
143
Vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông
trong việc lựa chọn điểm đến của khách du lịch tại tỉnh Đắk Nông
Doãn Văn Tân, Nguyễn Bình Phương Thảo, Phan Sỹ Thống
Tóm tắt
Phát triển du lịch là một trọng những trọng tâm mà tỉnh Đắk Nông đề ra, theo Nghị quyết
số 82/NQ-CP 3của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát
triển du lịch hiệu quả, bền vững. Vì vậy các nhà quản lý, doanh nghiệp du lịch và các điểm du
lịch cần được đẩy mạnh các hoạt động Marketing nhằm nắm bắt những cơ hội lớn, thu hút du
khách trong và ngoài nước; góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế trên địa bàn
toàn tỉnh. Vì thế việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn điểm đến của của du
khách để đề ra chiến lược phù hợp nhằm thu hút khách. Chính vì thế, bài viết này sẽ trình bày
các vấn đề sau: (1) Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, (2) Vai trò của công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT) trong việc lựa chọn điểm của du khách…, (3) đề xuất một số
giải pháp nhằm thu hút khách du lịch tại các điểm đến.
Keyword: điểm đến du lịch, marketing du lịch, Đắknông,
Đặt vấn đề
Sau đại dịch COVID 19 thì UNWTO đưa ra kết quả cho thấy du lịch quốc tế đạt
khoảng 80% đến 95% vào năm 2023. Việc mở cửa trở lại của Trung Quốc cũng như các thị
trường và điểm đến châu Á khác dự kiến sẽ tiếp tục thúc đẩy du lịch cả trong khu vực và các
nơi khác trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Tính đến hết tháng 8/2023 lượng khách quốc
tế đến Việt Nam ước đạt 1.217.421 lượt, tăng 17,2% so với 7/2023 và tăng 150,3% so với cùng
kỳ năm 2022. Tính chung 8 tháng năm 2023 ước đạt 7.830.953 lượt khách, tăng 443,5% so với
cùng kỳ năm 2022 [ Nguồn: UNWTO.org]. Riêng tỉnh Đắk Nông, trong 6 tháng đu năm 2023,
toàn tỉnh thu hút khoảng 412.000 lượt du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng, tăng hơn 68% so
với cùng kỳ năm 2022; trong đó khách quốc tế ước đạt 2.470 lượt, tăng hơn 357%. Tổng lượt
khách lưu trú ước đạt 198.000 lượt. Tổng thu từ hoạt động du lịch trên địa bàn toàn tỉnh ước
đạt gn 80 tỷ đồng, tăng 219% so với cùng kỳ năm 2022 [daknong.gov.vn].
Để thúc đẩy nguồn kinh tế đến từ du lịch, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp đề ra
những chiến lược hiệu quả nhằm thu hút khách du lịch. Do đó, các điểm đến du lịch ngày càng
được đu tư, tôn tạo và làm mới về mặt cảnh quan nhằm xây dựng thương hiệu và quảng bá
đến với du khách.
Trong một nghiên cứu về mức độ hài lòng của du khách thì tác giả Quách Hương Giang
đã đưa ra nhận định sau: “Việc nắm bắt và hiểu đúng về hành vi người tiêu dùng và các yếu tố
ảnh hưởng tới hành vi có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp. Vì việc hiểu rõ các yếu
tố cấu thành nên ý định của một cá nhân về việc thực hiện hành vi nào đó có thể giúp nhà quản
lý có thể dự đoán được xu hướng thực hiện hành vi đó trong tương lai. Điều này rất có ý nghĩa
trong việc phân đoạn thị trường cũng như xác định khách hàng mục tiêu cho doanh nghiệp. Từ
đó, các nhà quản lý các cấp có thể nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của du khách; và có cơ sở
3 Nghị quyết số 82/NQ-CP của Chính phủ: Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng
tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững (chinhphu.vn)

144
để các nhà làm Marketing đưa ra những gợi ý hiệu quả trong nghiên cứu sản phẩm mới, tạo ra
những tính năng mới áp dụng nhu cầu của khách hàng, xác định giá cả hợp lý, hình thành các
kênh phân phối hiệu quả, xây dựng các nội dung truyền thông phù hợp, cũng như thực hiện các
yếu tố khác trong chiến lược Marketing hiệu quả; góp phần giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận
các nhóm khách hàng mục tiêu của mình”4. Vì vậy, nghiên cứu hành vi người tiêu dùng du lịch
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh du lịch tại điểm đến.
Bên cạnh đó cùng với sự phát triển công nghệ mới trong những năm qua đã thay đổi cách
tìm kiếm, chia sẻ thông tin và tạo ra nhiều thay đổi trong hành vi của khách du lịch (Huertas và
cộng sự, 2019). Sự bùng nổ của các ứng dụng di động và mạng xã hội cũng tác động tích cực
đến phương thức tiếp cận, chia sẻ thông tin du lịch của du khách; đến việc lựa chọn điểm đến,
nơi lưu trú, địa điểm ăn uống của khách du lịch.
Một số khái niệm
Điểm đến du lịch
Trong tiếng Anh, từ “Tourism Destination” được hiểu theo nghĩa tiếng Việt là điểm đến
du lịch. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UN-WTO): “Điểm đến du lịch là vùng không gian địa
lý mà khách du lịch ở lại ít nhất một đêm, bao gồm các sản phẩm du lịch, các dịch vụ cung cấp,
các tài nguyên du lịch thu hút khách, có ranh giới hành chính để quản lý và có sự nhận diện về
hình ảnh để xác định khả năng cạnh tranh trên thị trường” (UNWTO, 2005). Theo Cooper và
cộng sự (1998), điểm đến là sự tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất và dịch vụ để đáp
ứng nhu cu của du khách. Về mặt không gian vật lý, điểm đến thường có ranh giới vật lý và
hành chính để quản lý, có sự nhận diện về hình ảnh để xác định khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Các thuộc tính của điểm đến du lịch là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hài
lòng và trải nghiệm của khách du lịch như: Attractions (Điểm hấp dẫn du lịch), Amenities (Tiện
nghi, tiện ích công cộng), Accessibility (Khả năng tiếp cận), Image (Hình ảnh), Price (Giá cả),
Human Resources (Nguồn nhân lực).
Hành vi du lịch của du khách
Khái niệm hành vi du lịch của du khách là một khái niệm rộng lớn, bao gồm nhiều yếu
tố như nhu cu, mong muốn, động cơ, thái độ, nhận thức, quyết định và hành động của du
khách trong quá trình du lịch. Hành vi du lịch của du khách có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố bên ngoài như môi trường xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị và tự nhiên, cũng như
các yếu tố bên trong như tính cách, giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn và thu nhập. Hành vi
du lịch của du khách cũng có thể thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh khác nhau. Hành vi
du lịch của du khách là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu du lịch, vì nó liên quan đến
sự hài lòng và trung thành của du khách, cũng như đến sự phát triển bền vững của ngành du
lịch.
Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin (IT – Information Technology) là một thuật ngữ bao gồm phn mềm,
mạng lưới internet, hệ thống máy tính sử dụng cho việc phân phối và xử lý dữ liệu, trao đổi,
lưu trữ và sử dụng thông tin [Daintith, 2009].
4 Quách Phương Giang (2013), Examining international tourists’ satisfaction with Hanoi tourism,
Tourism Research, EMACIM Studies

145
Công nghệ thông tin và truyền thông
Công nghệ thông tin và truyền thông (Information Communication Technologies –
ICT) đã thay mở ra nhiều công cụ mới để nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường tính năng
động trong phát triển kinh tế bền vững. Kỷ nguyên mới của ICT đã mở ra một loạt các công cụ
mới cho du lịch. Sự phát triển của nó tạo ra một môi trường thuận lợi cho các cách tiếp cận
quản lý mới cho các điểm đến (Ivar-Bidal và cộng sự, 2019).
3. Các mô hình nghiên cứu ý định hành vi và vai trò của công nghệ thông tin - truyền
thông (ICT) về ý định lựa chọn điểm đến du lịch
3.1 Các lý thuyết về ý định hành vi
Một số mô hình lý thuyết về sự lựa chọn điểm đến trong du lịch phổ biến có thể kể đến
như: mô hình hành vi du khách của Mathieson và Wall (1982), mô hình sự lựa chọn điểm đến
của Woodside và Lysonski (1989), mô hình sự lựa chọn điểm đến của Um và Crompton (1990),
mô hình sự lựa chọn điểm đến của Sirakaya và Woodside (2005)… v.v.
Mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model – TAM)
Là một mô hình lý thuyết về hành vi sử dụng công nghệ, được đưa ra bởi Fred Davis vào
năm 1986. TAM là mô hình được ứng dụng rộng rãi nhiều nhất trong các nghiên cứu về hành
vi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ có tính công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực E-Banking, người
dùng phụ thuộc vào hai yếu tố chính:
Giá trị dự kiến (Perceived usefulness): Đây là mức độ mà người dùng tin rằng công nghệ
sẽ mang lại lợi ích cho công việc hoặc nhu cu của họ.
Độ dễ dàng sử dụng dự kiến (Perceived ease of use): Đây là mức độ mà người dùng tin
rằng việc sử dụng công nghệ sẽ dễ dàng và không phức tạp.
Lý thuyết hành vi hợp lý (TRA- The Theory of Reasoned Action)
Lý thuyết lập luận rằng các cá nhân đánh giá hậu quả của một hành vi cụ thể và tạo ra
ý định hành động phù hợp với đánh giá của họ. Cụ thể hơn, TRA tuyên bố rằng hành vi của cá
nhân có thể được dự đoán từ ý định của họ, có thể được dự đoán từ thái độ và chuẩn mực chủ
quan của họ. Một khía cạnh đặc biệt hữu ích của TRA từ góc độ công nghệ là sự khẳng định
của nó rằng bất kỳ yếu tố nào khác ảnh hưởng đến hành vi chỉ thực hiện một cách gián tiếp
thông qua thành phn thái độ và các chuẩn mực chủ quan. Do đó, TRA khá thích hợp trong bối
cảnh dự đoán hành vi sử dụng công nghệ đa phương tiện. Nhưng, TRA có hạn chế là không chỉ
rõ niềm tin cụ thể nào sẽ phù hợp trong các tình huống cụ thể [Phạm Xuân Sơn, 2023].
Mô hình thuyết hành động hợp lý TRA
Niềm tin và sự
đánh giá
Thái độ
Niềm tin quy
chuẩn và động
cơ
Quy
chuẩn chủ
Xu hướng
hành vi
Hành vi
thực sự

146
Mô hình tiến trình ra quyết định và các nhân tố ảnh hưởng tới sự lựa chọn điểm đến và
các dịch vụ du lịch của Mathieson & Wall, 1982
Nguồn: Nguyễn Hoàng Đông, 2019

147
Mô hình sự nhận thức và lựa chọn điểm đến tham quan (Woodside and Lysonski, 1989)
Nguồn: Nguyễn Hoàng Đông, 2019
Hành vi lựa chọn điểm đến của khách du lịch gồm năm giai đoạn: (1) điểm đến; (2) các
yếu tố về tâm lý xã hội, (3) sự phát triển của nhận thức; (4), niềm tin; (5) lựa chọn điểm đến
thông qua hình ảnh [Um and Crompton (1991)].
Tóm lại, từ những nghiên cứu trên, có thể thấy rằng các nhân tố ảnh hưởng bên trong và
bên ngoài là nhân tố đu vào và sự lựa chọn điểm đến là nhân tố đu ra. Như vậy sự lựa chọn
điểm đến sẽ trải qua 3 giai đoạn: (1) phát triển các ý tưởng, (2) xem xét và gắn bó với điểm đến;
(3) ra quyết định điểm đến cuối cùng. Trong các nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng du lịch
các nhà nghiên cứu tập trung lý giải nguyên nhân hay các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định
của du khách gồm: giai đoạn trước chuyến đi, trong chuyến đi và sau chuyến đi.
3.2 Vai trò của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đối với du lịch
Hệ sinh thái kinh doanh thông minh bao gồm nhà cung cấp tham gia chuỗi giá trị du lịch
không chỉ cung cấp vật chất, mà còn cả dịch vụ trực tuyến của các nhà cung cấp. Việc áp dụng
CNTT&TT vào nhu cu du lịch cũng nhanh chóng làm thay đổi việc quản lý và marketing du
lịch, và những công cụ này đã trở thành một yếu tố cơ bản của khả năng cạnh tranh cho điểm
đến du lịch. Bên cạnh đó, trong các tiến bộ công nghệ chung của điểm đến thông minh cn phải
được thích ứng với công nghệ thông minh cụ thể, công nghệ thông minh được xem là những
công cụ cụ thể được tạo ra cho mục đích tăng thêm giá trị trong lĩnh vực du lịch bằng cách tạo