1
VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI TRONG SỰ HÌNH THÀNH
NHÂN CÁCH
Thái Thị Khương
Khoa LLCT - ĐKHH
Trên sở phân tích mối quan hbiện chứng giữa yếu tsinh học và yếu tố hội
trong con người, bài viết lý giải sự hình thành nhân cách dưới tác động của môi trường
hội nh tích cực của mỗi nhân. Theo đó, yếu tố hội bản ảnh hưởng
lớn đến sự hình thành nhân cách tồn tại hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử -
cụ thể nhân đó sống. Còn tính tích cực hi của mỗi nhân, một mặt, phụ
thuộc vào nhu cầu lợi ích của họ, mặt khác, phụ thuộc vào i trường hội
khuynh hướng tiến bộ xã hội, như nền dân chủ, các quan h xã hội…
Nhân cách
con người đối ợng nghn cứu ca nhiều ngành khoa học khác nhau,
như triết học, hội học, kinh tế - chính trị học, luật hc, tâm học, y hc, giáo dục
học… Trong đó, quan điểm triết học về nhân cách con người, về cơ bản, những
khác biệt so với quan điểm của các khoa hc cụ thể. Triết học Mác - Lênin xem nhân
cách "những nhân con người với nh cách sản phẩm của sự phát triển hội,
chủ thể của lao động, của sự giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện
lịch sử - cụ thể của đời sống hội" (1). Theo đó, nhân cách trước hết đặc trưng xã
hội của con người, là "phẩm chất xã hội" của con nời. Khi nghiên cứu về nhân cách,
một trong những vấn đđu tiên là sự hình thành nhân cách. Giải quyết vấn đnày
theo những cách khác nhau sẽ dẫn tới quan niệm khác nhau vbn chất của nhân cách.
Chính thế, sự tranh luận giữa các trường phái triết học bàn về nhân cách thường
xoay quanh chủ đnày. Trong bài viết này, chúng tôi không tham vọng tr
ình bày
mọi quan điểm của các trường phái triết học trong lịch sử, mà chỉ tập trung vào quan
điểm mácxít về sự hình thành nhân cách.
Cho đến nay, người ta vẫn còn tranh luận nhiều về mối quan hệ giữa yếu tố sinh học
yếu tố xã hội trong sự phát triển con người. Nhìn chung, có hai quan điểm cực đoan
về vấn đy và được biểu hiện trong các trường phái "chnghĩa tự nhiên" (hay n
2
gọi "Chủ nga sinh vật") "chnghĩa hội học". Quan điểm ca chủ nga tự
nhn dựa trên những thành tựu sinh vật học cũng như những thành tựu về dân tộc học
của K.Lôrenxơ. Ông cho rằng, hành vi hội của con người bao gồm trong những
tính quy luật mà chúng ta thbiết từ hành vi động vật: "người ta thừa nhận rằng
hành vi xã hội của con người... bao gồm trong tất cả những nh quy luật…
chúng ta được biết rõ ràng nhờ vào nghn cứu những hành vi của động vật" (3).
Môi trường hội cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người, ảnh hưởng tới
cấu chức năng… ca thể. Nếu con người ít tiếp xúc, trao đổi với người xung
quanh hoặc sống trong môi trường hội quá đơn điệu thì snghèo nàn về m lý,
kém sự linh động. Chẳng hn, bác s Sing, người Ấn Độ, kvề trường hợp: “cô
Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình
thường, cô ngủ trong nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên nc rừng.
đi lại bng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi khá nhanh. Ngư
ời ta dy
i cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chnói được hai từ. không thể thành
người và chết tuổi 18” (4). Đến nay, người ta đã biết được trên 30 trường hợp tương
tự. Những sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhn t của C.Mác: Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Như v
y
thể thấy rằng, đứa trẻ ra đi mới chỉ con người thể không thtrở thành con
người nếu b lập, tách khỏi đời sống xã hội. Trẻ em bị bỏ rơi tuổi càng nhỏ bao
nhu trong đàn thú vật càng lâu bao nhiêu thì khi m thấy và đưa về xã hội,
chúng càng có ít nh người bấy nhiêu. Những trẻ em được đàn súc vật nuôi từ c
sinh thì thường chết sau một thời gian ngắn sau khi đưa về ở môi trường xã hội.
Những trẻ em bcách ly khỏi môi trường xã hội ngay từ c rất bé khi chúng còn
chưa biết đi và chưa biết i, thì trong thời gian sống hoang dã, chúng tiếp nhận cách
sinh hoạt ca thú vật, tứ chi cũng như thanh quản của chúng không phát triển n
một con người bình thường sau này khi lớn lên thì không còn thể uốn nắn được
nữa. Đó là lý do giải thíchsao những trẻ em hoang dã mặc dù đã được xã hội đưa về
nuôi dy trong thời gian dài, chúng cũng không thđi đứng bình thường nhất
chúng mất đi khả năng học i tiếng người nên mọi cố gắng dạy ngôn ngữ cho chúng
đều không đem lại kết quả.
3
Trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, C.Mác đã viết: "Cá nhân thực thể
hội”, cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của - ngay cả nếu không biểu hiện dưới
hình thức trực tiếp của biểu hiện sinh hoạt tập th, được thực hiện cùng với nhng
người khác biểu hiện sự khẳng định của sinh hoạt hội. Chính sự gia nhập
hội và được xã hội điều chỉnh hành vi của mìnhhành vi đó mang nội dung xã hội.
Nghiên c
ứu sự tác động qua lại giữa yếu tố sinh học yếu tố hội trong con người
đ thấy được những hạn chế trong c quan niệm cực đoan về cái sinh học, cái
hội trong con người của một số trường phái triết học. Thực tế cho thy rằng, những
quy luật sinh học chi phối mặt sinh học, còn quá trình con người gia nhp hội sẽ
quyết định mặt xã hội trong con người. Điều này thể hiện rõ nhất ở những đứa trẻ sinh
ra từ cùng một trứng. Những đứa trẻ này giống nhau về mặt di truyền. Điều đó
nghĩa là, trong quá trình phát triển, chúng thmắc một số bệnh giống nhau, n
bệnh về mắt hay ni tiết, tức là ở đây, mặt sinh học đóng vai trò kng nhỏ. Song, nếu
được nuôi dưỡng trong những môi trường xã hội khác nhau thì những đứa trẻ nàyng
sphát triển khác nhau. Điều này nghĩa là, con người vừa chịu sự tác động ca
quy luật sinh học, vừa chịu sự tác động của hội (nhưng cũng cần phải thấy được
rằng, sự tác động của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải ngang nhau, như
nhau trong mi cuộc đời con người). Dĩ nhn, cũng cần phải thấy rằng với những mục
đích nghiên cứu khác nhau, thcác nnghn cứu nhấn mạnh tới mặt sinh học
hoặc mặt hội ca con người (và chỉ nhấn mnh, chứ không phải tuyệt đối hoá như
chủ nghĩa tự nhiên, thuyết sinh học hội hay trường phái hội đã làm). Việc tuyệt
đối hoá vai trò của yếu tố sinh học, di truyền trong con người sẽ dẫn đến tình trạng, các
tệ nạn hội được giải thích bằng những nguyên nhân tự nhiên do đó người ta cho
rằng, không thể khắc phục được những tệ nạn hội. Điều đó còn đưa đến một quan
niệm về "giống thượng lưu”, về sự phân biệt chủng tc. Quan điểm này cho rằng, lịch
sử loài người được tạo ra bởi một số người tiêu biểu, được chọn lọc do đómuốn
hay không, con ngưi phải chủ động kiểm soát việc tái sản xuất ra ging người, thực
hiện sự "tuyển chọn" vì "li ích" loài người. Ngược lại, việc quá đcao yếu tố hội
trong con người lại đưa đến một quan niệm khác. Quan niệm cho rằng, mọi tnạn xã
hội đều bắt nguồn từ khuyết điểm chính trị.
4
Trên sở đó, triết học mácxít cho rằng, sự hình thành phát triển nhân cách do
hai nhân tố quyết định: nhân tố bên ngoài - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội
và nhân tố bên trong - tính tích cc của chính cá nhân.
xã hộibản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con
người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ thể mà cá nhân đó sống.
Đó thể các tập đoàn xã hội, kiểu loại cộng đồng dân tộc, tập thể... C.Mác đã nói:
"Nếu ncon ngưi bẩm sinh đã sinh vật tính xã hội thì do đó con người chỉ
thể phát triển bản tính của mình trong xã hội cần phải phán đoán lực lượng bản tính
của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực
lượng của toàn hội" (2). Do vậy, mỗi thời đại khác nhau, như thời Cổ đại, Trung
cổ, Cận đại,… những kiểu loại nhân cách khác nhau. Thời Cổ đại, khi nền kinh tế
chưa phát triển, của cải còn ít, con người phải sống phụ thuộc vào tập thể, nhân cách
mỗi nời a vào nhân cách tập thể. Thời Trung cổ, vị trí thượng phong Kitô giáo,
nhân ch chủ yếu hướng về đời sống tinh thần, về những gtrị đạo đức thuần y,
con người sống nhưng luôn chuẩn bị cho đời sống của mình sau khi chết. Thời Cận
đại, với sự khẳng định giá trị con người, nhân cách đã mang tính độc lập sáng tạo…
Khi khẳng định tính quyết đnh ca hội đối với nhân cách, cũng cần tránh quan
điểm đồng nhất sự hình thành nhân cách với quy luật phát triển hội. Lẽ dĩ nhiên,
trong mỗi một kiểu xã hội nào đó, bao giờ cũng có kiểu mẫu nhân cách (điển hình) cho
hội đó và xã hội nào, nhìn chung, cũng thiết lập một số chuẩn mực, giá trị mà mỗi
cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải hướng tới. Nhưng điều đó không có nghĩa s
hình thành nhân cách đồng nhất với quy luật phát triển hội. Bởi như vậy, sẽ không
giải thích được tính đa dạng của nhân cách trong mỗi xã hội.
Quá trình hình thành phát triển nhân cách quá trình con người nm lấy kinh
nghiệm đời sống xã hi. Ở mỗi giai đoạn lịch s, kinh nghim đó thể hiện trình độ làm
chủ của con người đối với lực lượng tự nhiên lực lượng hội. thể hiện mt
cách khách quan, được vật thể a trong nn văn hóa vật chất và tinh thần của hội.
có thtrong những vật thể c thể, trong công c sản xuất, trong các quan h
hội, trong ngôn nghoặc trong những hình thức phương pháp duy... Quá trình
5
con người nắm lấy kinh nghim ca đời sống hội sthống nhất biện chứng giữa
sự đối tượng hóa (khách quana) với việc cá thcon người giành lấy (chủ quan hóa)
bản chất hội của mình. dụ, trong quá trình lao động, con người không chphát
triển năng lực của mình trong quá trình đó, con người đã đối ợng a các năng
lực ấy trong c vật phẩm. Các vật phm đó kinh nghiệm của con người được kết
tinh dưới hình thức vật chất mang nh khách quan. Các thế hsau sử dụng những
vật phm đó cũng có nghĩa là nm lấy những kinh nghiệm đã có. Điều nàyng tương
tự như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như đạo đức, thẩm m… Bên cạnh
đó, chúng ta còn thấy, trong quá trình sống của mình, con người có vô vàn mối quan
hệ, sự giao tiếp với những người khác. Trước tiên, khi sinh ra, họ thành viên trong
một gia đình nào đó và vậy, hthcon cái, anh chị, sau nữa, họ thtrở
thành cha mẹ, ông bà... Họ cũng thể thuộc về một nhóm hội (giai tầng, giai cấp)
nào đó và qua đó, cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của nhóm xã hội (giai tầng, giai cấp) ấy.
Cuối cùng, họ cũng một nhân trong một cộng đồng dân tộc nào đó do vậy, họ
mang trong mình những giá trị đặc trưng ca dân tộc ấy... Nghĩa là, trong cả cuộc đời
mình, con người luôn diễn ra sự quan hvới những người khác. Chính những nhân
tố này quyết định hoạt động, hành vi của con người. Môi tờng xã hội chính là nguồn
gốc trực tiếp mà đó, con người hấp thụ cũng t ra những tư tưởng, tri thức, kinh
nghiệm của mình. Con người sẽ không thể tồn tại, phát triển được nếu không có sự
giao tiếp với thế giới xung quanh, với cộng đồng người. Hệ thống các quan hệ hội
không phải là cái gì trừu tượng, xa lạ, mà do chính con người tạo ra.
Theo Tiến sĩ y khoa J. Burton Banks, Đại học Đông Tennessee, thành phố Johson
viết: “đánh trẻ không thích hợp bất cứ độ tuổi nào, đặc biệt trẻ em dưới 18
tháng. Trẻ còn chưa hiểu được việc chúng làm và mối liên hnhân quả, cho nên
đánh chúng không tác dụng gì. Càng đánh nhiều bao nhiêu thì hiệu quả giáo dục
càng yếu kém bấy nhiêu” (5). Cha mẹ có khuynh hướng leo thang sự nghiêm khắc cho
đến mc xúc phạm đứa trẻ hay không chủ ý. Đánh trẻ một loại hình phạt d
vượt quá ranh giới từ hình thức k luật sang hành vi xâm hại trẻ em.
Qua thực tế nuôi dy con ca mình kinh nghiệm của những gia đình có trẻ em
hỏng, chúng i cho rằng những nhn xét kết luận của các nhà khoa học Mỹ