
1
Tổng hợp các câu hỏi lý thuyết môn Quản lý kinh tế
Câu 1: Phương pháp trong quản lý. Liên hệ vận dụng phương pháp kinh tế tại địa phương và đơn
vị công tác ?
Trong hoạt động của một cá nhân hay một tập thể đều phải hướng đến một mục tiêu đã được đề ra
và để điều hành hệ thống đạt được mục tiêu đó, chủ thể quản lý phải tác động vào đối tượng quản lý bằng
những phương pháp quản lý để cho bộ máy dưới sự quản lý của mình đạt được kết quả tốt nhất. Việc nhận
thức và sử dụng các phương pháp quản lý hiệu quả sẽ mang đến những thành công lớn cho nhà quản lý
cũng như tạo động lực cho các đối tượng quản lý, từ đó tiếp cận và đạt được mục tiêu đề ra một cách
nhanh nhất. Vậy các phương pháp trong quản lý là gì và mối liên hệ giữa các phương pháp quản lý đó
mang lại những hiệu quả trong quá trình vận dụng chúng vào thực tiễn quản lý. Bằng lý luận khoa học
quản lý, chúng ta hãy phân tích rõ vấn đề trên
Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức, công cụ được chủ thể quản lý vận dụng và kết hợp
lại để tác động một cách thích hợp vào đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định trong từng
hoàn cảnh cụ thể. Thực tế cho thấy phần lớn kết quả của một quá trình quản lý lại tuỳ thuộc vào sự lựa
chọn và sử dụng phương pháp quản lý. Lựa chọn và sử dụng phương pháp quản lý đúng, hợp lý sẽ tạo
động cơ, động lực thúc đẩy người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ, nâng cao chất lượng và hiệu quả thực
hiện các chức năng quản lý đồng thời không những làm cho các hoạt động quản lý tuân thủ đúng quy luật,
nguyên tắc quản lý, sát hợp với đối tượng mà còn làm hoạt động quản lý mang tính xã hội sâu sắc.
Đối tượng tác động của các phương pháp quản lý là những con người, là những thực thể có cá tính,
thói quen, tình cảm nhân cách gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, con người không chỉ đóng góp vào thành
quả chung của tập thể mà còn mong muốn nhận lại từ thành quả chung đó những lợi ích vật chất và tinh
thần thỏa đáng. Con người không chỉ chấp hành mệnh lệnh của người quản lý mà còn là một chủ thể sáng
tạo trong công việc, có tinh thần độc lập tự chủ. Mặt khác, con người với tư cách là đối tượng quản lý còn
là những con người - xã hội, trong đó con người không lao động, làm việc theo cá nhân mà còn làm việc
hợp tác, phối hợp công việc với nhau. Vì vậy, chủ thể quản lý phải biết lôi cuốn, thúc đẩy mọi người trong
việc tổ chức tham gia công việc chung, đem hết sức lực, tài năng làm việc cho tổ chức, có như vậy mới
làm cho tổ chức thêm vững mạnh. Đồng thời một tổ chức vững mạnh sẽ tạo được nhiều thuận lợi cho con
người làm việc hơn một tổ chức yếu kém
Để tác động đến yếu tố con người trong lao động, người ta phải dùng nhiều phương pháp khác
nhau. Dựa trên phương thức tác động, có thể phân ra thành 3 phương pháp quản lý : phương pháp tổ chức
hành chính, phương pháp tâm lý giáo dục và phương pháp kinh tế, mỗi phương pháp quản lý đặc trưng
cho một thủ pháp tạo động cơ và động lực thúc đẩy đối tượng quản lý
Phương pháp tổ chức - hành chính là phương pháp dựa vào quyền uy tổ chức của chủ thể quản
lý để bắt buộc đối tượng quản lý phải chấp hành mệnh lệnh quản lý một chiều từ trên xuống Phương pháp
này mang tính bắt buộc, cưỡng chế đơn phương mà cơ sở tác động là quyền lực của chủ thể quản lý ở
trong hệ thống quản lý, quyền lực này được xác lập theo pháp luật, quy chế, cơ chế…. Hiệu lực, hiệu quả
quản lý phụ thuộc nhiều vào việc thực hiện đúng hay không đúng quyền lực của mình. Ưu thế của phương
pháp này so với các phương pháp khác là thể hiện tính kỷ cương trong tổ chức thực hiện công việc nhờ đó
đem lại hiệu quả nhanh chóng, thống nhất, triệt để, vì vậy phương pháp này thường phù hợp với các tình
huống quản lý cấp bách, khẩn trương và là phương pháp không thể thiếu được trong tất cả các cơ quan,
các tổ chức. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, độc đoán ….
do đó để giảm bớt mức độ quan liêu hóa, nhà quản lý khi xác lập cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý phải
tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, có quan tâm đến điều kiện cụ thể của các thành viên trong tổ chức.

2
Phương pháp tâm lý - giáo dục : là phương pháp sự tác động tới đối tượng quản lý thông qua các
quan hệ tâm lý, tư tưởng, tình cảm. Phương pháp này dựa vào uy tín của người quản lý để lôi cuốn mọi
người trong tổ chức hăng hái, tích cực tham gia công việc, uy tín được được xác lập dựa trên nhân cách
người lãnh đạo quản lý . Công cụ tác động của phương pháp này là vận dụng các quy luật, nguyên tắc tâm
lý và giáo dục, nhờ đó người quản lý nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, mong muốn, tình cảm, đạo
đức, lý tưởng của mỗi người và có biện pháp tạo lập trong mỗi người niềm say mê, phấn khởi, ý thức trách
nhiệm, tinh thần sáng tạo đối với công việc. Trong phương pháp này, đối tượng quản lý là con người được
xem như một thực thể có ý thức, được tôn trọng và nhận thức được nhiệm vụ của mình, lao động tự giác.
Sự thúc đẩy con người làm việc ở đây chính là sự hiểu biết và tác động đúng vào động cơ làm việc của họ
cũng như ảnh hưởng rộng lớn của uy tín và phẩm chất của người quản lý. Hiệu quả phương pháp này rất
lâu bền và sâu sắc. Tuy nhiên con người không phải ai và lúc nào cũng lao động và hành động với đầy đủ
ý thức, tự giác và sự nhiệt tình, nhất là khi mà nhu cầu lợi ích vật chất của họ không được thỏa mãn hoặc
không công bằng. Vị vậy, phương pháp này chỉ hiệu quả khi được người quản lý biết phối hợp phương
pháp hành chính với phương pháp kinh tế. Phương pháp tâm lý - giáo dục không thể thiếu trong mọi tổ
chức, nhất là các tổ chức xã hội. Để khắc phục mặt hạn chế của phương pháp này người quản lý phải biết
kết hợp với các phương pháp tổ chức - hành chính và phương pháp kinh tế.
Phương pháp kinh tế : Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế. Trong phương pháp này, nhà quản lý sử dụng các công cụ đòn bẩy
kinh tế như : giá cả, lãi suất, tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận để tác động đến điều kiện hoạt động của
con người, điều chỉnh hành vi của đối tượng nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Thông qua các chính sách
và đòn bẩy kinh tế, đối tượng quản lý tự tính toán thiệt hơn để tự quyết định hành động của mình, tự chủ
lấy công việc của mình.. không có sự can thiệp trực tiếp của tổ chức. Phương pháp kinh tế lấy lợi ích kinh
tế vật chất làm động lực thúc đẩy con người hành động. Lợi ích đó thể hiện qua thu nhập của mỗi người,
lấy lại từ thành quả chung, phù hợp với sự đóng góp của mỗi người. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và
đối tượng quản lý lúc này là mối quan hệ kinh tế là những giá trị vật chất đầy hấp dẫn, do vậy nếu người
quản lý quá coi trọng lợi ích chung, coi nhẹ lợi ích cá nhân của mỗi người sẽ làm triệt tiêu động lực của
họ. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả khi thu nhập thực tế của người lao động chưa cao, nhu cầu vật chất
của con người mới đáp ứng được ở mức thấp, thì lúc đó khi thực hiện các công việc nào họ cũng đều rất
quan tâm đến lợi ích và thu nhập. Vì vậy, người quản lý ở mọi tổ chức phải hết sức coi trọng việc vận
dụng phương pháp kinh tế. So với các phương pháp quản lý khác, phương pháp kinh tế có ưu điểm là đặt
mỗi người vào điều kiện tự mình được quyết định làm việc như thế nào có lợi nhất cho mình và cho tổ
chức. Lao động, làm việc càng hiệu quả thì lợi ích vật chất nhận về càng nhiều. Phương pháp kinh tế có
thể giúp cho người ta thoát khỏi cơ chế, giấy tờ, thủ tục của chủ nghĩa quan liêu và những rắc rối trong thể
chế tình cảm xã hội. Tuy vậy phương pháp kinh tế cũng có những hạn chế vốn có của nó. Nếu lạm dụng
phương pháp kinh tế dễ dẫn người ta đến chỗ chỉ nghĩ đến lợi ích vật chất, thậm chí chỉ lệ thuộc vào vật
chất, tiền của mà quên những giá trị đạo đức, tinh thần, đạo lý, có dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.
Động lực từ lợi ích cá nhân của mỗi người nếu không được định hướng và kiểm soát nó sẽ dẫn người ta
đến chỗ làm ăn phi pháp.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng trong hoạt động điều hành quản lý, 3 phương pháp quản
lý trên luôn có mối liên hệ với nhau. Sự liên hệ ấy bắt nguồn từ đối tượng tác động của phương pháp quản
lý chính là con người. Mỗi phương pháp quản lý tác động đến con người theo một hướng nhất định, hiệu
quả tạo động cơ, động lực thúc đẩy con người với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên phương pháp quản lý
này chỉ có thể phát huy hiệu quả nếu sử dụng cùng với phương pháp khác, bởi vì mỗi phương pháp quản
lý suy cho cùng chỉ là tác động đến một vài trong rất nhiều những nhu cầu của con người, mà con người
thì chỉ có thể làm việc tốt nhất trong điều kiện có khuôn khổ tổ chức chặt chẽ, rõ ràng; có lợi ích thoả
đáng; có sự hiểu biết và niềm say mê với công việc. Phương pháp kinh tế kích thích con người vì thỏa mãn
nhu cầu vật chất nhưng nếu như công việc nhàm chán, không tạo niềm say mê, không có những thách
thức, hứng thú hoặc không nhận được sự quan tâm, công nhận, tôn trọng của người quản lý, của xã hội thì
lúc đó những lợi ích kinh tế không đủ để lôi cuốn người ta làm việc. Ngược lại nếu người quản lý có phẩm

3
chất tuyệt vời, quan tâm đến gần gủi đến người lao động, có phong cách và phương thức quản lý tốt nhưng
nếu chỉ áp dụng biện pháp, cơ chế trả lương cho người lao động theo phương pháp bình quân thì cũng sẽ
không khuyến khích được người lao động toàn tâm, toàn ý vì công việc. Ngoài ra, đối với những con
người quá chú trọng đến lợi ích kinh tế hoặc những người quen dựa dẫm, lười lao động, trình độ nhận thức
và tự giác thấp thì nếu không phương pháp tổ chức - hành chính thì khó có thể kiểm soát và điều chỉnh
các hoạt động của họ theo đúng định hướng, đúng mục tiêu của tổ chức đề ra. Ngược lại, nếu chỉ áp dụng
đơn thuần phương pháp tổ chức - hành chính thì rõ ràng đối tượng quản lý chịu sự cưỡng chế mà không có
khuyến khích tinh thần hay vật chất cũng dễ dẫn đến những tiêu cực trong hoat động. “Dựa vào pháp luật
để trị dân, sử dụng hình phạt để chỉnh đốn họ thì họ tạm thời khỏi bị phạm tội nhưng lại không có liêm sỉ.
Nếu như dựa vào đức trị để trị dân, sử dụng lễ giáo để chỉnh đốn họ thì họ không những có liêm sỉ mà còn
quy phục” (Hà Thúc Minh, 1998. Lịch sử triết học Trung Quốc. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh:
27).
Từ mối liên hệ trên cho thấy rằng trong các phương pháp quản lý thì phương pháp kinh tế mang lại
hiệu quả nhanh chóng, nhưng không phải là duy nhất và toàn bộ. Nhà quản lý thực hiện đồng thời cả 3
phương pháp trong hoạt động quản lý, tuy nhiên tùy theo trường hợp và từng giai đoạn mà sử dụng
phương pháp nào là chính.Việc tuyêt đối hoá một phương pháp quản lý nào đó trong quản lý sẽ làm giảm
hiệu lực tác động, không phát huy được ưu thế và khắc phục hạn chế vốn có của mỗi phương pháp. Đó
cũng chính là sự tác động toàn diện và ảnh hưởng lẫn nhau của các phương pháp quản lý đối với mỗi con
người.
Cũng từ mối liên hệ giữa các phương pháp quản lý cho thấy rằng nhận thức và vận dụng các
phương pháp quản lý như thế nào còn phụ thuộc vào đối tượng và tình huống quản lý cụ thể. Nếu người
quản lý chủ quan coi nhẹ yêu cầu thực tế khách quan của đối tượng và tình huống quản lý thì hoạt động
quản lý có nguy cơ bị quan liêu hoá. Con người ai cũng có những ưu điểm và khuyết điểm, ở từng thời
điểm khác nhau nhu cầu của họ cũng khác nhau. Vì vậy, nhà quản lý phải biết thấu hiểu những yếu tố tâm
lý đó để sử dụng những phương pháp thích hợp nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm, kích thích
đúng động cơ, đáp ứng đúng nhu cầu để họ có thể làm việc có chất lượng và hiệu quả cao.
Ngoài ra, lựa chọn các phương pháp quản lý phải phù hợp, có tác động thiết thực trong việc điều
chỉnh đối tượng quản lý. Các phương pháp quản lý khi xác lập và vận dụng phải có căn cứ khoa học và
thực tiễn, bảo đảm cho đối tượng quản lý có thể thực hiện được một các tự giác và tích cực.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta đã cường điệu hóa, tuyệt đối hóa
phương pháp quản lý tổ chức hành chính và phương pháp quản lý tâm lý giáo dục, coi nhẹ phương pháp
quản lý kinh tế vì cho đó là nặng về lợi ích cá nhân, điều này làm cho tình trạng quản lý ở mọi tổ chức đều
mang tính chất quan liêu hình thức, hạn chế rất nhiều tính chủ động sáng tạo của mỗi người. Chuyển sang
nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế xã hội được nhận thức và vận dụng một cách đầy đủ hơn, trong
đó lợi ích kinh tế được coi trọng. Do đó phương pháp kinh tế trở thành phương pháp tác động chính đến
đối tượng quản lý, lợi ích thiết thân của mỗi người được coi là điểm xuất phát để xác lập hệ thống lợi ích
tập thể và lợi ích xã hội. Thực chất của việc xác lập và vận hành các phương pháp quản lý ở nước ta hiện
nay là quá trình thực hiện dân chủ hoá toàn bộ quá trình quản lý các tổ chức kinh tế - xã hội theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Do vậy trong quản lý cũng không thể coi nhẹ phương pháp tổ chức - hành chính và
phương pháp tâm lý - giáo dục. Thực tế cũng đòi hỏi đội ngũ những người quản lý phải nâng cao trình độ
sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lý, phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ và
phẩm chất, trao dồi và nâng cao trình độ quản lý của mình cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước hiện nay.
Bản thân công tác nhiều năm trong đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi
trường, trong môi trường làm việc đó thì cả 3 phương pháp tổ chức - hành chính, tâm lý - giáo dục và
kinh tế đều cần thiết.

4
Tuy nhiên, là đơn vị hành chính sự nghiệp thì phương pháp tổ chức hành chính và phương pháp
tâm lý giáo dục được sử dụng trong công tác quản lý thường xuyên và dễ dàng hơn trong khi áp dụng
phương pháp kinh tế gặp rất nhiều khó khăn bởi những quy định ràng buộc do cơ chế hưởng lương từ
ngân sách, nhất là đối với một tỉnh mà thu nhập còn phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp
Theo quy định về chế độ lương trước đây, người lãnh đạo cao nhất đơn vị hoặc người có trình độ
chuyên môn cao, công tác nhiều năm trong ngành lương và thu nhập khác cũng không quá 2 triệu/ tháng.
Lương bình quân của một người có trình độ chuyên môn đại học cũng từ 500.000-700.000 đồng /tháng.
Những khó khăn về kinh tế buộc người công chức nhà nước phải làm thêm bằng nhiều nghề phụ khác,
hoặc phải nhận việc để làm ngoài giờ. Mặt khác, trước khi Luật đất đai có những điều chỉnh như hiện nay
thì khối lượng công việc giữa sự nghiệp - dịch vụ công và hành chính còn chưa tách bạch rõ ràng, do vậy
đơn vị phải giải quyết một khối lượng hồ sơ thủ tục rất lớn nên có rất nhiều công việc cán bộ công nhân
viên không thể thực hiện hết trong giờ hành chính, vì vậy việc giao việc làm thêm ngoài giờ cho công
nhân viên chức vừa tạo thêm thu nhập nhưng cũng vừa giải quyết bớt các tồn đọng trong công việc.
Tuy nhiên theo quy định của Luật lao động thì người lao động chỉ có thể làm ngoài giờ tối đa là
200 giờ/năm, vì vậy chỉ có thể trả lương cho công nhân viên trong khoảng 200 giờ làm thêm theo quy
định, còn lại người quản lý chỉ có sử dụng phương pháp tổ chức hành chính hoặc biện pháp tâm lý động
viên họ hoàn thành công việc theo đúng thời gian quy định mà không có sự đền bù về vật chất nào. Với cơ
chế như vậy rõ ràng là không giúp cho người công chức, viên chức có thể toàn tâm toàn ý cho công việc,
không khuyến khích được sự cải tiến trong phương pháp, lề lối giải quyết công việc và cũng không thể thu
hút được những người có tài năng vào trong bộ máy nhà nước của đơn vị. Sự khó khăn về kinh tế cũng
làm cho phát sinh một số tệ nạn : nhũng nhiễu, hạch sách, nhận hối lộ ... Về mặt quản lý, người quản lý
đương nhiên sẽ áp dụng các biện pháp hành chính hoặc giáo dục để ngăn ngừa những vi phạm, nâng cao
đạo đức nghề nghiệp nhưng về lâu dài khi phương pháp quản lý kinh tế kích thích lợi ích vật chất không
được áp dụng thì hiệu quả chất lượng công tác thấp, tỉ lệ những người tài bỏ ngành càng cao, đầu vào của
ngành không đạt yêu cầu thì không thể nói đầu ra tốt được.
Ngày nay, với sự điều chỉnh của Luật Đất đai, trong đó có việc tách bạch rõ ràng giữa dịch vụ hành
chính công và công tác quản lý thì việc vận dụng phương pháp kinh tế sẽ có thể áp dụng tốt hơn. Ở các
đơn vi sự nghiệp thực hiện dịch vụ hành chính công, người quản lý có thể sử dụng phương pháp kinh tế để
kích thích công nhân viên bằng hình thức khoán việc, trả lương theo năng suất lao động. Ở bộ phận quản
lý nhà nước, sự giảm bớt áp lực công việc cùng với sự tăng lương theo quy định mới cũng khuyến khích
sự hăng hái hơn trong công việc.
Tuy nhiên, về lâu dài, để có một bộ máy nhà nước thật sự hiệu quả, trong sạch và vững mạnh, một
đội ngũ công chức yêu nghề, tận tụy, sáng tạo thì cần phải tiếp tục thực hiện công cuộc cải tổ tiền lương và
xây dựng một cơ chế, chính sách khuyến khích tăng thu nhập hợp lý và áp dụng đồng bộ các đòn bẩy kinh
tế để kích thích sự đầu tư chất xám của cán bộ công chức và thu hút nhân tài.

5
Câu 2: Nguyên tắc tập trung dân chủ. Liên hệ việc vận dụng nguyên tắc trên ?
Trong công tác quản lý, việc nhận thức, nắm vững và vận dụng đúng các nguyên tắc của quản lý là
một trong những điều kiện đảm bảo sự thành công. Các nguyên tắc quản lý là các quy tắc chuẩn mực, chỉ
đạo những người quản lý phải tuân thủ trong quá trình quản lý, những nguyên tắc ấy do con người định ra,
vừa phản ánh các quy luật khách quan nhưng cũng mang dấu ấn chủ quan của con người. Trong thực tiễn
quản lý, các nguyên tắc quản lý có tính chất và thứ bậc khác nhau, do nhiều tổ chức, nhiều cấp đề ra, tuy
nhiên trong đó có những nguyên tắc mang tính chất cơ bản, nó định hướng cho sự hoạt động của người
quản lý và sự vi phạm các nguyên tắc này sẽ gây cho hệ thống một sự tổn thất nặng nề. Một trong những
nguyên tắc cơ bản của quản lý là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng quản lý cũng như yêu cầu và mục tiêu của quản lý, nó quy định sự lãnh đạo tập trung dựa trên sự
tôn trọng và phát huy dân chủ. Về bản chất thì tập trung và dân chủ là 2 xu hướng diễn ra đồng thời cùng
một lúc. Tập trung dân chủ là một nguyên tắc thống nhất, đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập
trung và dân chủ. Trong nguyên tắc thống nhất này, tập trung và dân chủ tác động cùng chiều, theo tỷ lệ
thuận, đòi hỏi phải đảm bảo lẫn nhau.
Xu hướng tập trung được biểu hiện ở 2 nội dung : thứ nhất, tập trung là sự thống nhất về tư tưởng
và hành động của tất cả các thành viên trong hệ thống, thứ hai đó là sự tập trung quyền lực để giải quyết các
công việc phát sinh trong hệ thống, tức là phải có đủ quyền lực để giải quyết mọi vấn đề có sự lãnh đạo,
quản lý, điều hành thông suốt, do đó tập trung là một xu hướng cần thiết. Để đảm bảo yêu cầu tập trung
trong quản lý cần có những công cụ sử dụng như: Luật, chính sách, chế độ, quy chế, hệ thống chiến lược, kế
hoạch, chương trình phát triển…và chế độ một người chỉ huy (còn gọi là chế độ thủ trưởng).
Về xu hướng dân chủ thì hiện nay có 2 quan điểm khác nhau về dân chủ.
Quan điểm thứ nhất là dân chủ là quyền và trình độ dân chủ tương ứng với quyền lực của đối tượng
quản lý, đây là quan điểm không đúng vì nếu hiểu theo quan điểm này dễ dẫn tới tình trạng dân chủ quá đà
tự phát, tự do vô chính phủ.
Quan điểm thứ hai là coi dân chủ là môi trường, là điều kiện để mỗi cá nhân có được những cơ hội
phát triển hoàn thiện trong sự phát triển của xã hội, của cộng đồng. Tùy thuộc khả năng và mức độ ảnh
hưởng của các cá nhân tới quyết định chung của cộng đồng, tới việc giải quyết công việc chung mà có thể
thấy một xã hội dân chủ đến mức nào. Ở mỗi nước, trình độ của nền dân chủ trong xã hội tùy thuộc phần
lớn vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, quyền hạn và năng lực thực hiện quyền làm chủ
của các tầng lớp nhân dân. Xã hội ta càng phát triển càng đòi hỏi và càng có điều kiện mở rộng chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo yêu cầu dân chủ, các nhà quản lý phải sử dụng các giải pháp như: chế độ tự chủ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện các chế độ, các hình thức đảm bảo quyền tham gia quản lý của
chủ thể người lao động. Dân chủ còn thể hiện thông việc thực hiện sự bình đẳng của các thành phần kinh
tế trước pháp luật, thông qua việc xác định rõ vị trí, trách nhiệm, quyền hạn, của các cấp, các ngành, thực
hiện các chế độ phân công, phân cấp trong quản lý và thông qua quá trình thực hiện quy chế quyền dân
chủ, quy chế dân chủ ...
Trong quan hệ tập trung dân chủ thì tập trung bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, nó định hướng cho
các biện pháp dân chủ nhằm để đảm bảo sự tồn tại và tạo ra khả năng phát triển của hệ thống. Mất đi sự
tập trung là mất đi sự thống nhất trong hoạt động của hệ thống dẫn tới tình trạng tổ chức sẽ bị biến dạng, đi
chệnh mục đích, mục tiêu. Ngoài ra, tập trung còn là cơ sở định hướng để giải quyết các nội dung, biện
pháp thực hiện dân chủ, còn dân chủ thì có vai trò tạo cơ sở về xã hội, kinh tế, chính trị để thực hiện tốt tập
trung trong quản lý. Chính nhờ dân chủ, các nhà quản lý mới tạo ra được sự thống nhất về tư tưởng, ý chí
và hành động nhằm đảm bảo tốt cho yêu cầu tập trung trong quản lý. Ngược lại dân chủ cũng có vai trò