
289
- Thắt trĩ bằng vòng cao su đã được thực hiện từ thế kỷ 19 nhưng vì cột búi trĩ
chung với cả da quanh hậu môn nên sau thắt rất đau, cho nên không được sử dụng
rộng rải. Đến năm 1958 Blaisdell đã thành công với việc chỉ cột búi trĩ không có lẫn da
và các mô chung quanh. Barron 1963 đã tạo ra dụng cụ để thắt trĩ với vòng cao su và
sau đó với dụng cụ cải tiến của Mc Giveny đã đưa điều trị thắt trĩ với vòng cao su
thành một phương pháp điều trị trĩ thành công và được lựa chọn hàng đầu trong các
phương pháp điều trị bằng thủ thuật.
Nguyên tắc chính của thắt vòng cao su là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo
mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc, do đó sẽ cố định ống hậu môn
đúng với nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn.
2.3.3. Quang đông hồng ngoại:
- Phương thức sử dụng nhiệt điều trị trĩ đã được thực hiện hàng trăm năm nay.
Mục tiêu của phương pháp làm đông là làm cho mô bị đông lại bởi tác động của sức
nóng, tạo nên sẹo xơ làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định trĩ vào ống hậu
môn. Với tia Laser, dòng điện cao tần cũng có tác động làm đông như tia hồng ngoại,
nhưng sự chính xác về độ sâu xuyên thấu của tác động làm đông của 2 phương pháp
này không chính xác bằng tia hồng ngoại với máy quang đông. Sự xuyên thấu mô của
tia hồng ngoại được định trước bằng cách điều chỉnh tốc độ của tia và độ hội tụ chính
xác trên lớp mô này. Máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng
cụ điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hòa nhịp tim.
- Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2. Phương pháp
này có ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả nhưng có nhược điểm là
máy khá đắt và thường phải làm thủ thuật nhiều lần.
2.3.4. Phẫu thuật:
- Nhóm phẫu thuật 1: gồm 2 nhóm phẫu thuật
+ Phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc:
Phẫu thuật Whitehead: nguyên tắc là cắt khoanh niêm mạc và lớp dưới niêm
mạc có các búi tĩnh mạch trĩ, sau đó kéo niêm mạc từ trên xuống khâu với da ở hậu
môn. Phương pháp này hiện nay hầu như không được sử dụng vì để lại nhiều biến
chứng nặng nề như hẹp hậu môn, đại tiện mất tự chủ và rỉ dịch ở hậu môn. Nhưng vì
tính chất triệt để của phẫu thuật nên nhiều tác giả vẫn sử dụng nguyên tắc của phẫu
thuật này nhưng cải biên lại để làm giảm các biến chứng, ví dụ phẫu thuật Toupet.
+ Phẫu thuật cắt từng búi trĩ:
Nguyên tắc phẫu thuật này là cắt riêng biệt từng búi trĩ một, để lại ở giữa các
búi trĩ các mảnh da-niêm mạc (cầu da niêm mạc). Nhóm phẫu thuật này gồm có PT
Milligan Morgan (1937), PT Ferguson (1959), PT Parks (1965), PT BV Việt Đức
(Nguyễn Đình Hối, 1966).
Nhóm phẫu thuật này gồm2 nhóm chính là:
* Cắt trĩ mở: PT Milligan Morgan , PT Nguyễn Đình Hối
* Cắt trĩ kín: PT Ferguson.
Nhóm phẫu thuật này tránh được các biến chứng của nhóm phẫu thuật cắt
khoanh niêm mạc da, nhưng vẫn còn nhược điểm là đau sau mổ, thời gian nằm viện
dài, thời gian trở lại lao động muộn và không hiệu quả trong các trường hợp trĩ vòng.
- Nhóm phẫu thuật 2:
Xuất phát từ các nhược điểm của nhóm phẫu thuật dưới cột Morgagni và các
phát hiện mới về sinh bệnh học, từ thập niên 90, dựa trên nguyên tắc bảo tồn khối đệm
hậu môn, giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và thu nhỏ thể tích khối trĩ, một số phẫu
thuật mới đã ra đời với nguyên tắc treo hậu môn như PT Longo, khâu treo trĩ bằng tay