
23
TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH
MỤC TIÊU
1. Trình bày được khái niệm về nhân cách.
2. Trình bày được các đặc điểm và cấu trúc tâm lý của nhân cách.
3. Trình bày được cơ chế của sự hình thành nhân cách.
4. Trình bày được một số nhân cách bệnh.
NỘI DUNG
Vấn đề về nhân cách và sự hình thành là vấn đề trung tâm của tâm lý học, của hệ
thống khoa học về con người, vừa có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực tiễn lớn lao.
Cùng với những khoa học khác, tâm lý học đã góp phần làm sang tỏ một vấn đề xung
quanh nhân cách như cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân cách.
1. Khái niệm về nhân cách
- Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngay từ năm 1949 đã
có trên 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về nhân cách
Ví dụ như định nghĩa của S.Freud, A.Adler...
- Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách, nhưng nhân cách vẫn
thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới
xung quanh và đối với bản thân mình.
- Trong khi coi nhân cách là bản chất của con người, C.Mác đã định nghĩa nhân
cách như sau: “…Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại đối với
từng cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của mình, nó là tổng hoà các quan hệ xã
hội”.
- Khái niệm nhân cách được dùng phổ biến nhất: “Nhân cách là tổ hợp những
đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con
người.
+ “Thuộc tính” tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, cả về phần
sống động và phần tiềm tàng, có tính chất quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu
nhiên.
+ “Tổ hợp” có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan
hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định.
+ “Bản sắc” có nghĩa là trong số những thuộc tính đó, trong hệ thống đó
có cái chung từ xã hội, từ dân tộc, từ giai cấp, tập thể, gia đình vào con người nhưng
những cái chung này trở thành cái riêng, cái đơn nhất, có đặc điểm về nội dung và cả về
hình thức, không giống với tổ hợp khác của bất cứ ai.
- “Giá trị xã hội” có nghĩa là những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc làm,
những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động của người ấy và được xã hội đánh
giá.
2. Các mức độ và đặc điểm của nhân cách

24
2.1. Các mức độ của nhân cách
- Mức độ thấp nhất: Nhân cách được thể hiện dưới dạng cá tính, để phân biệt giữa
người này với người khác.
- Mức cao hơn: Nhân cách được thể hiện trong các mối quan hệ với nhau (nhân
cách lệ thuộc, nhân cách kẻ cả, nhân cách bề trên...)
- Mức cao nhất: Nhân cách thể hiện như một chủ thể đang thực hiện một cách
tích cực những hoạt động ảnh hưởng tới người khác và đến xã hội, còn gọi là nhân cách
siêu cá nhân. Nhân cách ở mức này như một tấm gương để người khác học tập noi theo
và có những tác động chủ động, có dấu hiệu làm biến đổi thế giới xung quanh mình.
2.2. Các đặc điểm của nhân cách
2.2.1. Tính ổn định của nhân cách
- Nhân cách được hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời con người, biểu
hiện trong hoạt động và mối quan hệ giao lưu của cá nhân trong xã hội, vì vậy nhân cách
mang tính ổn định.
- Mặc dù, từng nét nhân cách trong quá trình hoạt động sống của con người được
biến đổi, được chuyển hoá, nhưng trong tổng thể thì chúng tạo thành một cấu trúc trọn
vẹn của nhân cách, cấu trúc này tương đối ổn định, ít nhất là trong một quãng thời gian
nào đó của con người.
- Chính nhờ có tính ổn định này của nhân cách mà chúng ta mới có thể dự kiến
trước được hành vi của một nhân cách nào đó trong tình huống này hay tình huống khác,
trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh kia.
2.2.2. Tính thống nhất của nhân cách
- Nhân cách là một thể thống nhất của tất cả mọi nét khác nhau của nó, nghĩa là
nó không phải là một dấu cộng đơn giản của nhiều phẩm chất, thuộc tính đơn lẻ mà là
một hệ thống thống nhất, trong đó mỗi nét nhân cách đều liên quan không tách rời với
những nét nhân cách khác, và do đó, nó có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau đôi khi đối lập
nhau.
Vì vậy, khi nói về một nét nhân cách nào đó thì chúng ta không nên đánh giá tự
bản thân nó là tốt hay xấu. Muốn đánh giá đúng đắn một nhân cách nào đó ta cần phải
xem xét nó trong sự kết hợp, trong mối liên hệ với những nét nhân cách khác ở con
người đó.
Ví dụ như khi ta xem xét về tính kiên trì của một người thì chúng ta phải đặt nó
trong việc thực hiện những mục đích cụ thể thì ta mới thấy được sự kiên trì đó mang
tính tích cực hay tiêu cực.
- Nhân cách được hình thành như một chỉnh thể thống nhất. Vì vậy, không được
giáo dục nhân cách theo từng phần mà cần phải giáo dục con người như là một nhân
cách hoàn chỉnh.
- Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và
tài của con người. Trong nhân cách có sự thống nhất hài hoà giữa ba cấp độ đó là cấp độ

25
bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân (giá trị xã hội của nhân
cách).
2.2.3. Tính tích cực của nhân cách
- Nhân cách là chủ thể của hoạt động và gián tiếp là sản phẩm của xã hội
+ Nhân cách không chỉ là khách thể mà còn là chủ thể của các mối quan
hệ xã hội, nghĩa là nó có tính tích cực của mình.
+ Tính tích cực của nhân cách được thể hiện ở những hoạt động muôn
màu muôn vẻ và đa dạng nhằm biến đổi, cải tạo thế giới xung quanh, cải tạo bản thân
con người mình, cải tạo những đặc trưng tâm lý của mình.
- Một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách khi nào anh ta tích cực hoạt động
trong những hình thức đa dạng của nó, nhờ vào việc nhận thức, cải tạo sáng tạo ra thế
giới và đồng thời cải tạo cả chính bản thân mình.
Con người sống có nghĩa là con người hoạt động. Thiếu hoạt động thì không thể
có sự tồn tại và phát triển nhân cách.
- Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của
cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách.
2.2.4. Tính giao lưu của nhân cách
- Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại, trong mối quan hệ giao lưu
với những cá nhân khác. Nhân cách không thể tồn tại được bên ngoài sự giao lưu, bên
ngoài xã hội.
Ví dụ: Chỉ có trong sự giao lưu với những người lớn, với những người bạn cùng
lứa tuổi với mình thì nhân cách đứa trẻ mới được phát triển.
- Thông qua hoạt động giao lưu, con người có thể lĩnh hội được các chuẩn mực
đạo đức và hệ thống giá trị của xã hội, đồng thời cũng qua giao lưu mà mỗi cá nhân
được đánh giá, được nhìn nhận theo quan điểm của xã hội.
3. Cấu trúc tâm lý của nhân cách
Có nhiều cách khác nhau để phân tích các mặt của nhân cách . Song một câch
phân chia phổ biến nhất là chia nhân cách thành thành: Xu hướng, tính cách, năng lực,
khí chất.
3.1. Xu hướng của nhân cách
- Xu hướng nói lên phương hướng, chiều hướng phát triển của con người; bao
gồm nhiều thuộc tính khác nhau như nhu cầu, hứng thú, niềm tin, lý tưởng.
3.2. Năng lực của nhân cách
- Khi nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt động nào
đó. Muốn có kết quả thì cá nhân phải có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với
yêu cầu của hoạt động đó.
Nếu những thuộc tính tâm lý không phù hợp với yêu cầu của hoạt động thì không
có năng lực.
- Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân đơn lẻ mà là một tổ hợp các
thuộc tính cá nhân đáp ứng được yêu cầu cao của hoạt động.

26
Tổ hợp không có nghĩa là các thuộc tính đó tồn tại song song mà chúng có quan
hệ và tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau theo yêu cầu nhất định. Trong đó có những
thuộc tính làm nền, thuộc tính chủ đạo và thuộc tính khác làm phù trợ.
- Bao gồm một hệ thống các khả năng, bảo đảm cho sự thành công của hoạt
động. Năng lực nói lên người đó có thể làm gì, làm đến mức nào, làm với chất lượng ra
sao. Thông thường người ta gọi năng lực là khả năng hay tài.
3.3. Tính cách của nhân cách
- Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ
thống thái độ của con người đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ,
cách nói năng tương ứng.
- Tính cách tạo nên phong cách hành vi của con người trong môi trường xã hội
và phương thức giải quyết những nhiệm vụ thực tế của họ.
- Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng
thể hiện tính độc đáo, riêng biệt điển hình cho mỗi cá nhân.
Vì thế, tính cách của mỗi cá nhân là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng,
cái điển hình và cái cá biệt.
3.4. Khí chất (loại hình thần kinh)
- Khí chất quy định động thái của hoạt động tâm lý con người, quy định sắc thái
thể hiện đời sống tinh thần của họ.
- Khí chất là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tốc độ,
nhịp độ của các hoạt động tâm lý thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá
nhân.
- Trong thực tế người ta chia khí chất ra làm 4 loại: Nóng nảy, hăng hái, bình
thản, u sầu.
4. Cơ chế của sự hình thành nhân cách
4.1. Những yếu tố thuận lợi
4.1.1. Vai trò của yếu tố bẩm sinh di truyền
- Yếu tố bẩm sinh di truyền có ảnh hưởng nhất định tới việc hình thành và phát
triển nhân cách. Song, đây chỉ là tiền vật chất chứ không giữ vai trò quyết định.
4.1.2. Vai trò của hoàn cảnh sống
- Hoàn cảnh sống là toàn bộ môi trường xung quanh (tự nhiên và xã hội) trong
đó cá nhân sống và hoạt động.
- Có ý kiến cho rằng hoàn cảnh sống quyết định tâm lý, nhân cách, gạt bỏ tính
tích cực, chủ động của chủ thể, của con người. Nhưng thực tế thì hoàn cảnh sống chỉ có
ảnh hưởng lớn đối với các đặc điểm tâm lý, thuộc tính tâm lý chứ không giữ vai trò
quyết định.
- Mặc dù yếu tố bẩm sinh di truyền và hoàn cảnh sống ít nhiều có tác động tới
quá trình hình thành nhân cách, nhưng yếu tố quyết định đối với sự hình thành nhân
cách chính là vai trò trực tiếp hoạt động của bản thân con người.
4.2. Yếu tố quyết định đối với sự hình thành nhân cách

27
Trong quá trình hình thành nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao lưu và tập thể
có vai trò quyết định.
4.2.1. Giáo dục và nhân cách
- Giáo dục ảnh hưởng tự giác, chủ động, có mục đích và kế hoạch của xã hội đến
thế hệ đang lớn lên được thực hiện thông qua sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
- Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát
triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định.
+ Theo nghĩa rộng thì giáo dục bao gồm cả việc dạy học cùng với hệ thống
các tác động sư phạm khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong gia đình và ngoài xã hội, trong
trường và ngoài trường.
+ Theo nghĩa hẹp, giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động
tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể, gia đình, nhà trường và
xã hội.
Trong tâm lý học giáo dục, khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa hẹp.
- Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục học Macxit thì giáo dục giữ vai trò
chủ đạo trong sự phát triển nhân cách vì:
+ Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo chiều hướng đó.
+ Giáo dục có thể đem lại những cái mà các yếu tổ bẩm sinh di truyền hay
môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
Ví dụ: Chẳng hạn nếu không có khuyết tật gì thì theo đà tăng trưởng và phát
triển của cơ thể đến một giai đoạn nhất định đứa trẻ có thể nói được, nhưng muốn đọc
được sách báo thì bắt buộc phải học mới có thể có được khả năng này; đến một giai đoạn
nhất định thì chúng có khả năng đi, đứng, chạy, nhảy nhưng để có được kỹ năng kỹ xảo
nghề nghiệp thì cần phải học nghề.
+ Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bẩm sinh di truyền hay do
bệnh tật đem lại cho con người.
Ví dụ như bằng những hình thức giáo dục đặc biệt mà những trẻ em hoặc người
lớn bị mù, câm…vẫn có khả năng và cơ hội học tập.
+ Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động tự
phát của môi trường xã hội gây nên, và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong
muốn của xã hội. Đây chính là hình thức giáo dục lại đối với những trẻ em hư và người
phạm pháp.
+ Giáo dục có thể đi trước hiện thực, đó là đưa con người, đưa thế hệ trẻ
vào “vùng phát triển gần”, để giúp đứa trẻ sớm bộc lộ những năng khiếu, vươn tới những
cái mà thế hệ trẻ sẽ có trong tương lai.
- Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách của con người và thúc đẩy nhân cách phát triển theo chiều hướng đó. Còn cá nhân có
đi theo chiều hướng đó hay không, phát triển đến mức độ nào thì điều này giáo dục không
quyết định trực tiếp được.

