng đại. Cuốn

Visual communication: Images With Massages (Truyền thông thị giác:

Hình ảnh với thông điệp, (2013) của Paul Martin Lester, một nghiên

cứu tổng hợp trên diện rộng những vấn đề liên quan đến TTTG. Nội

dung cuốn sách đã gợi mở hướng tiếp cận nghiên cứu TTTG ở góc

nhìn TKĐH. Cuốn, A History of Visual Communication Design

(Truyền thông thị giác một lịch sử), (2013) của hai tác giả Josef -

Muller Brockmann là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về

lịch sử TTTG. Cuốn Visual Thinking: Methods for making images

memorable (Tư duy thị giác: Nguyên tắc làm cho hình ảnh được ghi

nhớ), (1988) của Henry Wolf, nội dung cuốn sách xoay quanh vấn đề

tư duy và kỹ năng tạo dựng hình ảnh hấp dẫn về thị giác.

- Công trình nghiên cứu liên quan đến thiết kế đồ hoạ : Cuốn

Graphic Design A History (Lịch sử thiết kế đồ hoạ) , (2012) của

Stephen J. Eskilson, một nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ nhất về

Lịch sử TKĐH. Kết hợp nội dung cuốn sách này với cuốn A History of

Visual Communication Design để nhận ra mối quan hệ giữa TKĐH và

TTTG. Cuốn Graphic Design Basics (Thiết kế đồ hoạ cơ bản) , (2004)

của Amy e. Arntson là cuốn giáo khoa về TKĐH, lần đầu tiên đề cập

đến cảm nhận và nhận thức trong TKĐH. Tác giả nêu ra nhận định

quan trọng: “Giao tiếp là yếu tố sống còn của thiết kế đồ họa hiện

đại”. Richard Moore là một chuyên gia về TKĐH ở góc độ tiếp thị và

thiết kế, sau nhiều năm làm việc tại Việt Nam, ông đã xuất bản một số

cuốn sách liên quan đến thương hiệu: Marketting & Thiết kế (1995),

Thương hiệu dành cho Lãnh đạo (2004), Đầu tư cho Chiến lược Hình

ảnh Thương hiệu (2009).

1.1.2. Những công trình nghiên cứu của tác giả trong nước

6

- Công trình nghiên cứu liên quan đến truyền thông thị giác: Gồm

có một số công trình như cuốn sách 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá

(2008), (Bùi Quang Thắng chủ biên), trong đó có hai thuật ngữ liên

quan đến truyền thông được tác giả Bùi Hoài Sơn biên soạn: Truyền

thông đại chúng, Truyền thông (các mô hình). Nghiên cứu biểu tượng -

Một số hướng tiếp cận lý thuyết (2014) của Đinh Hồng Hải, phần viết

về Cấu trúc luận với nghiên cứu biểu tượng, tác giả chỉ ra lý thuyết

quan trọng là cấu trúc luận do nhà ngôn ngữ học Ferdinand de Saussure

đề xuất trong cuốn Ngôn ngữ học đại cương được mô hình hoá là Ký

hiệu = Cái biểu đạt và Cái được biểu đạt. Phần viết Nghiên cứu biểu

tượng từ góc nhìn ký hiệu học, đề cập sâu hơn về ký hiệu học trong việc

sử dụng cấu trúc luận và ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng. Bài viết Sự

bất tiện nghi của hình ảnh (2016) của Trần Trọng Vũ đăng trên tạp chí

Mỹ thuật & Nhiếp ảnh (số 10, 2016), viết về triển lãm ảnh của nghệ sĩ

Laurent Branavon tại L'Espace - Trung tâm văn hoá Pháp tại Hà Nội.

Tác giả bài viết chỉ ra sự đặc biệt trong cách tiếp cận thị giác hình ảnh

của nghệ sĩ Laurent Branavon: là sự biến hoá - tồn tại và không tồn tại,

mặc dù nó hiện hữu.

- Công trình nghiên cứu liên quan đến thiết kế đồ hoạ : Luận án

tiến sĩ Thiết kế đồ hoạ Việt Nam trong mối liên hệ với Mỹ thuật truyền

thống (2016), của tác giả Nguyễn Hồng Ngọc và luận án tiến sĩ Giá trị

mỹ thuật của bao bì hàng hoá công nghiệp (2011) của tác giả Nguyễn

Thị Hợp, là hai công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề

thuộc TKĐH. Cuốn sách Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa

Thăng Long – Hà Nội (2011) của hai tác giả Trần Lâm Biền và Trịnh

Sinh. Việc giới hạn những di sản văn hoá truyền thống trong khuôn

khổ của biểu tượng để nghiên cứu giá trị là cách tiếp cậ n hoàn toàn

mới của hai tác giả. Cuốn Tranh dân gian Việt Nam (1984) của

Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ. Mặc dù không đề cập đến yếu tố

7 TTTG, nhưng qua phân tích nội dung và ý nghĩa của các hình tượng,

gián tiếp các tác giả đã chỉ ra ý nghĩa TTTG trong tranh dân gian.

Cuốn sách Đồ họa cổ Việt Nam (2011), của Phan Cẩm Thượng, Lê

Quốc Việt và Cung Khắc Lược là cuốn sách đầu tiên tập hợp đầy đủ

các loại hình Đồ họa cổ và những vấn đề có liên quan đến đồ họa Việt

Nam. Với cách tiếp cận nghiên cứu các hiện vật là hướng đi mới, nhìn

nhận sự tồn tại của hiện vật để “truyền đi” một nội dung “giao tiếp”

chứ không đơn thuần để làm đẹp.

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Một số thuật ngữ và khái niệm liên quan

- Thuật ngữ Truyền thông: Truyền thông là quá trình trao đổi

thông điệp giữa các nhóm thành viên hay nhóm người trong xã hội

nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau. Trong trường hợp nghiên cứu đề

tài luận án, cách hiểu về thuật ngữ truyền thông: Truyền thông là hành

vi truyền đạt ý nghĩa từ một cá thể hay tập thể đến một cá thể hay tập

thể khác thông qua việc hiểu và sử dụng lẫn nhau dấu hiệu và quy tắc

ký hiệu học.

- Thuật ngữ Thị giác: Thị giác là khả năng nhìn được một đối

tượng hay sự vật trong môi trường ánh sáng, thông qua thị giác con

người cảm nhận các dấu hiệu như màu sắc, hình, không gian và

chuyển động của đối tượng, đó là các ý tưởng và thông tin trong các

hình thức có thể được đọc hoặc n hìn".

- Khái niệm Truyền thông thị giác: Truyền thông thị giác là một

khái niệm ghép từ hai thuạt ngữ: truyền thông và thị giác, trong tiếng

Anh gọi là Visual communication. Khi chuyển sang tiếng Việt, có một

sso cách gọi: Truyền thông thị giác, Giao tiếp thị giác, Truyền thông

hình ảnh hay Truyền thông trực quan. Trong nghiên cứu đề tài luận án

sẽ sử dụng visual communication là truyền thông thị giác.

8

Tham khảo một số định nghĩa, NCS nêu ra định nghĩa truyền

thông thị giác phù hợp với nội dung đề tài luận án: Truyền thông thị

giác là hình thức truyền tải một thông điệp hay cảm xúc nhất định nào

đó thông qua thị giác. Không sử dụng lời nói để nói chuyện với người

xem, mà dùng những hình ảnh, minh họa, màu sắc, bố cục...để diễn tả

cảm xúc và thông điệp. Trong truyền thông thị giác, một thông điệp

hình ảnh kết hợp với văn bản sẽ tạo nên một sức mạnh lớn hơn để

thông tin, giao tiếp, giáo dục hoặc thuyết phục một đối tượng hoặc

nhóm đối tượng nhận tin.

- Khái niệm Thiết kế đồ hoạ: Thiết kế đồ hoạ là những gi ải pháp

trên mặt phẳng hai chiều. Những lĩnh vực mới của thiết kế web và đồ

hoạ chuyển động mở rộng ra lĩnh vực 3 chiều (3D) và những ứng dụng

theo thời điểm 4 chiều (4D). Nền tảng quan trọng của TKĐH bao gồm

các yếu tố cơ bản của đồ hoạ và nguyên lý thiết kế. Một TKĐH được

cho là "tốt" phải có sự kết hợp hài hoà và chia sẻ lẫn nhau giữa các

nguyên lý thiết kế như: sự tương phản, sự cân bằng, nhịp điệu, và sự

thống nhất.

- Khái niệm Thiết kế đồ hoạ hiện đại: TKĐH hiện đại phản ánh

được sự tác động của công nghệ mới, sự kết hợp với máy tính, mối

quan hệ giữa phương tiện và thông điệp giao tiếp , tạo ra một hoặc một

nhóm sản phẩm có khả năng liên kết - kết nối với một đối tượng khác .

TKĐH hiện đại là giao tiếp bằng hình ảnh được phát triển trên nền

tảng TKĐH truyền thống hai chiều (2D) mở rộng ra lĩnh vực ba chiều

(3D) và những ứng dụng theo thời điểm bốn chiều (4D) , trình bày

trong cả hai môi trường thực và ảo.

- Khái niệm Nhận thức thị giác: Nhận thức thị giác là một dạng

của nhận thức cảm tính, đi từ cảm nhận dấu hiệu thị giác đến lựa chọn

và thông qua một số hoạt động tinh thần để nhận thức ý nghĩa. Nhận

9 thức thị giác là sự nhận thức thực tại khách quan một cách cụ thể, tr ực

tiếp bằng giác quan thị giác.

1.2.2. Khái quát về thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại từ 1986

đến nay

TKĐH Việt Nam hiện đại ở giai đoạn này được ghi nhận thành

công ở thể loại thiết kế logo, trong rất nhiều thiết kế logo được sử

dụng rộng rãi phải kể đến logo Petrorimex (1989) của Vũ Hiền. Sự ra

đời logo Petrorimex, đồng thời hình thành một loạt của hàng bán lẻ

Xăng dầu trên cả nước được quy chuẩn về bảng hiệu, màu sắc, kiểu

chữ, thiết kế nội thất, trang phục và thẻ nhân viên... đó là lý do để

đánh giá logo Petrorimex mang tính thương mại đầu tiên ở Việt Nam -

biểu hiện sinh động TKĐH hiện đại. Ngoài thiết kế logo, các hình

thức TKĐH quảng cáo như áp phích giới thiệu và quảng cáo sản

phẩm, bao bì, tờ rơi, tờ gấp...cũng phát triển mạnh mẽ. TKĐH ở giai

đoạn này chuyển dần theo hướng truyền thông - giao tiếp. Bắt đầu từ

năm 1986, máy tính hỗ trợ TKĐH xuất hiện ở Việt Nam, đã tạo nên

một cuộc "cách mạng" thực sự trong việc sử dụng chữ và hình ảnh

trong TKĐH nó rút ngắn thời gian tổng hợp, trình bày và liên kết các

thành phần của một sản phẩm TKĐH. Sự tham gia của máy tính và số

hoá vào quá trình TKĐH đã thúc đẩy các loại hình TKĐH quảng cáo

tấm lớn phát triển, bao gồm cả quảng cáo động. Đồng thời trong

TKĐH xuất hiện thuật ngữ thiết kế đồ hoạ đồng bộ và thiết kế đồ hoạ

hệ thống nhận diện để tạo dựng hình ảnh đại diện cho tổ chức, cá

nhân, sản phẩm... Hai dạng thức thiết kế này xuất hiện cho thấy

TKĐH đã quan tâm đến liên kết các thành phần đơn lẻ thành một hệ

thống nhất quán về hình thức và nội dung, thể hiện rõ chức năng

truyền thông - giao tiếp. Trong khoảng 20 năm trở lại đây, TKĐH Việt

Nam đã tham gia thiết kế một số thể loại mới như: TKĐH giao diện

người dùng, thiết kế web, thiết kế game, đồ hoạ chuyển động, TKĐH

10 thông tin, được thể hiện trong cả môi trường tĩnh và động, là những

thể loại trước đây chưa từng xuất hiện ở Việt Nam.

1.2.3. Mối quan hệ giữa thiết kế đồ hoạ và truyền thông thị giác

- Mối quan hệ trong ngôn ngữ biểu đạt: Từ những dấu hiệu: màu

sắc, hình, không gian và chuyển động trong tạo hình của TKĐH người

xem cảm nhận dấu hiệu TTTG. Ý nghĩa TTTG trong TKĐH được

hình thành trong tâm trí người xem bắt đầu từ những dấu hiệu cảm

nhận đầu tiên.

- Mối quan hệ trong chức năng truyền thông - giao tiếp: TKĐH

đang phát triển theo định hướng truyền thông và giao tiếp, chức năng

truyền thông và giao tiếp của TKĐH thể hiện ở khả năng trao đổi

thông tin qua hình ảnh - là dạng thức một thông điệp truyền thông.

1.2.4. Lý thuyết áp dụng

- Lý thuyết Gestalt đề cập đến nội dung: mắt con người ghi nhận

tất cả các kích thích thị giác, trong khi não sắp xếp các cảm giác đó

thành một hình ảnh nhất quán. Nếu không có một bộ não liên kết các

yếu tố cảm giác bộ phận, hiện tượng toàn bộ sẽ không diễn ra. Quan

điểm này được cụ thể bằng bốn nguyên tắc hay còn gọi là luật Gestalt

đó là: giống nhau, tiệm cận, liên tục, và số phận chung.

- Ký hiệu học là lý thuyết nhận thức của nhận thức thị giác, nó được

coi là lý thuyết định hướng trong nghiên cứu TTTG, ký hiệu học là

nghiên cứu khoa học của dấu hiệu. Nghiên cứu về ký hiệu học trong

TKĐH chỉ ra mỗi tín hiệu đều chứa ý nghĩa thông điệp truyền thông, cho

dù là chữ hay hình ảnh. Thông qua ký hiệu học để thấy được tính chất của

tín hiệu thị giác và vai trò của các mã tín hiệu thị giác trong chức năng

truyền thông - giao tiếp từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại.

Tiểu kết

11

Mặc dù TKĐH Việt Nam đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ

khác nhau. Tuy nhiên, hoàn toàn thiếu vắng những nghiên cứu để cập

đến TTTG trong TKĐH, trong khi đó TKĐH Việt Nam đã và đang

phát triển theo hướng truyền thông và giao tiếp, là biểu hiện sinh động

về TTTG. Nghiên cứu TTTG từ góc nhìn TKĐH, nguồn tài liệu hỗ trợ

chủ yếu là gián tiếp hoặc có nội dung gần.

Việc xác định một số thuật ngữ, khái niệm có liên quan là cơ sở

để xác định hướng tiếp cận nghiên cứu và lý thuyết áp dụng. Trong

nhiều lý thuyết liên quan đến nghiên cứu truyền thông , có hai lý thuyết

liên quan trực tiếp đến nghiên cứu TTTG là: lý thuyết Gestalt và lý

thuyết Ký hiệu học. TKĐH Việt Nam hiện đại là đối tượng nghiên cứu

của TTTG trong nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, việc khái quát về

TKĐH Việt Nam hiện đại từ 1986 đến na y và xác định mối quan hệ

giữa TKĐH với TTTG là cần thiết.

Chương 2

TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC QUA TẠO HÌNH

CỦA THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

2.1. Dấu hiệu truyền thông thị giác thông qua ngôn ngữ tạo

hình trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại.

2.1.1. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố màu sắc trong

thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại

Dấu hiệu TTTG từ yếu tố màu sắc trong TKĐH được hình thành

từ ba phương pháp mô tả màu sắc: Phương pháp khoa học, phương

pháp so sánh và phương pháp chủ quan.

2.1.2. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố hình trong th iết

kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại

Trong cảm nhận TTTG, ngoài dấu hiệu màu sắc bộ não phản ứng

với những thuộc tính phổ biến của hình , gồm ba hình thức: điểm,

đường, và hình dạng.

12

2.1.3. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố không gian trong

thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại

Yếu tố không gian trong tạo hình của TKĐH nhìn ở góc độ TTTG

không đơn thuần mang ý nghĩa không gian "cơ học", không gian còn

hàm chứa chiều sâu ý nghĩa TTTG. Yếu tố không gian trong tạo hình

của TKĐH giúp người xem phân biệt đối tượng được cho là quan trọng.

Không gian hỗ trợ nhận thức ý nghĩa TTTG qua tạo hình trong TKĐH

bao gồm: không gian, kích thước, màu sắc, ánh sáng, kết cấu, can thiệp,

thời gian, và phối cảnh.

2.1.4. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố chuyển động

trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại

Các dấu hiệu màu sắc, hình và không gian tham gia vào sự

chuyển động để tạo nên những phẩm chất cơ bản của hình ảnh, làm

cho các tế bào trong vỏ não đáp ứng thị giác một cách nhanh chóng

với một kích thích. Nghiên cứu TTTG từ góc nhìn TKĐH liên quan

đến hai loại chuyển động: chuyển động đồ hoạ và chuyển động ngụ ý.

Chuyển động đồ hoạ do người làm TKĐH chủ động thiết lập, để buộc

mắt người xem phải di chuyển theo . Chuyển động ngụ ý hay còn là

chuyển động ngầm được hình thành bởi người xem tự cảm nhận một

hình ảnh duy nhất trong sự yên tĩnh của mắt.

2.2. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác

qua tạo hình của thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại

2.2.1. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác

giống nhau và không giống nhau trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam

hiện đại

Luật - giống nhau trong lý thuyết Gestalt cho rằng những dấu

hiệu tương tự sẽ được tự động nhóm lại bởi bộ não. Sự giống nhau

hoặc khác nhau của các dấu hiệu thị giác đến từ màu sắc, hình dạng,

kích thước, cấu trúc, giá trị, và hướng.

13

2.2.2. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác

tiệm cận và không tiệm cận trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại

Sự tiệm cận trong cảm nhận dấu hiệu TTTG là người xem liên

kết chặt chẽ hơn với những đối tượng ở gần nhau hơn là những đối

tượng xa. Tương tự như vậy, trong TKĐH hai yếu tố đứng gần nhau

sẽ được xem là liên quan gần gũi hơn so với một yếu tố ở cách đó rất

xa. Tiệm cận cũng là một yếu tố thị giác phản ánh về không gian do

người xem tưởng tượng.

2.2.3. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác kết

nối liên tục và không kết nối liên tục trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam

hiện đại

Bộ não không thích sự thay đổi đột ngột hoặc bất thường trong

một dòng chuyển động của mắt. Nói cách khác, não tìm càng nhiều

càng tốt sự tiếp nối trơn tru của một chuyển động đồ hoạ hay ngụ ý

trong TKĐH để hình dung về ý nghĩa. Các dòng chuyển động hình

thành có thể là một hình minh hoạ, hoặc một số đối tượng được sắp

xếp cùng nhau theo một đường tưởng tượng. Người xem quan tâm đến

những đối tượng thuộc về một dòng liên tục và tách ra về mặt tinh

thần với những đối tượng không thuộc dòng đó.

2.2.4. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác có

chung đặc điểm và không có chung đặc điểm trong thiết kế đồ hoạ

Việt Nam hiện đại

Trong TKĐH, nhà thiết kế sử dụng các yếu tố đồ hoạ có chung

đặc điểm về màu sắc, hình, không gian và chuyển động để hướng tâm

trí người xem đến nội dung chính của thông điệp truyền thông. Tuy

nhiên, một trong số những yếu tố đó không có cùng đặc điểm sẽ tạo

nên sự căng thẳng cho người xem, bởi họ không nhìn thấy nó như là

một phần của toàn bộ đang phát triển theo một định hướng.

Tiểu kết

14

Chương 2, trình bày hai nội dung quan trọng là tiền đề để người

xem hiểu được ý nghĩa TTTG trong TKĐH nói chung và TKĐH Việt

Nam hiện đại nói riêng, đó là vai trò của dấu hiệu và tập hợp dấu hiệu

thị giác liên quan đến yếu tố TTTG qua tạo hình của TKĐH Việt Nam

hiện đại. Dấu hiệu TTTG trong TKĐH được người xem tiếp nhận

thông qua phản ứng thị giác vỏ não với bốn thuộc tính căn bản là: màu

sắc, hình, không gian và chuyển động Dấu hiệu đầu tiên mới chỉ là

những ám hiệu có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau. Lý thuyết Gestalt

chỉ ra bốn luật thị giác trong việc liên kết các dấu hiệu thị giác đơn lẻ

thành những tập hợp dấu hiệu thị giác có sự giống nhau, sự tiệm cận ,

sự liên tục, và đặc điểm chung. Sự liên kết các dấu hiệu thị giác theo

nguyên tắc Gestalt thực chất diễn ra một cách bản năng và tự động.

Các nhà TKĐH thường hay sử dụng hiệu ứng "bẻ cong" những luật

này, để tạo nên những hình ảnh đặc biệt và đáng nhớ. Bốn luật Gestalt

là quan trọng với người xem để hiểu ý nghĩa một thông điệp TTTG

trong TKĐH - hiểu ý nghĩa của yếu tố thành phần sẽ giúp người xem

hiểu rõ hơn toàn bộ ý nghĩa của thông điệp TTTG.

Chương 3

TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC QUA BIỂU ĐẠT VÀ TIẾP NHẬN

TÍN HIỆU THỊ GIÁC TRONG THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM

HIỆN ĐẠI

3.1. Truyền thông thị giác qua tính chất của tín hiệu thị giác

3.1.1. Truyền thông thị giác qua tính hình tượng của tín hiệu

thị giác

Tín hiệu mang tính hình tượng, đơn giản là để giải thích cho tất

cả những điều có ý nghĩa mà nó đại diện. V í dụ, hình mũi tên là gần

giống với ý nghĩa chỉ "phương hướn g" mà hình mũi tên làm đại diện.

Trong xã hội tiêu dùng hiện đại, TKĐH đang hướng đến sự tối giản

15 bằng cách sử dụng nhiều hơn những tín hiệu mang tính hình tượng để

giao tiếp với người xem.

3.1.2. Truyền thông thị giác qua tính chỉ dẫn của tín hiệu thị

giác

Tính chất của tín hiệu mang tính chỉ dẫn là sự kết nối thông

thường và hợp lý với những ý nghĩa hay ý tưởng mà nó đại diện, nó

không phải là sự tương đồng trực tiếp với đối tượng. Do đó việc giải

thích ý nghĩa một tín hiệu thị giác mang tính chỉ dẫn thường là khó và

mất nhiều thời gian hơn so với dấu hiệu mang tính hình tượng. Dấu

hiệu thị giác mang tính chỉ dẫn trong TKĐH để người xem chuyển đổi

tín hiệu nhìn thấy sang ý nghĩa khác.

3.1.3. Truyền thông thị giác qua tính biểu tượng của tín hiệu

thị giác

Loại thứ ba của tín hiệu thị giác là trừu tượng nhất. Các tín hiệu

không có sự kết nối hợp lý hoặc cùng cách biểu đạt cho những ý nghĩa

mà nó đại diện. Vì lý do đó, các yếu tố văn hoá, xã hội ảnh hưởn g

nhiều đến ý nghĩa tín hiệu mang tính biểu tượng. Từ ngữ, con số, màu

sắc, cử chỉ, cờ, trang phục, âm nhạc và các hình ảnh tôn giáo tất cả

đều được coi là biểu tượng. Bởi vì những biểu tượng thường có gốc rễ

sâu xa trong văn hoá của một nhóm đối tượng cụ thể, với ý nghĩa được

truyền từ đời này qua đời khác. Tín hiệu mang tính biểu tượng có ý

nghĩa hơn tín hiệu mang tính hình tượng và chỉ dẫn.

3.2. Truyền thông thị giác qua các mã tín hiệu thị giác

Tất cả các yếu tố tạo nên một thông điệp hình ảnh trong TKĐH

Việt Nam, cho dù là dẫn dắt chính hay chỉ hỗ trợ đều được diễn ra cùng

một thời điểm trong mắt người xem, họ tự do xem xét chúng trong bất

kỳ thứ tự nào. Mỗi bộ phận là một liên kết tạo thành một chuỗi các ý

nghĩa, sự liên kết đó được gọi là mã, mỗi mã là sự pha trộn của nhiều ý

tưởng và yếu tố. Vai trò của mã trong TKĐH nói chung là để biểu đạt

16 và giải thích ý nghĩa của các tín hiệu thị giác, sự tổng hoà ý nghĩa các

tín hiệu thị giác truyền tải ý nghĩa một thông điệp truyền thông hay nói

cách khác đó chính là cái được biểu đạt thông qua tạo hình của TKĐH.

Lý thuyết ký hiệu học chỉ ra bốn loại mã: mã hoán dụ, mã tương tự, mã

hoán vị và mã súc tích. Trong TKĐH, vai trò của các mã tín hiệu thị

giác trong biểu đạt ý nghĩa TTTG rất ít khi xuất hiện đơn lẻ mà thường

kết hợp cùng nhau hoặc tự thân trong mỗi hình thức mã đã ẩn chứa vai

trò của các mã tín hiệu khác. Mã hoán dụ là một nhóm tín hiệu thị giác

cho người xem giả định về ý nghĩa về những gì họ nhìn thấy. Bằng cách

đó mã hoán dụ liên quan nhiều đến tính chất chỉ dẫn của tín hiệu thị

giác. Mã tương tự là một nhóm tín hiệu thị giác để người xem so sánh

trong tâm trí, nó hỗ trợ đến ký ức và liên tưởng. Mã hoán vị, bất cứ khi

nào có một chuyển đổi ý nghĩa từ các nhóm tín hiệu thị giác, một mã

hoán vị được sử dụng. Mã súc tích, trong nhiều khía cạnh là loại mã thú

vị nhất. Mã súc tích, là một nhóm tín hiệu thị giác kết hợp lại để tạo

thành một thông điệp hỗn hợp mới.

3.3. Tiếp nhận truyền thông thị giác và các yếu tố tác động

Người xem nhìn được và hiểu ý nghĩa đúng của đối tượng là

thông qua một số hoạt động tinh thần như: ký ức, đối chiếu, kỳ vọng,

chọn lọc, quen thuộc, sự nổi bật, sự hoà hợp, văn hoá, và ngôn ngữ.

3.3.1. Ký ức trong tiếp nhận truyền thông thị giác

Ký ức là hoạt động tinh thần quan trọng nhất liên quan đến tiếp

nhận chính xác ý nghĩa TTTG trong TKĐH, ký ức tạo sự liên kết thực

tại với tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ bao gồm cả hình ảnh

của đối tượng. Ký ức là hoạt động tinh thần đầu tiên diễn ra trong quá

trình nhận thức ý nghĩa TTTG. Trong một TKĐH, nếu ở đó không có

những tín hiệu thị giác làm cho người xem liên hệ với quá khứ hoặc

những gì đã từng trải nghiệm, họ sẽ nhanh chóng bỏ qua.

3.3.2. Sự so sánh trong tiếp nhận truyền thông thị gi ác

17

Con người thường hình thành những đặc điểm, tính cách của đối

tượng nhìn thấy thông qua các hình dạng kỳ quặc do cảm nhận hay

nghĩ đến từ đó trạng thái tinh thần so sánh với ký ức hình thành tổng

quát về đối tượng đó.

3.3.3. Sự kỳ vọng trong tiếp nhận truyền thông thị giác

Sự kỳ vọng là hoạt động tinh thần của người xem xảy ra trước khi

họ nhìn thấy một sản phẩm TKĐH hoặc một đối tượng trong thực tế.

Người xem thường kỳ vọng quá nhiều vào một hình ảnh hoặc tên gọi

của sản phẩm... trước khi nó xuất hiện, do vậy thường dẫn đến nhận

thức sai hoặc bỏ qua ý nghĩa đích thực của thiết kế.

3.3.4. Sự lựa chọn trong tiếp nhận truyền thông thị giác

Hầu hết những gì mọi người nhìn thấy từ một thông điệp hình

ảnh là một trải nghiệm thị giác phức tạp, nó không phải là một phần

của phản ứng có ý thức, nó hoàn toàn vô thức và tự động , do đó một

số lượng lớn các tín hiệu thị giác nhập vào và rời khỏi tâm trí người

xem mà không được xử lý. Người xem thường chỉ tập trung vào

những chi tiết quan trọng trong hình ảnh. Khi mắt tìm thấy đối tượng

được cho là quan trọng hoặc được kỳ vọng, tâm trí người xem đột

nhiên bị gắn chặt vào đối tượng đó và thường bỏ qua những đối tượng

khác cũng góp phần làm nên ý nghĩa của thông điệp TTTG.

3.3.5. Yếu tố văn hoá và ngôn ngữ trong tiếp nhận truyền thông

thị giác

Văn hoá có liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống con người

thông qua các hoạt động như nói chuyện, trang phục, ẩm thực, ứng sử

xã hội, thực hành tôn giáo, các biểu tượng tôn giáo, quốc huy và quốc

kỳ, một kiểu tóc, trang phục...tất cả đều có ý nghĩa riêng và hàm chứa

yếu tố văn hoá. Yếu tố văn hoá - văn hoá truyền thống sử dụng trong

TKĐH cho mục đích truyền thông giao tiếp là nhân tố tác động mạnh

đến hoạt động tinh thần, làm cho đối tượng tiếp nhận thông điệp thuận

18 lợi trong việc liên hệ với ký ức. Tín hiệu mang yếu tố văn hoá thường

là tín hiệu nổi bật nên được lựa chọn đầu tiên bởi sự quen thuộc và dễ

hoà hợp để từ đó liên tưởng với những gì đã biết. Yếu tố văn hoá, giúp

cho nhà thiết kế mã hoá thông điệp thuận lợi, người nhận thông điệp

có khả năng giải mã nhanh hơn để nhận thức ý nghĩa sâu sắc và ghi

nhớ lâu hơn thông điệp truyền thông. Mặc dù mọi thứ người xem nhìn

thấy bằng đôi mắt, những hầu hết mọi người suy nghĩ bắt đầu từ ngôn

từ, chữ viết và ngôn ngữ là bước đầu tiên để con người hình dung về

hình ảnh. Do đó, ngôn ngữ giống như bộ nhớ và văn hoá tác động đến

hiểu biết sâu sắc của con người và ghi nhận giá trị tiếp theo của hình

ảnh. Một trong những hình thức mạnh nhất để biểu đạt TTTG tr ong

TKĐH là ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh.

Tiểu kết

Chương 3. nghiên cứu yếu tố TTTG qua biểu đạt và tiếp nhận tín

hiệu thị giác trong TKĐH Việt Nam hiện đại. Nội dung nghiên cứu

xoay quanh những vấn đề liên quan tín hiệu thị giác, là nhân tố quan

trọng tạo nên ý nghĩa TTTG. Một dấu hiệu thị giác chỉ trở thành tín

hiệu thị giác khi trong đó mỗi dấu hiệu có hàm chứa cái biểu đạt + cái

được biểu đạt hay nói đơn giản hơn đó là hình thức + nội dung của tín

hiệu thị giác. Nội dung đầu tiên của chương 3, nghiên cứu về cái biểu

đạt TTTG ở hai khía cạnh là tính chất của các tín hiệu thị giác và vai

trò của các mã tín hiệu thị giác. Lý thuyết ký hiệu học chỉ ra ba loại

khác nhau của tín hiệu thị giác mang tính chất: tín hiệu thị giác biểu

đạt tính chất hình tượng, tín hiệu thị giác biểu đạt tính chỉ dẫn, tín hiệu

thị giác biểu đạt tính hình tượng. Thông qua tính chất của tín hiệu thị

giác để đối tượng tiếp nhận thông điệp TTTG giả định về ý nghĩa của

các tín hiệu thị giác nhìn thấy - chưa phải ý nghĩa đúng. Nội dung thứ

hai, nghiên cứu đề cập đến TTTG biểu hiện qua các mã tín hiệu trong

TKĐH Việt Nam hiện đại. Mỗi cá nhân thường hình thành ý nghĩa của

19 các tín hiệu rất khác nhau, và thường liên kết ý nghĩa đơn lẻ của tín

hiệu cho toàn thể ý nghĩa của thông điệp TTTG, t rong khi đó mỗi tín

hiệu là một chuỗi các ý nghĩa. Chính vì vậy, ký hiệu học chỉ ra khái

niệm mã bao gồm: mã tương tự, mã hoán vị, và mã súc tích để lý giải

những hình thái khác nhau của tín hiệu trong việc biểu đạt ý nghĩa

TTTG để xác định ý nghĩa đúng. N ội dung thứ ba, nghiên cứu đề cập

đến quá trình tiếp nhận TTTG và các yếu tố tác động. Thông qua tính

chất của tín hiệu và vai trò của các mã tín hiệu người xem dần hình

thành ý nghĩa TTTG, quá trình hình thành và nhận thức ý nghĩa TTTG

ở người xem phải thông qua một số hoạt động tinh thần có liên quan

đến vai trò của: ký ức, sự so sánh, sự kỳ vọng, sự lựa chọn, yếu tố văn

hoá và ngôn ngữ.

Chương 4

LUẬN BÀN NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ HẠN CHẾ

CỦA TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC TỪ GÓC NHÌN

THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Nghiên cứu cho thấy TKĐH Việt Nam hiện đại đã và đang phát

triển theo định hướng truyền thông - giao tiếp. Điểm mạnh chung nhất

của TKĐH Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp to lớn

của TKĐH vào quá trình phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Điểm

hạn chế lớn nhất của TKĐH, đến từ chính thế mạnh của nó là truyền

thông - giao tiếp, lý do hạn chế có nguyên nhân chủ quan và khách

quan. Từ góc nhìn cá nhân, lịch sử, kỹ thuật, đạo đức và văn hoá để

chỉ ra những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm rút ra.

4.1. Điểm mạnh và hạn chế từ góc nhìn cá nhân

Lần đầu tiên khi tiếp cận với một sản phẩm TKĐH hầu hết người

xem đều đưa ra một kết luận nhanh chóng về hình ảnh mà họ cảm

nhận, nó hoàn toàn dựa trên một phản ứng cá n hân. Tuy nhiên, quan

20 điểm mang tính cá nhân đó hết sức quan trọng, bởi nó "tiết lộ" nhiều

vấn đề về người đưa ra ý kiến và đối tượng được hỏi ý kiến. Thông

qua góc nhìn cá nhân, cho thấy một TKĐH cho mục đích TTTG đạt

hiệu quả phụ thuộc nhiều vào khả năng giải mã thông điệp của người

xem và kỹ năng mã hoá thông điệp của nhà thiết kế , tương ứng với bối

cảnh kinh tế - văn hoá, xã hội nơi thông điệp TTTG đó được trình bày.

4.2. Điểm mạnh và hạn chế từ góc nhìn lịch sử

Mỗi TKĐH được trình bày, từ kiểu chữ đến hình ảnh đều có một

hoàn cảnh lịch sử độc đáo được thiết lập trong sự nỗ lực và sáng tạo

không ngừng của nhà thiết kế để thúc đẩy một phương tiện truyền

thông. TKĐH cho mục đích TTTG, ở khía cạnh lịch sử luôn cho thấy

xu hướng kỹ thuật được áp dụng, quan điểm đạo đức, quan điểm nghệ

thuật của nhà thiết kế và người xem trong quá khứ.

4.3. Điểm mạnh và hạn chế từ góc nhìn kỹ thuật

Với sự hiểu biết về các kỹ thuật liên quan đến việc trình bày một

TKĐH cho mục đích truyền thông, là cơ sở để các nhà thiết kế xác

định mức độ cần thiết về kỹ thuật áp dụng, phương pháp tiếp cận hay

vấn đề tài chính phù hợp với nội dung và mục đích của côn g việc

truyền thông. Việc xác định một TKĐH “đẹp” sẽ luôn là vấn đề khó

khăn, sự quyết đoán thường mang tính chủ quan. Đôi khi giá trị của

một TKĐH cho mục đích TTTG sẽ thay đổi theo thời gian và thường

khác nhau giữa các nền văn hoá. Trong tổng hòa các yếu tố tạo nên

một TKĐH, hầu hết các nhà thiết kế đều dựa trên bốn gợi ý phổ quát

để hướng đến một thiết kế “tốt” đó là: tương phản, cân bằng, nhịp

điệu, và thống nhất. Mỗi một sản phẩm TKĐH Việt Nam hiện đại luôn

có một lý do rõ ràng và nhất quán để sử dụng một trong bốn gợi ý này.

4.4. Điểm mạnh và hạn chế từ góc nhìn đạo đức

Đánh giá ý nghĩa tích cực về đạo đức từ một thông điệp TTTG

trong TKĐH Việt Nam hiện đại để chỉ ra những gì có liên quan đến

21 đạo đức chuẩn mực, là phù hợp với môi trường văn hoá - xã hội của

người xem. Một TKĐH cho mục đích TTTG phải cân bằng ba cách

tiếp cận khác nhau: chủ nghĩa vị lợi, chủ nghĩa khoái lạc, và chiết

trung. Triết lý của chủ nghĩa vị lợi nhấn mạnh những lợi ích giáo dục,

với thông điệp hình ảnh đó là dễ xem, rõ ràng và hữu ích với số đông.

Tập trung quá vào triết lý khoái lạc có thể dẫn đến các thiết kế thu hút

sự chú ý chỉ vì mục đích thỏa mãn các lợi ích thương mại, gây sốc cho

người xem hoặc trình bày một quan điểm mang tính cá nhân. Giữa hai

thái cực này là phương pháp tiếp cận chiết trung, ủng hộ quyết định

thiết kế dựa trên một “trung gian” giữa hai kiểu trình bày cực đoan.

4.5. Điểm mạnh và hạn chế từ góc nhìn văn hoá

Nhận thức ý nghĩa TTTG trong TKĐH Việt Nam hiện đại ở góc

nhìn văn hoá có liên quan đến việc nhận dạng đối tượng được biểu

tượng hoá và tính ẩn dụ, tính ẩn dụ của biểu tượng hoá sử dụng trong

một hình ảnh mang tính thông điệp để xác định ý nghĩa của nó đối với

xã hội. Những tín hiệu thị giác được cho là biểu tượng hoá được sử

dụng phổ biến trong TKĐH thường là những anh hùng, người nổi

tiếng, hình mẫu văn hoá, thái độ văn hoá, phong cách nghệ thuật, cách

sử dụng ngôn từ... Những điểm mạnh và hạn chế của yếu tố TTTG

trong TKĐH Việt Nam hiện đại từ góc nhìn văn hoá còn được xem xét

trong sự ảnh hưởng của các trào lưu nghệ thuật trên thế giới, đặc biệt

là các trào lưu nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại và sau này là thời

kỳ số hoá (1984 đến nay).

Tiểu kết Nội dung chương 4 tập trung phân tích những điểm mạnh, hạn chế của TTTG từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại và kinh nghiệm rút ra. Mỗi cá nhân có thể có quan điểm khác nhau về ý nghĩa thông điệp TTTG, phải vượt qua những quan điểm mang tính cá nhân để rút

22 ra kết luận chung về môi trường, văn hoá, bối cảnh lịch sử mà từ đó thông điệp TTTG được hình thành. Lĩnh vực TTTG có liên quan đến lịch sử phát triển các phương tiện truyền thông, thực tế cho thấy hoạt động TTTG đã thay đổi rất nhanh bằng việc áp dụng phương tiện truyền thông mới. Từ góc nhìn lịch sử để hình dung về quá khứ và nhận thấy biểu hiệu TTTG trong TKĐH ngày nay đều có sự tiếp nối từ trong quá khứ. Ở góc độ kỹ thuật, một TKĐH được đánh giá "tốt" hay "không tốt" ở khía cạnh TTTG có liên quan đến các yếu tố căn bản như: tương phản, cân đối, nhịp điệu và thống nhất . Quan điểm đạo đức ảnh hưởng đến nhận thức TTTG, cách cư sử của người xem cũng như nhà thiết kế dựa trên những quy phạm đạo đức để từ đó rút ra những kinh nghiệm.

Yếu tố văn hoá tác động đến quá trình tiếp nhận TTTG trong TKĐH có liên quan đến việc sử dụng hình thức tín hiệu được biểu tượng hoá và tính ẩn dụ của nó. Trong thời đại toàn cầu hoá, sự tiếp biến văn hoá là xu hướng tất yếu của cả nhân loại, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Các trào lưu nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại và thời ký Số hoá tác động nhiều đến TKĐH Việt nam hiện đại, mang đến cho TKĐH Việt Nam sự "khởi sắc" , tạo ra nhiều sản phẩm vượt lên những quan niệm xưa cũ. Bên cạnh những thành tựu đạt được, TKĐH Việt Nam ở góc nhìn văn hoá cũng bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục như việc quá "dễ dãi" trong sử dụng hình thức biểu tượng hoá, sử dụng "ngôn ngữ" bao gồm cả hình thức nghệ thuật và ngôn từ xa lạ với đại đa số nhân dân hay những vi phạm pháp lý về bản quyền, quyền tác giả…

KẾT LUẬN

TKĐH, một loại hình nghệ thuật thị giác tạo nên những hình ảnh

giao tiếp phức tạp về hình thức và nội dung, hình ảnh trong TKĐH

luôn chứa đựng nhiều tín hiệu thị giác. Mọi hoạt động TKĐH Việt

Nam hiện tại đều liên quan đến TTTG, đã có nhiều nghiên cứu về

23 TKĐH ở các khía cạnh khác nhau nhưng hoàn toàn thiếu vắng công

trình nghiên cứu TKĐH ở khía cạnh TTTG. Nghiên cứu TTTG từ góc

nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại sẽ mang đến cái nhìn bao quát nhất về

TTTG Việt Nam.

Chương 1, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ

sở lý luận. Đến thời điểm hiện tại, không có công trình nghiên cứu hay

bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài luận án mà chủ yếu là

những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp. Cơ sở lý luận đã xác

định một số thuật ngữ, khái niệm có liên quan đến quá trình nghiên

cứu, như thuật ngữ: truyền thông, thị giác và một số khái niệm như:

truyền thông thị giác, thiết kế đồ hoạ, thiết kế đồ hoạ hiện đại và nhận

thức thị giác. Ngoài ra, trong phần cơ sở lý luận còn trình bày một số

nội dung khác như: khái quát về TKĐH Việt Nam hiện đại từ 1986

đến nay; mối quan hệ giữa TKĐH và TTTG; lý thuyết Gestalt và lý

thuyết Ký hiệu học áp dụng trong trường hợp nghiên cứu .

Chương 2, nghiên cứu về TTTG qua tạo hình của TKĐH Việt

Nam hiện đại. Người xem phản ứng nhanh và dễ dàng nhất với bốn

thuộc tính: màu sắc, hình, chuyển động và không gian. Từ những tín

hiệu cảm nhận được người xem tự động liên kết thành một chuỗi

những tín hiệu thị giác có biểu hiện: giống nhau, tiệm cận, liên tục và

đặc điểm chung, lý thuyết Gestalt gọi đó là luật. Lý thuyết Gestalt cho

thấy mắt chỉ tham gia trong tất cả những kích thích thị giác, trong khi

não phân loại và sắp xếp các tín hiệu cảm nhận được thành một hình

ảnh nhất quán. Ý nghĩa biểu đạt từ các liên kết tín hiệu thị giác do tâm

trí người xem nhóm lại mang ý nghĩa của thông điệp hình ảnh trong

TKĐH. Một kết luận quan trọng của lý thuyết Ge stalt: Toàn bộ là

khác so với tổng các bộ phận hay nói cách khác: Ý nghĩa toàn bộ lớn

hơn tổng ý nghĩa các bộ phận.

24

Chương 3, nghiên cứu TTTG qua biểu đạt và tiếp nhận tín hiệu

thị giác trong TKĐH Việt Nam hiện đại. Ý nghĩa mà người xem nhận

thức được từ các liên kết tín hiệu thị giác phải thông qua một số hoạt

động tinh thần nhất định như: ký ức, so sánh, lựa chọn, sự kỳ vọng...

Hoạt động tinh thần được kích hoạt thông qua tín hiệu thị giác, mỗi tín

hiệu thị giác lại thể hiện một tính chất và vai trò khác nhau. Ký hiệu

học chỉ ra tính chất của tín hiệu thị giác như: tính hình tượng, tính chỉ

dẫn, tính biểu tượng. Tính chất của tín hiệu thị giác là cơ sở đầu tiên

để người xem đưa ra ý nghĩa giả định. Một tín hiệu thị giác trong

thông điệp truyền thông bằng hình ảnh thường hàm chứa nhiều ý

nghĩa và thể hiện bằng nhiều cách khác nhau. Người xem có thói quen

liên kết các thành phần đơn lẻ vào toàn bộ nội dung thông điệp, ký

hiệu học nêu khái niệm mã để người xem hiểu vai trò của tín hiệu thị

giác như: mã hoán dụ, mã tương tự, mã hoán và mã súc tích.

Chương 4, luận bàn về những thành công và hạn chế của TTTG

từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại từ đó rút ra kinh nghiệm. Quá

trình phận tích thông qua góc nhìn cá nhân, lịch sử, kỹ thuật , đạo đức,

văn hoá. Góc nhìn cá nhân cho thấy, người xem thường đưa ra nhận

định "đẹp" hay "xấu" hoặc "tốt" hay "chưa tốt" ở lần nhìn đầu tiên.

Góc nhìn lịch sử, cho thấy tất cả TKĐH Việt Nam hiện đại đều ẩn

chứa trong đó dấu vết của lịch sử , từ kiểu chữ cho đến minh hoạ,

phương tiện truyền tải. Góc nhìn kỹ thuật, một TKĐH được cho là

"tốt" có sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố: tương phản, cân bằng,

nhịp điệu, thống nhất. Từ góc nhìn văn hoá, cho thấy TKĐH thường

sử dụng các hình thức biểu tượng hoá và tính ẩn dụ của nó, ngoài ra

TKĐH luôn là tấm gương phản ảnh những giá trị mới từ các trào lưu

nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại. Trong giai

đoạn từ 1986 đến nay TKĐH Việt Nam chịu tác động tích cực từ việc

Số hoá.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Ngô Anh Cơ, "Về cách sử dụng thuật ngữ mỹ thuật công

nghiệp, mỹ thuật ứng dụng, và design hiện nay", Tạp chí Văn hoá

Nghệ thuật, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, số 402, 12/2017, tr. 68

- 71.

2. Ngô Anh Cơ, "Năm giai đoạn phát triển quan trọng của truyền

thông thị giác", Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, Viện Mỹ thuật - Trường

đại học Mỹ thuật Việt Nam, số 3 (15), 9 - 2017, tr. 57 - 67.