
7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC CHỈ SỐ SINH LÝ,
SINH HÓA MÁU CỦA BÒ
Đào Thị Mai Quỳnh1 , Nguyễn Thị Thu Hiền*
Lớp D21CNSH01, Trường Đại học Thủ Dầu Một
* Khoa Y Dược, Trường Đại học Thủ Dầu Một, liên hệ email: hienntt@tdmu.edu.vn
TÓM TẮT
Bài báo tổng quan này trình bày về tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu
bò trên thế giới và Việt Nam. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu
của các giống bò bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như giới tính, độ tuổi, sức khỏe, sinh lý, stress,
thời tiết, sự thay đổi mùa trong năm, điều kiện và môi trường nuôi nhốt. Các chỉ số sinh lý, sinh
hóa máu đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe và tình trạng giống vật nuôi,
đóng góp cho công tác chọn lọc và lai tạo giống bò, những thay đổi các chỉ số này có tác động
đáng k đến sản xuất và năng suất chăn nuôi. Việc thực hiện các nghiên cứu về chỉ số sinh lý,
sinh hóa máu của các giống bò bản địa và nhập nội ở Việt Nam hiện nay còn khiêm tốn, Do đó,
việc tiếp tục nghiên cứu các chỉ số này của các giống bò nuôi ở Việt Nam là rất cần thiết.
Từ khóa: Bò, máu, sinh hóa máu, sinh lý máu
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bò (Bos) là loài động vật có vú, phổ biến trên nhiều quốc gia hiện nay đặc biệt với
những quốc gia có điều kiện khí hậu nhiệt đới hoặc ôn đới. Ở một số quốc gia, bò là một trong
những loài gia súc được người dân chăn nuôi nhiều và có vai trò quan trọng cho việc thúc đẩy
nền kinh tế quốc gia, hỗ trợ việc làm và tăng thu nhập cho người dân lao động (Hristev và
nnk., 2020).
Trong chăn nuôi, các chỉ số sinh lý sinh hóa máu có vai trò quan trọng trong việc đánh
giá chất lượng giống vật nuôi, tình trạng sức khỏe, chẩn đoán các bệnh trên vật nuôi và phục
vụ cho công tác lai tạo giống vật nuôi. Trong đó, thành phần hóa học, các đặc điểm sinh lý
huyết học được xem là các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng giống và chất lượng sản
phẩm từ động vật (Ivanova và Tasheva, 2020). Vai trò và ý nghĩa các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa
huyết học (hồng cầu, bạch cầu, hemoglobin, protein và các tiểu phần protein huyết thanh) liên
quan rất nhiều đến đặc tính di truyền, quá trình sinh trưởng và phát triển, năng suất giống vật
nuôi, khả năng sinh sản và khả năng thích nghi của động vật trong các điều kiện môi trường
sinh sống khác nhau (Đỗ Văn Thu và nnk., 2015).
Khả năng đáp ứng đầy đủ của gia súc với nhiệt độ mùa hè cao phụ thuộc chủ yếu vào loại
hình sản xuất và giống. Bò sữa dễ bị stress nhiệt hơn so với các giống bò thịt do bò sữa tạo ra
nhiều nhiệt trao đổi chất hơn. Những con bò có năng suất cao đặc biệt nhạy cảm với nhiệt độ
cao và điều này ảnh hưởng đến thành phần máu của chúng (Marai và nnk., 2000). Nhiệt độ cao
có thể làm xáo trộn sự cân bằng sinh lý bình thường của động vật và dẫn đến rối loạn trao đổi
nước và protein, năng lượng, cân bằng nội tiết tố và khoáng chất do đó ảnh hưởng đến các chỉ
số sinh hoá máu (Ivanova và Tasheva, 2020).

8
Trong bối cảnh khí hậu toàn cầu đang biến đổi, stress nhiệt đang trở thành vấn đề nghiêm
trọng đối với chăn nuôi bò (Mahdy và nnk., 2014) đã cho rằng chỉ số nhiệt độ - độ ẩm (THI) là
một trong những thông số quan trọng nhất phản ánh sự thoải mái chung của bò sữa. Các tác giả
tin rằng THI là một công cụ hữu ích trong việc xác định sự xuất hiện stress nhiệt. Chỉ số độ ẩm
nhiệt độ cho biết tác động kết hợp của nhiệt độ và độ ẩm tương đối lên các thông số sinh lý,
năng suất và các thông số khác ở bò. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy THI có thể được sử dụng
làm chỉ số stress nhiệt cho bò (Dikmen và Hansen, 2009; Hristev và nnk., 2020). Theo nghiên
cứu của Mazzullo và nnk. vào năm 2014 đã chứng minh rằng điều kiện môi trường là yếu tố
căng thẳng chính ảnh hưởng đến động vật và dẫn đến các rối loạn nghiêm trọng về các thông
số huyết học – hóa học và sinh lý của chúng (Mazzullo và nnk., 2014). Các chỉ số máu rất nhạy
cảm với những thay đổi xảy ra trong các cơ quan và tế bào ngay cả trước khi xuất hiện những
dấu hiệu lâm sàng đầu tiên của một căn bệnh nào đó hoặc một tình trạng căng thẳng. Những
thay đổi trong các giá trị thông số máu khác nhau là dấu hiệu cho thấy phản ứng sớm của cơ
thể và có thể được sử dụng làm cơ sở cho chẩn đoán sớm, điều trị và phòng ngừa các tình trạng
bệnh lý khác nhau (Weiss D.G. và Wardrop K.J. (eds.), 2010).
Như vậy, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá về các chỉ tiêu sinh lý,
sinh hóa máu của các giống vật nuôi khác nhau. Nhờ vào kết quả đánh giá về các chỉ số sinh
lý, sinh hóa máu ở vật nuôi, người chăn nuôi có thể chuẩn bị chuồng trại chăn nuôi phù hợp,
xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý cho vật nuôi, tiến hành chẩn đoán và phòng chống các bệnh
gây ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi (Hristev và nnk., 2020). Ở Việt Nam, hiện nay đã có một
số các đề tài nghiên cứu trên các giống bò nhưng chủ yếu chỉ đánh giá về các đặc điểm hình
thái, đặc tính sinh sản, lai tạo giống để cho ra chất lượng thịt và sữa chất lượng. Các nghiên cứu
đánh giá các vấn đề về sức khỏe và thể trạng của vật nuôi thông qua các chỉ số sinh hóa, sinh
lý máu còn ở mức hạn chế và chưa có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu sâu rộng về lĩnh
vực này. Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu tình hình các nghiên cứu liên quan đến các
thông số sinh lý, sinh hóa trong máu của bò trên thế giới và Việt Nam.
2. NỘI DUNG
2.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu trên bò
Đối với ngành chăn nuôi, các chỉ số huyết học được xem như các chỉ thị về trạng thái sinh
lý của cơ thể vật nuôi và là vật liệu ban đầu nhằm đánh giá chất lượng, năng suất của giống vật
nuôi, phục vụ cho lai tạo chọn giống, giúp chẩn đoán và điều trị được các bệnh xuất hiện trên
các giống vật nuôi (Forbes và nnk., 2009). Ở Việt Nam, cùng với việc sử dụng phương pháp di
truyền quần thể, các phương pháp đánh giá các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu được ứng dụng
ngày càng nhiều trong công tác bình tuyển và đánh giá phẩm chất giống vật nuôi (Đỗ Văn Thu
và nnk., 2015). Các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu có sự liên quan đến các đặc điểm di truyền,
chất lượng giống vật nuôi, ảnh hưởng đến tập tính sinh sản và khả năng thích nghi của chúng
với các điều kiện môi trường khác nhau đã được nghiên cứu và khẳng định trong một số công
trình khoa học (Campora và nnk., 2011; Comazzi và nnk., 2004).
Đối với các giống bò, việc nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò góp phần mang
lại những thông tin quý báu về sức khỏe, hiệu suất của đàn bò và xác định trạng thái sinh lý máu
bình thường so với trường hợp cơ thể vật chủ bị bệnh, nhằm chẩn đoán và đưa ra những biện
pháp chăm sóc và nuôi dưỡng phù hợp cho quá trình chăn nuôi (Nguyễn Hồ Bảo Trân và nnk.,
2015). Bằng cách đo lường số lượng hồng cầu, bạch cầu, hemoglobin, và các chỉ số khác trong
máu, chúng ta có thể đánh giá tình trạng của hệ thống miễn dịch, khả năng chống nhiễm bệnh, và
cả khả năng chuyển hóa chất dinh dưỡng của bò. Điều này mang lại cái nhìn tổng thể về tình trạng
sức khỏe của đàn bò và giúp dự báo khả năng sinh sản và tăng trưởng trong tương lai.

9
Bên cạnh đó, các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu cũng là công cụ quan trọng để đánh giá tác
động của môi trường chăn nuôi lên đàn bò. Việc nghiên cứu chỉ số sinh lý máu còn đóng vai trò
quan trọng trong quá trình tuyển chọn giống bò. Hiểu rõ về gen và các yếu tố sinh lý qua máu
giúp tạo ra những giống bò có khả năng thích ứng tốt với điều kiện nuôi và đạt hiệu suất cao. Từ
những thông tin này, nông dân và bác sĩ thú y có thể thực hiện các biện pháp quản lý thông minh,
từ chế độ dinh dưỡng đến kiểm soát bệnh tật, nhằm tối ưu hóa sản xuất và đảm bảo sự bền vững
của ngành chăn nuôi bò. Các nghiên cứu này không chỉ là công cụ đo lường mà còn là chìa khóa
mở ra những cơ hội mới để phát triển một ngành chăn nuôi bò hiệu quả và bền vững tại Việt Nam.
2.2 Tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò trên thế giới
Các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí quan trọng khác
nhau như: Độ tuổi, giới tính, trạng thái sinh lý, mức độ căng thẳng, khí hậu và hệ thống quản
lý,... Các chỉ số này là những thông số quan trọng trong việc chẩn đoán, tiên lượng, điều trị
bệnh và giúp phát hiện sớm những trạng thái sức khỏe bất thường trên vật nuôi (Onasanya và
nnk., 2015). Chính vì lí do đó, hiện nay trên thế giới việc nghiên cứu về các chỉ số sinh lý, sinh
hóa máu bò cũng đang được quan tâm và thực hiện.
Năm 2014, Mamum và nnk. đã tiến hành nghiên cứu về các chỉ số sinh hóa máu ở các
giống bò như: Khagrachari Sadar, Laxmichari, Matiranga, Mahalchari và Dighinala, chúng là
những giống bò bản địa được phân bố chủ yếu ở khu vực đồi núi của Bangladesh. Các chỉ số
sinh hóa xác định dựa theo giới tính và độ tuổi của các giống bò. Theo kết quả nghiên cứu của
nhóm tác giả đã cho thấy rằng, ở bò đực có nồng độ albumin, cholesterol, SGPT, SGOT, magie
và creatinine trong huyết thanh cao hơn so với nhóm bò cái. Ngược lại, với bò cái chúng có
nồng độ glucose, protein toàn phần, LDL, ALP, canxi, phốt pho và axit uric trong huyết thanh
cao hơn bò đực. Sự suy giảm nồng độ glucose của giống bò đực thấp hơn bò cái có thể là do
tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng ở động vật. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các enzyme như
SGPT và ALP có nồng độ cao hơn ở bò trưởng thành (trên 3 tuổi). Hàm lượng albumin, SGOT,
magie và phốt pho trong huyết thanh của bò trong độ tuổi sinh trưởng cao hơn bò ở các nhóm
tuổi khác. Đối với nhóm bê con có chứa tổng lượng protein, cholesterol, canxi và creatinine
trong huyết thanh cao (Mamun và nnk., 2014).
Tương tự với kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Mamum (2014), Gaikwad và nnk.
(2007) cũng đã cho thấy rằng lượng protein ở nhóm bê con có phần cao hơn bò ở các nhóm tuổi
khác, có thể nhận định rằng lượng protein sẽ giảm khi độ tuổi tăng lên (Gaikwad và nnk., 2007).
Ngoài ra nhóm nghiên cứu của Mamum đã cho thấy chỉ số SGPT/ALT và SGOT/AST có sự
gia tăng theo độ tuổi của vật nuôi. Mặc dù nồng độ của các chỉ số sinh hóa giữa các nhóm bò
được xét theo giới tính và độ tuổi có sự chênh lệch nhau, nhưng nhìn chung đều không đáng kể
(Mamun và nnk., 2014). Xuyên suốt quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả luôn có sự so sánh, đối
chiếu với các số liệu đã được ghi nhận từ các nghiên cứu khác, điều này giúp gia tăng thêm độ
chính xác và tính khoa học cho nghiên cứu (Jezek và nnk., 2006).
Theo một nghiên cứu khác của Aashaq và nnk. (2019), đã cho thấy rằng các chỉ số sinh
lý, sinh hóa máu cũng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi các mùa trong năm. Nghiên cứu được thực
hiện trên 30 con bò hơn 1 tuổi trong mùa hè và mùa đông để nghiên cứu ảnh hưởng của mùa
đến đặc điểm sinh hóa máu. Theo kết quả cho thấy, lượng cholesterol huyết thanh trung bình
trong mùa đông cao hơn đáng kể so với mùa hè. Nồng độ creatinine và ure huyết thanh cao hơn
đáng kể trong mùa hè khi nồng độ albumin và bilirubin không bị ảnh hưởng bởi các tác động
theo mùa. Bên cạnh đó, lượng đường huyết trong mùa đông cao hơn đáng kể so với mùa hè
(Aashaq và nnk., 2019). Mức đường huyết là đại diện cho trạng thái năng lượng của động vật
(Chandrashekhar và nnk., 2017). Ở mùa đông, nguồn thức ăn có sẵn nhiều hơn, điều này là
nguyên nhân làm tăng nồng độ glucose huyết thanh trong mùa đông so với mùa hè (Rasooli và

10
nnk., 2004). Đồng thời căng thẳng mùa hè dẫn đến giảm lượng thức ăn vào, từ đó dẫn đến sự
suy giảm của glucose (Shrikhande và nnk., 2008; Muna và nnk., 2009).
Kalyani và nnk., (2018) khi nghiên cứu về giống bò Zebu ở Ấn Độ đã đưa ra nhận định
rằng, nồng độ protein huyết thanh phụ thuộc vào tình trạng dinh dưỡng và quá trình trao đổi
chất của động vật, điều này bị ảnh hưởng gián tiếp bởi lượng thức ăn. Nguồn thức ăn sẵn có
cao hơn trong những tháng mùa đông và các vấn đề về stress môi trường ở mức thấp. Trong khi
đó, tình trạng căng thẳng của mùa hè dẫn đến giảm lượng thức ăn, do đó dẫn đến nồng độ
protein huyết thanh thấp hơn trong mùa hè (Kalyani và nnk., 2018). Nhận định đó tương tự với
kết quả ghi nhận được trong nghiên cứu của Aashaq và nnk. (2019). Tổng lượng protein huyết
thanh trong những tháng mùa đông và mùa hè của bò Badri lần lượt là 7,43 ± 0,09 và 7,06 ±
0,11 mg/dl với mức trung bình tổng thể là 7,25 ± 0,08 mg/dl cho thấy rằng tổng lượng protein
huyết thanh trong những tháng mùa đông cao hơn hơn mùa hè (Aashaq và nnk., 2019). Tuy
nhiên, với nhóm nghiên cứu của Das (2014) và Cozzi (2011), lại có những ý kiến trái chiều,
cho rằng tổng lượng protein trong huyết thanh trong mùa hè cao hơn so với mùa đông (Das và
nnk., 2014; Cozzi và nnk., 2011). Nghiên cứu về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của Kalyani
và nnk. (2018), được thực hiện 70 con bò thuộc bảy giống khác nhau là Gir, Sahiwal, Deoni,
Kangayam, Ongole, Rathi và Tharparkar. Theo kết quả của nghiên cứu đã cho thấy, nồng độ
globulin huyết thanh không bị ảnh hưởng bởi tác động theo mùa (Kalyani và nnk., 2018). Kết
quả ấy tương tự với kết quả ghi nhận của (Aashaq và nnk., 2019)
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, lượng chất béo trung tính ở mùa đông sẽ có nồng độ cao
hơn mùa hè (Aashaq và nnk., 2019; Chandrashekhar và nnk., 2017; Ahmed và nnk., 2012). Tuy
nhiên, với nghiên cứu của (Giuseppe và nnk., 2014) lại có nhận định ngược lại. Bên cạnh đó,
trong nghiên cứu của (Cerutti và nnk., 2018) đã ghi nhận rằng lượng chất béo trung tính có sự
ảnh hưởng theo mùa và đặc biệt là trên giống bò đực.
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự thay đổi các chỉ số sinh lý máu trên bò,
Cardoso và nnk. (2015) đã thực hiện trên 40 con bò thuộc các giống Gir, Girolando, Nelore, Sindhi
và Indubrasil, trong độ tuổi từ 3 – 4 tuổi và sống ở môi trường nhiệt đới. Sau nghiên cứu, kết quả
ghi nhận lại đã cho thấy, khoảng thời gian trong ngày sẽ có sự ảnh hưởng đến thể tích hồng cầu và
số lượng hồng cầu trong máu. Giống bò Nelore có khối lượng tế bào hồng cầu thấp nhất (37,46),
Nelore và Indubrasil có tổng giá trị huyết tương thấp nhất, protein (lần lượt là 7,58 và 7,46). Giống
bò Sindhi có nồng độ bạch cầu, huyết sắc tố và tế bào lympho thấp nhất (lần lượt là 9,33; 12,24 và
56,39) và có số lượng bạch cầu ái toan lớn nhất (6,89). Đối với các giống bò còn lại các chỉ số sinh
lý máu ở mức trung bình và có sự tương đồng với các cá thể bò khỏe mạnh được đối chiếu. Theo
kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, các chỉ tiêu về sinh lý máu như thể tích tế bào hồng cầu, số
lượng tế bào hồng cầu,... bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường như chỉ số nhiệt độ và độ ẩm.
Phản ứng này có liên quan đến stress nhiệt cao ở vật nuôi (Cardoso và nnk., 2015).
Các chỉ số sinh lý sinh hóa máu đa phần đều bị tác động bởi các yếu tố nội sinh di truyền,
giới tính, stress, độ tuổi, trạng thái sinh lý và các yếu tố ngoại cảnh điều kiện dinh dưỡng, khí
hậu, thời tiết hoặc các mùa trong năm. Dinh dưỡng là yếu tố chính có thể tạo ra những thay đổi
sâu sắc về đặc điểm trao đổi chất ở động vật (Ingvartsen và nnk., 2006). Bên cạnh, kết quả ghi
nhận được về sự ảnh hưởng của các yếu tố về di truyền, giới tính, và độ tuổi đã được trình bày
như trên. Tác động của thời kỳ mang thai và cho con bú ở bò cũng có những tác động đáng kể
tới các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu ở bò. Các chỉ số sinh hóa bị ảnh hưởng bởi ngày sau sinh,
giá trị thấp nhất vào những ngày đầu của sữa non và cao nhất vào những ngày cuối cùng của
thời kỳ (Coroian và nnk., 2017). Ở động vật, việc thay đổi các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu phần
nào giúp vật nuôi có thể thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống, khí hậu hoặc các điều
kiện dinh dưỡng và sinh lý của vật nuôi. Chính vì thế, thông qua các chỉ số sinh lý, sinh hóa
máu có thể đánh giá về điều kiện sống và sức khỏe của vật nuôi.

11
2.3. Tình hình nghiên cứu các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lý máu của bò lai Sind được Đoàn Hữu Lực
và nnk. thực hiện năm 2006. Nghiên cứu được thực hiện trên 30 con bê cai sữa lai Sind, gồm
10 đực và 20 cái trọng lượng 100 kg – 120 kg/ con được nuôi trong thời gian 240 ngày. Sau
nghiên cứu, nhóm tác giả đã ghi nhận kết quả như sau: Số lượng hồng cầu biến động 6,60 –
7,80 triệu/mm3 máu, có sự khác biệt so với bò có sinh lý bình thường là 6 – 8 triệu/mm3 máu.
Về số lượng bạch cầu dao động từ 6.900 – 7.950/ mm3 máu, thấp hơn so với bò trong tình trạng
sinh lý bình thường khoảng 8.200/ mm3 máu. Hàm lượng protein của giống bò được nghiên
cứu không có sự khác biệt so với bò có chỉ số sinh lý máu bình thường. Lượng albumin trong
máu biến động 3,30 – 3,40g/dl máu, tương đương với bò có sinh lý ở trạng thái bình thường.
Globulin trong khoảng từ 1,58 – 2,30 g/ dl thấp hơn nhiều so với hàm lượng globulin trong máu
bò có trạng thái sinh lý bình thường là 4,10 g/ dl máu. Hàm lượng ure trong máu từ 42,45 –
58,60 mg/ dl máu, chỉ số nồng độ nitơ – ure huyết tương (BUN) của bò thí nghiệm nuôi ở các
nghiệm thức có sự biến động từ 28,31 – 39,08 (Đoàn Hữu Lực và nnk., 2006). Kết quả của
nghiên cứu này có thể được dùng để đối chiếu với các nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của
hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong thức ăn đến các chỉ số sinh lý máu ở bò.
Tại trung tâm gia súc lớn trên các địa phương ở Việt Nam hiện nay, việc tiến hành đánh
giá các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò đã trở thành một phương pháp phổ biến, giúp phản ánh
được khả năng thích nghi của các giống bò nuôi nhốt tại đây. Chỉ số hồng cầu bò Red Angus
(RA) nhập nội có là 6,4 triệu/ mm3, bạch cầu là 8,7 ngàn/ mm3, tiểu cầu là 494 ngàn/ mm3, hàm
lượng hemoglobin đạt 97,7 g/ l – 31,5% (Hoàng Thị Ngân và nnk., 2021). Một số chỉ tiêu sinh
lý máu trên bò lai F2 (Charolais x LS) có chỉ số hồng cầu 6,57; hematocrit 28,6; tiểu cầu 241,2;
bạch cầu 1,8. Bò DrM thuần nhập nội có chỉ số hồng cầu đạt từ 5,84 – 6,45 triệu/ mm3,
hemoglobin 9,73 – 10,35 g%, hematocrit 30,21 – 31,26 %, bạch cầu 11,26 – 11,38 ngàn/ mm3
(Phạm Văn Quyến, 2010). Như vậy, các nghiên cứu về chỉ tiêu sinh lý máu góp phần đánh giá
được tình trạng sức khỏe của các giống bò cũng như sự thích nghi trong điều kiện chăn nuôi tại
các Trung tâm chăn nuôi nói riêng, trang trại gia súc tại Việt Nam nói chung.
Nhìn chung, ở Việt Nam các nghiên cứu về các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu bò còn ở
mức hạn chế. Trong khi đó, việc phân tích các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu bò giúp người nông
dân và bác sĩ thú y đánh giá chính xác về hiệu suất và chất lượng đàn bò, nắm chắc được tình
trạng sức khỏe của bò, từ đó có những thay đổi về chế độ ăn uống, điều kiện nuôi nhốt phù hợp
cho sự phát triển đàn bò. Do vậy, việc nghiên cứu và đánh giá về các chỉ số sinh lý, sinh hóa
máu bò là rất cần thiết cho ngành chăn nuôi bò trong tương lai.
3. KẾT LUẬN
Các chỉ số sinh lý và sinh hóa máu của các giống bò bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như
giới tính, độ tuổi, sức khỏe, sinh lý, stress, thời tiết, sự thay đổi mùa trong năm, điều kiện và
môi trường nuôi nhốt. Thông qua việc đánh giá các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu góp phần cung
cấp thông tin đánh giá tình hình sức khỏe và dinh dưỡng của vật nuôi, giúp chẩn đoán sớm các
bệnh xuất hiện trên vật nuôi, cũng như có thể xây dựng hệ thống chăn nuôi và dinh dưỡng hợp
lý. Bên cạnh đó, kết quả ghi nhận về các chỉ số sinh lý, sinh hóa máu còn được sử dụng để so
sánh đối chiếu giữa các nghiên cứu về các giống bò hiện nay, góp phần đánh giá chất lượng,
năng suất giống vật nuôi, phục vụ cho công tác chọn lọc và lai tạo giống. Tuy nhiên ở nước ta
hiện nay các nghiên cứu về chỉ số sinh lý, sinh hóa máu của các giống bò còn ở khiêm tốn, do
đó cần tiếp tục mở rộng nghiên cứu tại Việt Nam trong thời gian tới.

