Tương lai của truyền
thông
Kunda Dixit là một nhà báo nổi tiếng của Nepal và là chủ nhà xuất bản
Himalmedia, nhà xuất bản có uy tín rất cao về tính chuyên nghip và lòng t
trọng ở Nepal. Nhà xuất bản này đã vai trò quan trọng trong phong trào
đấu tranh đòi tdo báo chí và dân chNepal trong những năm gần đây.
Sau khi nhận bằng cao học về báo chí tại trường tổng hợp Columbia, ông
trở thành phóng viên thường trú của BBC World Services tại trụ sở Liên hợp
quốc, sau đó làm việc cho hãng thông tấn Inter Press Servicesới cương
vị giám đốc phụ trách châu Á Thái Bình Dương ở Manila. Tại đó, ông đã
tham gia vào việc đưa tin và biên tập nhiều tin bài của khu vực thường b
các hãng thông tấn lớn tảng lờ. Ông là tác giả của cuốn sách: “Nghề báo
khi hành tinh là quan trọng”, được sdụng ở các trường đại học báo c
trên toàn thế giới, ớng dẫn sinh viên viết một cách có ý nghĩa về các vấn
đề môi trường và phát triển. Ông cũng đồng thời là giáo sư của trường đại
học Katmandu, tham gia giảng dậy vềo chí và truyền thông.
XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ TỪ CƠ S
Đưa mt nhìn khắp thế giớim nay, đâu đâu ta cũng thấy chỉ một nền văn
hoá đầy đơn điệu
Sở hữu về truyền thông giờ đây đang dần tập trung vào tay của một số ít
người. Ngành kinh doanh văn hóa toàn cầu này coi con người như là những
người tiêu dùng ch kng phải là các công dân. Nôi dung ngày càng mang
tính gii trí, được đóng gói và bán như những những hộp thịt gà Mc Donald
nhm thu hút tối đa lượng độc giả trên toàn thế giới.
Những tiến bộ về công nghệ thông tin và truyn thông thúc đẩy nhanh hơn
xu hướng này, nhm mở rộng khả ng tiếp cận thị trường. Cách đây mười
năm, chúng ta còn nghĩ rng Internet sẽ giúp san bằng những cách biệt trên
sân chơi y, mang lại tiếng nói cho những người vốn vô thanh, nhưng
chẳng phải chờ đợi lâu, không gian ảo chẳng bao lâu sau cũng bị chi phối
bởi chính những thực thể đã thống trị ngành truyn thông truyền thống. Trên
thực tế, sự hội tụ của truyền hình, vin thông và mạng máy tính đã khiến cho
các ch sở hữu trong ngành truyền tng liên kết với các ngành khác để
tham gia vào cuộc chơi. Và như vậy, thay vì giảm đi sự cách biệt vng
nghệ số hoá, cái hố ngăn cách lại bị khoét sâu thêm.
Chúng ta đã thật ngây thơ khi tin rằng Internet sẽ là một điều gì đó thật khác
biệt, mang lại cho những cộng đồng bị lép vế một cơ hội được lên tiếng.
Nhưng cái cơ chế thương mại chi phối Internet cũng chẳng khác gì so vi cái
mà nó đã thay thế. Dường như, đểthể thu hẹp khoảng cách công nghệ số,
điều trước tiên chúng ta phải làm đó là giải quyết vấn đề pn biệt về giáo
dục, sức khoẻ và thu nhập trong đất nước của chúng ta và trên toàn thế giới.
Ở nơi nào mà truyền thông cơ sở phát huy tác dụng vốn có của nó thì ở đó
nền dân chủ mới được củng cố vững chắc và do đó đem đến sự phát triển.
Đó là lý do ti sao, kể cả khi chúng ta thể tìm được những thông tin có ý
nghĩa trên Internet thì thông tin y cũng bị chìm lấp trong mhỗn độn thông
tin rtiền, những chuyện tầm phào. Nhng người tìm kiếm những thông tin
liên quan và có ý nghĩa cho họ dần đổ dồn về các trang web tạo nên những
cộng đồng ảo mà ở đó họ tìm được sự đồng thuận với nhau. Điều này “ghét-
tô” hoá họ, và Internet đã dựng lên những bức tường ngăn cách thay vì xây
nên chiếc cầu nối những cộng đồng mong muốn được trao đổi với nhau.
Tất cả những cái đó đã tạo nên những tác động tiêu cực đối với tính đa dạng
về văn hóa của loài người, đẩy nhanh hơn quá trình biến mất của nhiều thứ
tiếng, lễ hội, bài hát, và các phong cách sng khác nhau. Một số lượng đông
đảo người dân trên thế giới được tiếp cận với một thứ văn hoá tiêu dùng toàn
cầu thông qua truyền thông đại chúng toàn cầu, chúng m thay đổi thói
quen m thực của con ngưi, quyết định những vấn đề như: xem gì, mặc gì,
nói chuyn với ai và nói chuyn như thế nào…Và khi người ta ăn thứ ngũ
cốc đã được chế biến thì nhng loại thức ăn bản xứ biến mất. Khi chúng
biến mất thì nhng người nông dân trồng kê, trồng rau, và trồng lúa mỳ sẽ
mất kế sinh nhai. Khi có những con tàu ra khơi đánh bắt bằng lưới quét
tận đáy thì skhông còn đủ cá cho những ngư dân truyền thống nữa và họ sẽ
di cư đến sống ở những khu ổ chuột ở các thành phố. Những ngư dân ở miền
trung Philippines đã từng sử dụng i lăm từ khác nhau để chỉ các loại gió
thổi qua các hòn đảo của họ, nhưng khi họ không còn đi biển nữa thì những
từ ấy cũng biến mất.
Ở Châu Á, chúng ta xem Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc như những đại diện
tiêu biểu cho việc truyền tng hin đại có thể tồn tại song song với bảo tồn
văn hoá. một điều chắc chắn là bên dưới lớp vỏ bên ngoài của phong
cách ăn mặc và ứng xử âu hoá, báo chí đã giúp người dân những nước này
vừa quảng bá vừa bảo tồn nền văn hoá của họ.
Về điều này, Nam Á không được thành công cho lắm. Nội dung của truyền
thông được cung cấp qua ngôn ngữ địa phương không luôn đồng nghĩa với
việc nó bảo vệ các giá trị và văn hoá bản địa. những vở kịch dài kỳ bằng
tiếng Hindi trong đó c tình tiết hầu như được copy lại y nguyên những seri
phim truyền hình mang tính ci ơng như: Dallas”, Bold and Beautiful”.
Những chương trình này đều mang một vẻ như nhau, các sản phm được
quảng cáo là tt cả những vật dụng tiêu dùng do các công ty đa quốc gia sản
xuất. Hầu như không mấy ai nghĩ đến phong cách sống khác, không ai dám
tán thành việc hạn chế tiêu dùng lãng phí đbảo vệ bầu sinh quyển của trái
đất.
Kết quả là truyền thông toàn cu đang trực tiếp và gián tiếp quảng bá cho
một lối sống không bền vững mà sẽ không mang lại kết cục tốt đẹp nào
trong tương lai. Người ta cứ sử dụng một mức tiêu thnăng lượng giống
như một gia đình Mỹ tiêu thụ, và đốt nguồn năng lượng hoá thạch như thể
s không có ngày mai. Nước Mỹ với dân số chỉ chiếm 2% dân số thế giới lại
tiêu dùng đến 25% tài nguyên của thế giới. Ấn Độ, và Trung Quốc với
25% dân sthế giới sẽ cần đến 2 quả đất nếu như công dân của các nước này
sống theo kiểu Mỹ. Truyền thông định nghĩa cụm từ “giàu có” và “sung túc”
theo nghĩa hẹp, không tính đến việc tiêu dùng mang lại những gì cho trái đất.