
Nghiên
cứu
-
Trao
đổi
TRUYỀN
THÔNG
CHÍNH
SÁCH
TRONG
(HUYÊN
ĐÕISÓ
ờ
VIỆT
NAM
LÊ
VĂN
HÒA
*
1.
Khái
quát
về
truyền
thông
chính
sách
a
Một
số
khái
niệm
truyền
thông
chính
sách
Chính
sách
công
là
một
trong
những
công
cụ
cơ
bản
được
nhà
nước
sử
dụng
để
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ
quản
lý
nhà
nước
và
phục
vụ
xã
hội.
Chu
trình
chính
sách
công
thường
bát
đầu
từ
hoạch
định
chính
sách
(HĐCS),
tiếp
theo
là
thực
thi
chính
sách
và
sau
đó
là
đánh
giá
chính
sách.
Một
trong
những
chất
liệu
quan
trọng
góp
phần
làm
nên
sự
thành
công
của
các
giai
đoạn
trong
chu
trình
chính
sách
là
thông
tin,
kiến
thức,
kinh
nghiệm,
cũng
như
sự
thống
nhất
về
nhận
thức
và
hành
động
của
các
bên
liên
quan,
do
đó,
truyền
thông
là
cần
thiết
trong
tất
cả
giai
đoạn
của
chu
trình
chính
sách.
Trong
bối
cảnh
xây
dựng
vá
phát
triển
chính
phủ
số
ở
Việt
Nam
hiện
nay,
chuyển
đổi
số
trong
truyền
thông
chính
sách
cẩn
được
xác
định
là
nhiệm
vụ
quan
trọng
của
cơ
quan
nhà
nước
các
cấp,
nhằm
tận
dụng
lợi
thế
của
công
nghệ
số
để
nâng
cao
chất
lượng
và
hiệu
quả
công
tác
truyền
thông
chính
sách,
góp
phần
nâng
cao
chất
lượng
chính
sách,
hiệu
lực
và
hiệu
quả
thực
thi
chính
sách.
Từ
khóa:
Truyền
thông
chính
sách;
chuyến
đổi
số;
chính
sách
công;
hoạch
định
chính
sách.
In
the
context
of
building
and
developing
digital
government
in
Vietnam
today,
digital
transformation
in
policy
communication
should
be
identified
as
an
important
task
of
state
agencies
at
all
levels,
in
order
to
take
advantage
of
digital
technology
to
improve
the
quality
and
effectiveness
of
policy
communication,
contributing
to
improving
policy
quality,
efficiency
and
effectiveness
of
policy
implementation.
Keywords:
Policy
communication;
digital
transformation;
public
policy;
policy
making.
NGÀYNHẬN:
12/5/2023
NGÀYPHẢN
BIỆN,
ĐÁNH
GIÁ
21/6/2023
NGÀYDUYỆT:
17/7/2023
Tạp
chí
Quản
lý
nhà
nước
-
Sô
330
(7/2023)
Truyền
thông
là
khái
niệm
được
hiểu
theo
nhiều
khía
cạnh
và
phương
diện
khác
nhau.
Tuy
nhiên,
hiểu
một
cách
đơn
giản,
truyền
thông
là
quá
trình
trao
đổi,
chia
sẻ
thông
tin,
tình
cảm...
giữa
hai
hoặc
nhiều
đối
tượng
khác
nhau
nhàm
thay
đổi
nhận
thức,
hành
vi
và
thái
độ
sao
cho
phù
họp
vói
nhu
cầu
phát
triển
của
xã
hội.
Theo
nghĩa
hẹp,
“
Truyền
thông
chính
sách
là
quá
trình
quảng
bá,
phổ
biến,
thông
tin
về
chính
sách
đến
người
dân
thông
qua
các
phương
tiện
truyền
thông
”
1
.
Theo
nghĩa
rộng,
“
Truyền
thông
chính
sách
là
những
hoạt
động
trung
tâm
của
các
công
chức
chính
phủ
trong
tổng
thể
quy
trình
chính
sách
từ
xây
dựng
chương
*
TS,
Học
viện
Hành
chính
Quốc
gia
n

Nghiên
cứu
-
Trao
đổi
trình
nghị
sự,
xây
dựng
chính
sách,
thực
thi
chính
sách,
đánh
giá
chính
sách,
trong
đó
chính
phủ
trung
ưong
và
địa
phưong
xây
dựng
tốt
các
mối
quan
hệ
vói
công
chúng
và
các
nhóm
lọi
ích,
khuyến
khích
họ
tham
gia
vào
quy
trình
chính
sách
’
’
2
.
Trong
các
xã
hội
dân
chủ
hiện
đại,
người
dân
là
đối
tác
trong
quản
trị
quốc
gia,
tham
gia
vào
quá
trình
chính
sách
công
dưới
các
hình
thức,
như:
cung
cấp
thông
tin,
tham
vấn
và
tham
gia.
Do
đó,
truyền
thông
chính
sách
(TTCS)
là
quá
trình
tương
tác
giữa
các
chủ
thể
tham
gia
vào
chu
trình
chính
sách,
gồm
cơ
quan
nhà
nước
(CQNN)
các
cấp,
các
cá
nhân,
tổ
chức,
cộng
đồng
xã
hội,
dưới
hình
thức
cung
cấp
thông
tin,
tham
vấn
và
tham
gia
nhàm
chia
sẻ
các
ý
tưởng,
kiến
thức,
kinh
nghiệm,
thông
tin,
phục
vụ
cho
hoạch
định,
thực
thi
và
đánh
giá
chính
sách.
b.
Vai
trò
của
truyền
thông
chính
sách
Thứ
nhất,
vai
trò
của
truyền
thông
trong
HĐCS.
(1)
Xác
định
và
truyền
tải
các
vấn
đề
của
xã
hội
đến
các
cơ
quan
HĐCS.
Truyền
thông
có
vai
trò
đặc
biệt
quan
trọng
trong
việc
thiết
lập
chương
trình
nghị
sự
chính
sách.
Các
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
phát
hiện
và
truyền
tải
các
vấn
đề
công
đến
các
CQNN
có
thẩm
quyền
và
xã
hội
thông
qua
các
phương
tiện
truyền
thông.
Nhờ
đó,
các
cơ
quan
HĐCS,
các
nhà
chính
trị,
nhà
quản
lý
phát
hiện
kịp
thòi,
chính
xác
những
vấn
đề
phát
sinh
từ
thực
tiễn
đời
sống
xã
hội
cần
giải
quyết
bàng
chính
sách.
(2)
Phản
ánh
tâm
tư,
nguyện
vọng
của
các
tầng
lóp
nhân
dân.
Thông
qua
các
phương
tiện
truyền
thông,
người
dân
được
tự
do
phát
biểu
ý
kiến,
bày
tỏ
tâm
tư,
nguyện
vọng.
Qua
đó,
cung
cấp
cơ
sở
thực
tiễn
để
các
cơ
quan
HĐCS,
các
nhà
chính
trị,
nhà
quản
lý
xác
định
vấn
đề,
thiết
lập
mục
tiêu
và
xác
định
các
giải
pháp
chính
sách
phù
họp
với
thực
tiễn
đòi
sống
xã
hội,
với
mong
muốn
và
nguyện
vọng
của
người
dân.
D
(3)
Tạo
ra
áp
lực
phải
giải
quyết
các
vấn
đề
chính
sách.
Truyền
thông
không
chỉ
cung
cấp
thông
tin
cho
các
vấn
đề
công
mà
còn
tạo
ra
áp
lực
xã
hội
buộc
Nhà
nước
quan
tâm
và
ban
hành
chính
sách
giải
quyết
vấn
đề
đó.
(4)
Truyền
tải
những
đề
xuất
chính
sách
đến
cơ
quan
HĐCS.
Thông
qua
việc
gặp
gỡ,
trao
đổi
với
các
chuyên
gia,
nhà
khoa
học,
nhà
quản
lý,
các
đối
tượng
bị
ảnh
hưởng
bởi
vấn
đề
công
(người
dân
và
doanh
nghiệp),
các
phóng
viên
ghi
nhận
và
phản
ánh
rộng
rãi
thông
qua
các
phương
tiện
truyền
thông
các
đề
xuất
giải
pháp
chính
sách.
Nhiều
giải
pháp
chính
sách
đề
xuất
có
giá
trị
và
khả
thi
là
nguồn
trực
tiếp
để
các
cơ
quan
HĐCS
nghiên
cứu,
xem
xét
và
tiếp
thu
trong
quá
trình
HĐCS.
(5)
Là
diễn
đàn
xã
hội,
tạo
cơ
hội
để
các
cá
nhân,
tổ
chức
xã
hội
tham
gia
xây
dựng
chính
sách.
Khi
xây
dựng
đề
nghị
chính
sách
và
soạn
thảo
chính
sách
hoặc
sửa
đổi
một
chính
sách
nào
đó,
cơ
quan
HĐCS
phải
cung
cấp
thông
tin
và
tham
vấn
ý
kiến
của
đối
tượng
chịu
sự
tác
động
của
chính
sách,
các
cơ
quan
hữu
quan,
cá
nhân,
tổ
chức
trong
xã
hội.
Trong
quá
trình
đó,
truyền
thông
là
cầu
nối
quan
trọng
giữa
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
trong
xã
hội
với
cơ
quan
HĐCS,
nhà
chính
trị.
Bàng
việc
đăng
tải
hồ
sơ
chính
sách
trên
các
phương
tiện
truyền
thông,
gửi
văn
bản
trực
tiếp,
tổ
chức
các
hội
nghị,
hội
thảo,...
sẽ
thu
hút
sự
quan
tâm
và
tham
gia
góp
ý
kiến
của
đông
đảo
người
dân.
Đồng
thời,
truyền
thông
cũng
đăng
tải
rộng
rãi
những
bài
viết,
lời
bình
luận,
nhũng
nhận
xét
phản
biện
của
các
chuyên
gia
am
tường
vấn
đề
chính
sách,
những
người
có
trách
nhiệm,
có
liên
quan
trực
tiếp
đến
vấn
đề,
và
cộng
đồng
xã
hội.
Các
quan
điểm
khác
nhau
trong
cách
nhìn
nhận
vấn
đề
và
giải
pháp
giải
quyết
sẽ
tạo
nên
cơ
sở
để
tranh
luận
trên
phạm
vi
đại
chúng.
Đây
cũng
là
một
kênh
thông
tin
quan
trọng
để
cơ
quan
HĐCS
đề
xuất
được
những
chính
sách
mới
hoặc
cải
cách
chính
sách
hiện
hành
mà
có
Tạp
chí
Quản
lý
nhà
nước
-
Sô
330
(7/2023)

Nghiên
cứu
-
Trao
đổi
thể
nhận
được
sự
đồng
thuận
cao
từ
các
bên
liên
quan
và
của
toàn
xã
hội.
Thứ
hai,
vai
ưò
của
truyền
thông
trong
thực
thi
chính
sách.
TTCS
có
tác
động
rất
lớn
đến
hiệu
lực
và
hiệu
quả
của
thực
thi
chính
sách.
(1)
Phổ
biến,
tuyên
truyền
chính
sách
tói
người
dân
và
xã
hội
nhàm
nâng
cao
nhận
thức
về
chính
sách
và
thống
nhất
hành
động
của
các
bên
liên
quan
trong
thực
thi
chính
sách.
(2)
Phản
ánh
kịp
thòi
những
bất
cập,
chưa
họp
lý
của
các
chính
sách
so
vói
thực
tế
đòi
sống
xã
hội
đến
các
CQNN
có
thẩm
quyền
để
kịp
thòi
đưa
ra
những
sửa
đổi,
bổ
sung
chính
sách,
thậm
chí
chấm
dứt
chính
sách.
(3)
Phản
ánh
kịp
thòi
những
bất
cập,
hạn
chế
trong
thực
thi
chính
sách
đến
các
CQNN
có
thẩm
quyền
để
kịp
thòi
đưa
ra
các
biện
pháp
điều
chỉnh
thực
thi
chính
sách.
(4)
Tham
gia
vào
giám
sát
quá
trình
thực
thi
chính
sách,
thu
thập
thông
tin
về
quá
trình
thực
hiện
chính
sách,
kết
quả
thực
chính
sách;
chia
sẻ
kiến
thức,
kinh
nghiệm
thực
thi
chính
sách;
biểu
dương
và
nhân
rộng
những
nhân
tố
tích
cực;
phê
phán,
chỉ
trích,
lên
án
những
biểu
hiện
tiêu
cực,
sự
thiếu
công
khai
và
minh
bạch,
làm
sai,
trục
lọi
chính
sách,
phản
bác
thông
tin
xuyên
tạc
chính
sách.
Thứ
ba,
vai
trò
của
truyền
thông
trong
đánh
giá
chính
sách.
Quá
trình
này,
TTCS
có
các
vai
trò
sau:
(1)
Thông
qua
dư
luận
xã
hội
và
việc
thu
thập
thông
tin,
thăm
dò,
khảo
sát
ý
kiến
của
các
bên
liên
quan,
các
cơ
quan
truyền
thông
có
thể
đưa
ra
những
nhận
xét,
đánh
giá
về
kết
quả
và
tác
động
của
chính
sách,
cung
cấp
bàng
chứng
cho
đánh
giá
chính
sách.
(2)
Đăng
tải
rộng
rãi
những
kết
quả
chính
sách
được
đánh
giá
của
các
cơ
quan,
tổ
chức,
các
nhà
khoa
học,
các
chuyên
gia
và
các
bên
liên
quan.
Điều
này,
góp
phần
công
khai,
minh
bạch
cho
người
dân
và
xã
hội
về
những
thành
tựu
của
chính
sách,
bảo
đảm
trách
nhiệm
giải
trình
của
các
cơ
quan
thực
thi
chính
sách
trước
các
nhà
chính
trị
và
xã
hội.
Tạp
chí
Quản
lý
nhà
nước
-
số
330
(7/2023)
(3)
Giúp
các
cơ
quan
HĐCS,
nhà
chính
trị,
nhà
quản
lý
nhận
thức
rõ
hơn
và
đầy
đủ
hơn
những
tác
động
tích
cực
và
tiêu
cực
của
chính
sách.
Điều
này,
cung
cấp
cơ
sở
để
chủ
thể
hoạch
định
và
thực
thi
chính
sách
ban
hành
nhiều
quyết
định,
từ
việc
chấp
dứt
các
chính
sách
không
hiệu
quả,
đến
việc
tăng
cường
thực
thi
các
chính
sách
có
hiệu
quả,
đến
sửa
đổi,
bổ
sung
chính
sách,
thậm
chí
lựa
chọn
các
chính
sách
thay
thế.
2.
Chuyển
đổi
số
ừong
truyển
thông
chính
sách
công
Chuyển
đổi
số
(CĐS)
ở
Việt
Nam
bắt
đầu
được
đề
cập
nhiều
vào
năm
2018,
đặc
biệt
là
từ
khi
Thủ
tướng
Chính
phủ
ban
hành
Quyết
định
số
749/QĐ-TTg
ngày
03/6/2020
phê
duyệt
“
Chương
trình
chuyển
đổi
số
quốc
gia
đến
năm
2025,
định
hướng
đến
năm
2030
”
;
Quyết
định
số
942/QĐ-TTg
ngày
15/6/2021
phê
duyệt
Chiến
lược
phát
triển
Chính
phủ
điện
tử
hướng
tới
Chính
phủ
số
giai
đoạn
2021
-
2025,
định
hướng
đến
năm
2030;
Nghị
quyết
số
76/NQ-CP
ngày
15/7/2021
ban
hành
Chương
trình
tổng
thể
cải
cách
hành
chính
nhà
nước
giai
đoạn
2021
-
2030.
Các
văn
bản
này
đã
xác
định
nhiệm
vụ
và
trách
nhiệm
của
các
CQNN
trong
CĐS
nhằm
phát
triển
chính
phủ
số,
kinh
tế
số,
xã
hội
số.
Theo
đó,
“
Chuyển
đổi
số
là
quá
trình
thay
đổi
tổng
thể
và
toàn
diện
của
cá
nhân,
tổ
chức
về
cách
sống,
cách
làm
việc
và
phương
thức
sản
xuất
dựa
trên
các
công
nghệ
số
”
3
.
CĐS
trong
TTCS
là
quá
trình
thay
đổi
cách
thức
truyền
thông
trong
các
giai
đoạn
của
chu
trình
chính
sách
thông
qua
việc
ứng
dụng
công
nghệ
số.
CĐS
trong
TTCS
có
ý
nghĩa
quan
trọng,
giúp
cho
công
tác
TTCS
bao
trùm
trên
phạm
vi
rộng,
tiếp
cận
được
nhiều
đối
tượng
và
nhanh
chóng,
tương
tác
đa
chiều,
công
khai,
minh
bạch,
nhờ
đó,
tiết
kiệm
thòi
gian
và
chi
phí,
góp
phần
nâng
cao
chất
lượng
chính
sách,
hiệu
lực
và
hiệu
quả
thực
thi
chính
sách.
TTCS
được
thực
hiện
trong
tất
cả
giai
đoạn
của
chu
trình
chính
sách,
nên
CĐS
a

Nghiên
cứu
-
Trao
đổi
trong
TTCS
cũng
cần
được
thực
hiện
trong
cả
các
giai
đoạn
này.
(1)
Giai
đoạn
hoạch
chính
sách.
CĐS
trong
TTCS
tập
trung
ứng
dụng
công
nghệ
số
vào
việc
cung
cấp
thông
tin,
tiếp
nhận
góp
ý
và
giải
trình,
tạo
diễn
đàn
chia
sẻ
kiến
thức
và
kinh
nghiệm,
giám
sát
và
phản
biện
chính
sách
giữa
các
bên
liên
quan
và
xã
hội
trong
quá
trình
HĐCS,
nhàm
tăng
cường
nhận
thức,
sự
hiểu
biết,
sự
đồng
thuận
của
Nhà
nước
và
xã
hội
về
sự
cần
thiết
phải
ban
hành
chính
sách;
mục
đích,
quan
điểm
xây
dựng
chính
sách;
phạm
vi
điều
chỉnh,
đối
tượng
áp
dụng
chính
sách;
nội
dung
chính
sách;
tác
động
của
chính
sách.
(2)
Giai
đoạn
thực
thi
chính
sách.
CĐS
trong
TTCS
tập
trung
ứng
dụng
công
nghệ
số
để
phổ
biến,
tuyên
truyền,
giáo
dục
vể
nội
dung
chính
sách,
trình
tự,
thủ
tục
và
các
biện
pháp
thực
thi
chính
sách
đến
các
bên
liên
quan
trong
thực
thi
chính
sách
và
xã
hội;
tiếp
nhận
thông
tin
phản
ánh
những
kết
quả,
những
hạn
chế,
bất
cập,
những
vấn
đề
phát
sinh
trong
thực
tiễn
triển
khai
thực
thi
chính
sách
đến
CQNN
các
cấp
và
xã
hội,
nhầm
thống
nhất
nhận
thức
và
hành
động
của
các
bên
liên
quan
trong
thực
thi
chính
sách,
và
tăng
cường
thực
thi
chính
sách.
(3)
Giai
đoạn
đánh
giá
chính
sách.
CĐS
trong
TTCS
tập
trung
ứng
dụng
công
nghệ
số
để
thu
thập
bằng
chứng,
chia
sẻ
dữ
liệu,
thông
tin
cho
quá
trình
đánh
giá
chính
sách
và
phổ
biến,
tuyên
truyền
về
kết
quả
đánh
giá
chính
sách
đến
các
bên
liên
quan
và
xã
hội
nhầm
bảo
đảm
trách
nhiệm
giải
trình
và
hoàn
thiện
chính
sách.
3.
Nhiệm
vụ,
giải
pháp
chuyển
đổi
số
ttong
truyền
thông
chính
sách
công
Chỉ
thị
số
07
/
CT-TTg
ngày
21/3/2023
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
về
việc
tăng
cường
công
tác
TTCS,
đã
khẳng
định:
“
Truyền
thông
chính
sách
là
một
nhiệm
vụ,
một
chức
năng
quan
trọng
của
cơ
quan
hành
chính
nhà
nước
các
cấp.
Báo
chí
và
các
loại
hình
truyền
thông
khác
là
kênh
thông
tin,
là
phương
thức
cơ
bản,
quan
trọng
để
thực
hiện
việc
truyền
thông
chính
sách
”
.
Do
đó,
CĐS
trong
TTCS
không
chỉ
là
nhiệm
vụ
của
các
cơ
quan/tổ
chức
truyền
thông
mà
là
nhiệm
vụ
của
các
CQNN
các
cấp
và
các
bên
liên
quan
trong
chu
trình
chính
sách.
Đồng
thời,
CĐS
trong
TTCS
không
thể
tách
khỏi
CDS
quốc
gia
và
phát
triển
chính
phủ
số.
Do
đó,
cùng
với
việc
triển
khai
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
giải
pháp
CDS
theo
chức
năng,
nhiệm
vụ
được
giao,
các
cơ
quan/tổ
chức
TTCS
cần
quan
tâm
và
tập
trung
thực
hiện
các
nhiệm
vụ,
giải
pháp
cụ
thể
dưới
đây:
Một
là,
xác
định
mục
tiêu
và
nhiệm
vụ
CĐS
trong
TTCS.
Căn
cứ
vào
định
hướng,
nhiệm
vụ,
giải
pháp
xây
dựng
và
phát
triển
chính
phủ
số
của
Chính
phủ
và
tình
hình
cụ
thể,
cơ
quan/tổ
chức
xây
dựng
chiến
lược,
chương
trình,
dự
án,
kế
hoạch
tích
họp
nội
dung
về
CDS
trong
hoạt
động
của
cơ
quan
mình,
gán
kết
vói
ứng
dụng
công
nghệ
thông
tin,
phát
triển
chính
phủ
số,
chính
quyền
số,
trong
đó
xác
định
mục
tiêu,
nhiệm
vụ
CDS
trong
TTCS.
Khi
xây
dựng
mục
tiêu,
nhiệm
vụ
CDS
trong
TTCS,
cơ
quan/tổ
chức
cần
phối
họp
vóí
các
bên
liên
quan,
bởi
vì,
TTCS
là
hoạt
động
phối
họp
giữa
các
bên
liên
quan,
nên
việc
CDS
cần
có
sự
đồng
bộ
giữa
các
cơ
quan
thì
mói
phát
huy
tối
đa
lợi
ích
của
CDS.
Hai
là,
nâng
cao
nhận
thức
của
cán
bộ,
công
chức
trong
cơ
quan/tổ
chức
vê
CĐS.
CDS
trước
tiên
là
chuyển
đổi
nhận
thức
4
.
Để
thúc
đẩy
CDS
trong
TTCS
thì
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
cần
có
nhận
thức
và
tư
duy
đúng
về
CDS,
đặc
biệt
là
người
lãnh
đạo
-
đây
là
điều
kiện
tiên
quyết
để
từ
đó
truyền
cảm
hứng,
khát
vọng
và
quyết
tâm
thay
đổi
tói
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
trong
cơ
quan,
tổ
chức.
Để
nâng
cao
nhận
thức
về
CDS
trong
TTCS,
cơ
quan,
tổ
chức
thực
hiện
các
hoạt
động
thông
tin,
tuyên
truyền
nhầm
nâng
cao
nhận
thức
và
trách
nhiệm
của
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
về
vị
trí,
vai
trò
của
công
tác
TTCS;
về
sự
cần
thiết
và
tính
cấp
bách
của
CDS,
chủ
trương
của
Đảng
và
Nhà
nước
về
CDS,
xây
10
Tạp
chí
Quản
lý
nhà
nước
-
số
330
(7/2023)

Nghiên
cứu
-
Trao
đổi
dựng
và
phát
triển
chính
phủ
số,
nhất
là
CĐS
trong
TTCS.
Ba
là,
phát
triển
nên
tảng
số
trong
cơ
quan,
tổ
chức.
Phát
triển
chính
phủ
điện
tử
chủ
yếu
dựa
trên
hệ
thống
thông
tin,
còn
phát
triển
chính
phủ
số
chủ
yếu
dựa
trên
nền
tảng
số.
Do
đó,
cơ
quan,
tổ
chức
TTCS
cần
chuyển
đổi
sang
sử
dụng
dịch
vụ
điện
toán
đám
mây
được
cung
cấp
từ
các
doanh
nghiệp
chuyên
nghiệp.
Bốn
là,
xây
dựng
năng
lực
số
của
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
trong
các
cơ
quan,
tổ
chức.
Xây
dựng
năng
lực
số,
gồm:
đào
tạo
nhân
lực
số,
xây
dựng
thói
quen,
hình
thành
văn
hóa
đổi
mới
mô
hình
hoạt
động
và
thực
hiện
CĐS.
Một
giải
pháp
quan
trọng
để
xây
dựng
năng
lực
số
là
xây
dựng
và
triển
khai
các
chương
trình
bồi
dưỡng,
tập
huấn
nâng
cao
nghiệp
vụ,
kỹ
năng
cho
đội
ngũ
TTCS
trong
bối
cảnh
CĐS,
kỹ
năng
cung
cấp
thông
tin
cho
báo
chí,
kỹ
năng,
quy
trình,
cẩm
nang
xử
lý
thông
tin
và
ứng
phó
với
khủng
hoảng
truyền
thông
trên
không
gian
mạng.
Năm
là,
CĐS
trong
xã
hội
nhàm
hình
thành
xã
hội
số.
Xét
cho
cùng,
CĐS
là
phục
vụ
người
dân.
Mỗi
người
dân
trở
thành
công
dân
số
thì
CĐS
mói
thành
công.
Do
vậy,
CDS
mang
ý
nghĩa
của
một
cuộc
cách
mạng
toàn
dân
5
.
CDS
lấy
người
dân
là
trung
tâm
trước
hết
phải
trang
bị
phương
tiện
cho
người
dân,
thông
qua
việc
thực
hiện
phổ
cập
điện
thoại
di
động
thông
minh.
Mỗi
người
dân
một
điện
thoại
thông
minh.
Mỗi
hộ
gia
đình
một
đường
cáp
quang
6
.
Đồng
thời,
biên
soạn
và
phát
hành
cẩm
nang
thu
thập
và
chia
sẻ
thông
tin
trên
môi
trường
số
một
cách
an
toàn
cho
người
dân.
CDS
trong
TTCS
giúp
người
dân
bình
đảng
về
cơ
hội
tiếp
cận
và
tham
gia
tích
cực
vào
quá
trình
chính
sách
công.
4.
Kết
luận
Tất
cả
các
giai
đoạn
của
chu
trình
chính
sách
công,
từ
hoạch
định,
thực
thi
cho
đến
đánh
giá
chính
sách,
đều
gắn
liền
với
hoạt
động
của
TTCS.
TTCS
là
nhiệm
vụ,
chức
năng
của
các
cơ
quan/tổ
chức
truyền
thông
và
của
CQNN
các
cấp.
Do
đó,
CDS
trong
TTCS
không
chỉ
được
thực
hiện
bởi
các
cơ
quan,
tổ
chức
truyền
thông,
mà
còn
được
thực
hiện
bởi
các
CQNN
các
cấp.
CDS
trong
TTCS
giúp
cho
công
tác
TTCS
bao
trùm
trên
phạm
vi
rộng,
tiếp
cận
được
nhiều
đối
tượng
và
nhanh
chóng,
tương
tác
đa
chiều,
công
khai,
minh
bạch,
nhờ
đó,
tiết
kiệm
thòi
gian
và
chi
phí,
góp
phần
nâng
cao
chất
lượng
chính
sách,
hiệu
lực
và
hiệu
quả
thực
thi
chính
sách.
Vì
vậy,
khi
xây
dựng
và
ban
hành
chiến
lược,
chương
trình,
dự
án,
kế
hoạch
CDS,
CQNN
các
cấp
và
các
tổ
chức
truyền
thông
cần
tích
hựp
mục
tiêu
và
nhiệm
vụ
CDS
trong
TTCSÓ
Chú
thích:
1,
2.
Học
viện
Báo
chí
và
Tuyên
truyền
-
Báo
Đại
biểu
nhân
dân
-
Cơ
quan
họp
tác
quốc
tế
Hàn
Quốc.
Truyền
thông
chính
sách
-
Kinh
nghiệm
Việt
Nam
và
Hàn
Quốc.
H.
NXB
Chính
trị
quốc
gia
Sự
thật,
2017.
tr.
19,68.
3,4,5,6.
Bộ
Thông
tin
và
Truyền
thông.
Cẩm
nang
chuyển
đổi
số.
H.
NXB
Thông
tin
và
Truyền
thông
(tái
bản
có
chỉnh
sửa,
cập
nhật,
bổ
sung
năm
2021),
tr.
21,3,45,
66.
Tài
liệu
tham
khảo:
1.
ChỉthỊ07/CT-TTgngày21/3/2023của
Thủ
tướng
Chính
phủ
về
việc
tăng
cường
truyền
thông
chính
sách.
2.
Nghị
quyết
số
76/NQ-CP
ngày
15/7/2021
của
Chính
phủ
ban
hành
Chương
trình
tổng
thể
cải
cách
hành
chính
nhà
nước
giai
đoạn
2021
-
2030.
3.
Quyết
định
số
749/QĐ-TTg
ngày
03/6/2020
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
phê
duyệt
Chương
trình
chuyển
đổi
số
quốc
gia
đến
năm
2025,
định
hướng
đến
năm
2030.
4.
Quyết
định
số
942/QĐ-TTg
ngày
15/6/2021
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
phê
duyệt
Chiến
lược
phất
triển
Chính
phủ
điện
tử
hướng
tói
Chính
phủ
số
giai
đoạn
2021
-
2025,
định
hướng
đến
năm
2030.
5.
Quyết
định
số
407/QĐ-TTg
ngày
30/3/2022
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
phê
duyệt
Đề
án
“
Tổ
chức
truyền
thông
chỉnh
sách
có
tác
động
lớn
đến
xã
hội
trong
quá
trình
xây
dựng
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
giai
đoạn
2022
-
2027
”
.
Tạp
chí
Quản
lý
nhà
nước
-
số
330
(7/2023)

