LUẬN VĂN:
Vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay
Lời mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xã hội hiện nay vấn đề việc làm luôn luôn là vấn đề nóng bỏng, được
không chỉ báo giới, các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp quan tâm mà nó đã ăn sâu
vào suy nghĩ của rất nhiều sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đang không
ngừng tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm để đạt được mục đích cao đẹp của họ trong tương
lai.
Xét về năng lực hành vi, sinh viên là một phần quan trọng trong độ tuổi lao động.
Họ có thể lực, trí lực rất dồi dào. Xét về mục đích, sinh viên đi học là mong có kiến
thức để có thể lao động và làm việc sau khi ra trường.
Hiện nay, đông đảo sinh viên nói chung đã nhận thức được rằng có rất nhiều
cách thức học khác nhau và ngày càng có nhiều sinh viên chọn cách thức học ở thực tế.
Đó là đi làm thêm. Việc làm thêm hiện nay đã không còn là hiện tượng nhỏ lẻ mà đã trở
thành một xu thế, gắn chặt với đời sống học tập, sinh hoạt của sinh viên ngay khi vẫn
còn ngồi trên ghế giảng đường. Sinh viên đi làm thêm ngoài vì thu nhập, họ còn mong
muốn tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn, học hỏi thực tế nhiều hơn…. Và sở dĩ việc
làm thêm hiện nay đã trở thành một xu thế là vì đối với sinh viên, đặc biệt khi sống
trong xã hội cạnh tranh như hiện nay, kiến thức xã hội và kiến thức thực tế ảnh hưởng
rất lớn đến khả năng tư duy cũng như khả năng làm việc của họ sau tốt nghiệp.
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề
việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đối với Xã hội, Doanh nghiệp: có sự quan tâm hơn nữa đối với thế hệ trẻ; có
sự quản lý, phối kết hợp với Nhà trường nhằm tạo cho sinh viên có nhiều điều kiện học
hỏi, thực hành, cọ xát; phát huy tối đa nguồn lực dồi dào trong sinh viên…
Đối với Nhà trường, tổ chức Đoàn, Hội: kết hợp giảng dạy lý thuyết với thực
tế, giúp cho sinh viên có môi trường học tập mang tính chất mở, tạo nhiều sân chơi bổ
ích cả về bề nổi và bề sâu…
Đối với sinh viên: chỉ ra những tích cực cũng như hạn chế của việc làm thêm
trong sinh viên, giúp sinh viên có sự định hướng nghề nghiệp đúng đắn, hình thành tư
duy chủ động trong việc giải quyết vấn đề, áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn…
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: sinh viên các trường Đại học
- Phạm vi nghiên cứu: tại một trường Đại học ở Hà Nội
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của đề tài có sự kết hợp giữa phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp. Dữ liệu sơ cấp được thu thập qua việc
điều tra nghiên cứu về vấn đề việc làm thêm trong phạm vi một trường Đại học trên địa
bàn Hà Nội.
Thời gian tiến hành nghiên cứu từ 15/10/2004 đến 15/3/2005.
V. Nội dung và kết cấu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu có các nội dung chính sau:
Lời mở đầu
Phần 1: Việc làm thêm đối với sinh viên dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá của
các tổ chức và cộng đồng xã hội
Phần 2: Phương pháp luận
Phần 3: Việc làm thêm đối với sinh viên qua kết quả điều tra xã hội học và phân
tích, đánh giá của nhóm nghiên cứu
Phần 4: Một số giải pháp nhằm khuyến khích và quản lý việc làm thêm đối với
sinh viên hiện nay
Kết luận
Phần 1
Việc làm thêm đối với sinh viên dưới góc độ nhìn nhận, đánh giá của các tổ chức và cộng
đồng xã hội
1.1 Quan niệm về việc làm thêm đối với sinh viên
Với quan niệm "Việc làm thêm", qua thu thập những thông tin thứ cấp, chúng tôi
xin nêu ra một vài quan niệm như sau:
Theo ông Đinh Văn Hường, chủ nhiệm Khoa Báo chí ở một trường tại Hà Nội:
“Việc làm thêm đối với sinh viên theo quan niệm của tôi có nghĩa là sự tham gia làm
việc ngay khi vẫn đang học ở trường tại các công ty, các tổ chức, các đơn vị, các hộ gia
đình với mục đích có thêm thu nhập hoặc với mục tiêu học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, cọ sát hơn với thực tế cuộc sống…” (1)
Anh Quách Minh Cường, quản lý nhân sự công ty TV Plus lại cho rằng: “Việc
làm thêm theo quan điểm của tôi chỉ đơn giản chính là các bạn sinh viên chủ động tham
gia các hoạt động xã hội ở các tổ chức trong và ngoài trường để tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân” (2)
Và theo bạn Linh Hương, cộng tác viên Ban Tuyên huấn – Văn phòng Đoàn tại
một trường Đại học ở Hà Nội: “…với riêng tôi, được làm cộng tác viên Ban tuyên huấn,
được viết các bài báo cho Bản tin cũng là một cách làm thêm, vừa có dịp nâng cao các
kỹ năng viết lách, vừa biết cách tổ chức và hoạt động của một tờ báo, lại có một khoản tiền nho nhỏ để tiêu pha” (3)
Trên đây là một vài quan niệm về việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay, từ
đó, có thể rút ra quan niệm chung về việc làm thêm như sau: “Việc làm thêm đối với
sinh viên có nghĩa là sự tham gia làm việc ngay khi vẫn đang học ở trường tại các công
ty, các tổ chức, các đơn vị, các hộ gia đình mà không bị pháp luật ngăn cấm, không làm
ảnh hưởng nhiều đến học tập… với mục đích có thêm thu nhập hoặc với mục tiêu học
hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, cọ sát hơn với thực tế cuộc sống…”
1.2 Những hạn chế hiện nay của sinh viên, tân cử nhân xung quanh vấn đề việc
làm
Thực tế hiện nay sinh viên hay các tân cử nhân khi đi phỏng vấn xin việc còn bộc
lộ rất nhiều hạn chế. Dưới đây xin đề cập một vài hạn chế điển hình hiện nay của sinh
viên, tân cử nhân xung quanh vấn đề này.
(1) “Việc làm cho SV và quan hệ từ ba phía”, Báo Sinh viên Việt Nam, số 11, năm 2005. (2) http://www.vnexpress.net, “Diễn đàn sinh viên – việc làm”, 10/03/2005, 12:04 AM (3) “Sinh viên làm thêm”, Báo Tuổi trẻ, số 03, năm 2004.
- Thái độ thờ ơ, cẩu thả:
Bà Đỗ Thị Xuân Phương – Phó Giám đốc Sở LĐTBXH Hà Nội, Phó trưởng ban
tổ chức Hội chợ việc làm Thành phố Hà Nội lần thứ 3 cho biết: “đến hội chợ lần này
chủ yếu là sinh viên chưa hoặc mới tốt nghiệp đại học, cao đẳng. Một thực tế khá buồn:
Người lao động đến hội chợ tìm việc nhưng với thái độ thờ ơ, cẩu thả, không chuẩn bị
kỹ về tâm lý, các loại giấy tờ hồ sơ cũng không đầy đủ. Trong số 400 hồ sơ mà
VINACONEX (Hà Nội) nhận được, không có bộ hồ sơ nào đủ giấy tờ cần thiết (thiếu
bằng tốt nghiệp, thiếu giấy khám sức khoẻ…). Bởi vậy trong 3 ngày Hội chợ, Tổng Công ty đã không thể tiến hành phỏng vấn, tuyển dụng trực tiếp như kế hoạch” (1).
Cũng tương tự như trên, tại “Ngày tuyển dụng 12/3” do một trường Đại học tổ
chức, so với 1640 chỉ tiêu nhận người của 67 nhà tuyển dụng, con số 214 người lao
động tìm được việc làm là quá nhỏ bé. Điều này không chỉ khiến người lao động nuối
tiếc vì để vuột mất cơ hội tìm việc trực tiếp mà ngay cả nhà tuyển dụng cũng cảm thấy
thất vọng.
Bên cạnh sự thờ ơ, cẩu thả trong chuẩn bị hồ sơ, sau một số cuộc phỏng vấn,
không ít người lao động đã bày tỏ sự “ngỡ ngàng”: “Tưởng phỏng vấn gì, té ra là mấy
câu bâng quơ về gia đình, bạn bè…”; “không ngờ công ty lớn như vậy mà gọi mình tới
chỉ để hỏi về ba loại đặc sản, sở thích và cả…khuyết điểm của mình!”. Tuy nhiên, với
những nhà tuyển dụng, đó là những câu hỏi hoàn toàn không là “bâng quơ”, “chơi chơi”
chút nào. Đó chính là sự kiểm tra phản ứng linh hoạt và kiến thức về cuộc sống của
người lao động. Giám đốc Công ty Phát triển nguồn nhân lực NetViet, ông Dương Xuân
Giao khẳng định, 3 yếu tố quan trọng quyết định sự thành hay bại của các ứng viên lao
động, theo thứ tự như sau: 1-Thái độ; 2-Kinh nghiệm làm việc; 3-Kiến thức chuyên
môn. Ông Giao nói: “Cái người lao động thiếu khi đi phỏng vấn chính là thái độ
(attitude), thể hiện sự nhiệt tâm và trung thực của họ đối với công việc mà họ đang dự
tuyển. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp chấp nhận tái đào tạo những người chưa
(1) “Hội chợ việc làm lần 3–thành phố Hà Nội”, trang 4, Tiền Phong, số 171, 26/8/2004. LĐ&ĐK. (1) http://www.tintucvietnam.com,“Rớt đài” từ những điều sơ đẳng, kỳ 2, 05/08/2004,13:15 PM
hoàn thiện lắm về kiến thức, kinh nghiệm, miễn sao họ có thái độ chân thành, đúng đắn và bản lĩnh” (1).
“Bi kịch của phần lớn đội ngũ lao động ở nước ta hiện nay, đặc biệt là giới trẻ,
chính là tư tưởng hưởng thụ quá sớm và quá coi trọng quyền lợi vật chất trong khi
chính bản thân họ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, nhu cầu của xã hội.” (2) – Dương Thế Nguyên, Phó phòng Dự án II, Công ty TNHH Thương mại & Hỗ
trợ việc làm “Cô Tấm” nhận xét.
- Thiếu kinh nghiệm thực tế:
Lê Văn Đức, cán bộ quản lý nhân sự Công ty Cổ phần Bánh kẹo Kinh Đô nhận
xét: “Trong 100 hồ sơ ứng tuyển vào các vị trí, chúng tôi chỉ chọn được rất ít. Riêng vị
trí kế toán quản trị, chúng tôi không tìm nổi ứng viên nào vì lĩnh vực này không chỉ đòi hỏi trình độ nghiệp vụ chuyên môn mà cần có cả kinh nghiệm làm việc nữa” (3).
Sau một năm lặn lội đi tìm việc, bạn Nguyễn Thị Điệp – cựu sinh viên Khoa
Công nghệ thông tin của một trường Đại học vừa bị…rớt trong cuộc thi tuyển vào Công
ty Tin học Lạc Việt. Lý do chính: thiếu kinh nghiệm viết các phần mềm. Cô đã tự rút ra
kinh nghiệm “xương máu” là: “Hồi còn trên ghế giảng đường, hầu hết chỉ biết có kiến
thức từ bên trong giảng đường, tức thầy dạy bao nhiêu thì “hưởng” bấy nhiêu. Lẽ ra,
học 1 phải biết 5, 6, thậm chí phải biết 10 – phải tranh thủ trang bị thêm kiến thức và tiếp xúc thực tế ngày càng nhiều càng tốt” (4).
Một cuộc điều tra nghiên cứu của Taylor Nelson Sofres - chuyên gia của một
công ty về nghiên cứu thị trường - thực hiện tại Việt Nam từ tháng 9-10/2004 theo đơn
đặt hàng của Hội đồng Anh TP Hồ Chí Minh đã cho thấy nhiều điều bất ngờ…
Sinh viên mới ra trường: Lượng lớn, chất thấp!
“Họ rất nhiệt tình và mong muốn được chứng tỏ năng lực của mình. Họ cũng
sẵn sàng học hỏi và công ty thấy đối tượng này dễ đào tạo, định hướng. Nếu tốt nghiệp
từ những trường đào tạo chuyên ngành liên quan (như kinh tế, hoá mỹ phẩm, dược, kỹ
sư công trình…) thì họ có những kiến thức khá cơ bản để có thể bắt đầu làm việc. Tuy
(2) http://www.tintucvietnam.com, “Thông tin tuyển dụng”. 07/08/2004, 12:45 PM (3) http://www.vietnamnet.vn, “Nhà tuyển dụng chưa hài lòng về chất lượng ứng viên”, 08/03/2005, 11:32 AM (4) http://www.tintucvietnam.com, “Th«ng tin tuyÓn dông”, 07/08/2004, 12:45 PM
nhiên, chúng tôi hiểu rằng gần như phải đào tạo lại, bởi họ rất thiếu kiến thức chuyên
sâu, đặc biệt là kiến thức thực tế và thiếu kinh nghiệm làm việc” (1) – Giám đốc nhân sự
ở một công ty đa quốc gia về ngành hàng tiêu dùng phát biểu.
Qua những kỳ tổ chức Hội chợ, khá nhiều nhà quản lý nhận định: có nhiều
nguyên nhân chủ quan về phía sinh viên tốt nghiệp đại học khiến cho cánh cửa tìm việc
của các bạn trẻ ngày càng bị thu hẹp như “học chưa đi đôi với hành”, nhà ở, hộ khẩu
thường trú, phương tiện đi lại chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng…
- Hạn chế về kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ:
Chị Tuấn Anh, người đảm nhận phụ trách tuyển dụng của Công ty Canon cho
biết: “Suốt buổi sáng phỏng vấn gần 60 ứng tuyển, tôi chỉ chọn được 36 hồ sơ vào vòng
I để ngày mai kiểm tra lần thứ hai tại công ty. Những ứng viên tốt nghiệp đại học thì
trình độ chuyên môn còn được, trong khi những em tốt nghiệp cao đẳng thì chuyên môn rất kém, nhiều em gần như không biết gì.” (2).
Chị Nguyên Vân Thuỷ – Trưởng phòng Hành chính nhân sự Công ty LG cũng có
nhận xét: “Nhiều người đưa ra nhiều bằng cấp, kiến thức giỏi nhưng lại không chứng tỏ được khả năng thực tế trong lĩnh vực nào cả” (3).
Các ứng viên trẻ, theo chị Thiên Hương, Trưởng phòng Phân tích và Hỗ trợ
chiến lược của Công ty Bảo hiểm Prudential:“Các trường đại học cũng có dạy nhưng lý
thuyết không cập nhật, không đào tạo sự năng động và xử lý tình huống thực tiễn, nên
các ứng viên trẻ thiếu khả năng phản ứng, trong khi rất nhiều bạn trẻ bây giờ lại quá
nóng vội, chê các vị trí thấp, muốn nhanh chóng thăng tiến, chứng tỏ bản lĩnh mà không
nhận thức đủ điểm mạnh, điểm yếu của mình và vì thế, không đủ tin cậy để những người
lãnh đạo đầu tư đào tạo cho những mục đích lâu dài. Hơn nữa, hiện nay có sự phân hoá
khá lớn trong các ứng viên trẻ, sinh viên mới ra trường. Có một số ít người xuất sắc, bỏ
xa nhóm còn lại thuộc diện “thường thường bậc trung” với những điểm yếu cố hữu như nhút nhát, thụ động, kỷ luật kém, …” (1).
Bên cạnh sự hạn chế về kiến thức chuyên môn, một điểm quan trọng nữa là khả
(1) http://www.24h.com.vn, “Điều tra về ứng viên Việt Nam”, 13/3/2005, 16:30 PM (2) http://www.tintucvietnam.com, “Thông tin tuyển dụng”, 7/8/2004, 12:45 AM (3) http://www.tintucvietnam.com, “Rớt đài” từ những điều sơ đẳng, kỳ I, 04/8/2004, 10:15 AM (1) http://www.neutoday.net, “Khan hiếm nhân lực cấp cao”, 07/03/2005, 09:02 AM
năng sử dụng tiếng Anh trong môi trường công việc của thí sinh mới ra trường còn rất
kém, do họ chưa có điều kiện để tiếp xúc với tình huống công việc thực tế. Họ thường
bị “khớp”, không biết phải trả lời phàn nàn của khách hàng trên điện thoại như thế nào,
không có kỹ năng đàm phán thuyết phục, hay không thể trình bày vấn đề một cách
logic, chuyên nghiệp và thành thạo bằng tiếng Anh.
Điểm qua các doanh nghiệp mà việc tuyển dụng chú trọng vào tiếng Anh, vào
trình độ và chỉ số thông minh của sinh viên qua các bài test phải kể đến Nestle Việt
Nam. Họ chỉ cần có 2 ngày cho việc tìm 10 người phù hợp từ hơn 400 ứng viên. Cách
của họ là đến một trường đại học tiếng tăm có nhiều chuyên ngành họ cần, tổ chức một
buổi hội thảo nghề nghiệp vài giờ đồng hồ cho tất cả các ứng viên là sinh viên năm cuối
các trường thuộc khối kinh tế. Bài test IQ được đưa ra cho những người tham gia, kết
thúc buổi hội thảo cũng là lúc họ chọn được 28 người có chỉ số cao nhất. Và ngay chiều
hôm đó các nhóm tìm giải pháp và bảo vệ giải pháp của mình. 10 người sẽ được chọn.
Với cung cách tuyển dụng như vậy, nếu chỉ có duy nhất kiến thức học được trong sách vở chắc chắn chúng ta sẽ không nằm trong số những người được chọn (2).
Qua thực tế trên có thể thấy rằng không phải sinh viên nào sau khi ra trường
cũng có thể sẵn sàng tiếp nhận công việc. Điều này có vẻ mâu thuẫn vì lẽ ra sau cả một
quá trình học tập tại trường đại học, được trang bị một lượng lớn kiến thức, những tân
cử nhân phải có thể đảm trách được mọi công việc theo chuyên ngành đào tạo…, vậy
mà họ lại lúng túng, ngỡ ngàng trong các cuộc phỏng vấn, cẩu thả và thiếu nghiêm túc
khi tới tuyển dụng. Phong thái tự tin, sự năng động và tác phong công nghiệp vẫn chưa
hình thành trong họ. Dường như với một bộ phận các bạn sinh viên ra trường, niềm tin
vào kiến thức là duy nhất thành công. Thực tế không phải vậy. Kiến thức là điều rất
quan trọng, nhưng để có thể làm việc tốt chúng ta cần phải có thêm những điều kiện
khác nữa.
Không phải ngẫu nhiên những tân cử nhân chấp nhận mất thời gian để thu nạp lại
những kiến thức mà họ đã có từ suốt những năm tháng còn học ở giảng đường đại học.
Đây không phải là công việc thừa. Lý do vì kiến thức tại trường và kiến thức thực tế
hiện nay còn có khoảng cách khá xa, cũng một phần do không được thực hành nên
(2) “Kiểu tuyển dụng mới, bạn có biết?”, trang 5, Sinh viên Việt Nam, số 07, 25/02/2004, L.Tùng
lượng kiến thức được học đã rơi rụng nhiều.
Chính vì vậy hiện nay tồn tại một vấn đề: các doanh nghiệp vẫn thiếu nhân viên
trong khi thị trường lao động thì vẫn thiếu việc làm. Hầu hết những sinh viên mới ra
trường đều tồn tại một nhược điểm mà bất cứ nhà tuyển dụng nào cũng đòi hỏi, đó là
kinh nghiệm và phản ứng nhanh nhạy khi giải quyết các công việc.
Tuy nhiên trước tình hình khủng hoảng nhân sự quản lý hiện nay, chị Mai Thảo,
chuyên viên phỏng vấn của HR Vietnam, cho biết: “Một số công ty sẽ không đòi hỏi
ứng viên có kinh nghiệm sẵn nữa mà sẽ tuyển những người trẻ có kết quả học tập cao,
tố chất tốt – chủ yếu theo nhận xét cảm tính của người tuyển dụng - để đào tạo thành nhà quản lý theo yêu cầu công việc và văn hoá của doanh nghiệp mình”(1). Chị Thảo
cũng cho biết thêm, ưu điểm lớn nhất của một số ứng viên trẻ là tự tin, nhưng lại có
“biên giới” rất mong manh với tính tự phụ và ảo tưởng. Còn theo chị Thiên Hương,
những sinh viên du học trở về sẽ được ưu tiên hơn, vì ngoài kiến thức mới mẻ, các ứng
viên này đã tiếp nhận được lối tư duy và cách làm việc năng động của người nước
ngoài.
Tất cả các thợ “săn đầu người” đều khẳng định cơ hội việc làm hiện nay là rất
nhiều. Sức hút của các công ty nước ngoài vẫn còn mạnh và các công ty trong nước
cũng đã bắt đầu chiêu hiền đãi sĩ, mức lương gần như tương đương nhau. Vì thế, điều
quan trọng là sinh viên, các ứng viên trẻ phải tự trang bị trước cho mình để sẵn sàng đón
nhận. Chị Thuỳ Dương, Trưởng Phòng Tư vấn tuyển dụng của Navigos và chị Mai
Thảo, chị Thiên Hương đều có lời khuyên chung cho các ứng viên trẻ rằng nên tự đào
tạo mình bằng mọi khả năng và cơ hội, nên làm bất kỳ việc gì phù hợp trong thời gian
đi học để nâng tầm nhìn của mình vượt qua khỏi cổng trường; nên hoạt động xã hội để
tập khả năng làm việc theo nhóm và đừng quên rằng tiếng Anh, vi tính là chìa khoá cơ
bản để mở những cánh cửa việc làm.
Rõ ràng, từ thực tế cũng như qua một vài dẫn chứng điển hình trên đây có thể nói
rằng nguyên nhân những hạn chế hiện nay của sinh viên, tân cử nhân xung quanh vấn
đề việc làm vừa do cả yếu tố khách quan lẫn yếu tố chủ quan gây nên. Để khắc phục
những hạn chế đó, yếu tố khách quan thì cần có sự giúp đỡ từ phía nhà trường và các tổ
(1) http://www.neutoday.net, “Khan hiếm nhân lực cấp cao”, 07/03/2005, 09:02 AM
chức xã hội. Yếu tố chủ quan thì đòi hỏi phần đông đội ngũ sinh viên cần năng động
hơn ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Kiến thức là căn bản. Nhưng sẽ là tốt hơn
nếu biết áp dụng những gì đã được học vào thực tế. Bên cạnh đó cần tranh thủ rèn
luyện, trau dồi những kỹ năng mà từ những công việc làm thêm, những hoạt động xã
hội có thể đem lại cho bản thân mình. Có thể nói việc làm thêm là một trong những
phương thức hỗ trợ cho sinh viên đi tìm cánh cửa doanh nghiệp.
Nhận thức được điều đó, một bộ phận không nhỏ sinh viên ngày nay cũng đã có
những cách thức ngắn hạn cho bản thân mình. Dưới đây xin trình bày một số kinh
nghiệm làm thêm của sinh viên hiện nay.
1.3 Một số kinh nghiệm làm thêm của sinh viên hiện nay
1.3.1 Những kinh nghiệm của sinh viên Việt Nam
- Những hoạt động kinh doanh quy mô nhỏ:
Sinh viên Việt Nam hiện nay có thể nói đã khá năng động hơn so với những thế
hệ đi trước. Sự năng động ấy đôi khi biểu hiện qua những công việc rất nhỏ bé nhưng
hiệu quả. Có những bạn sinh viên lựa chọn công việc kinh doanh vào những dịp lễ hội
như 8/3, 20/10, 20/11.... Vào thời điểm này, đảo qua các trường, mọi ngả đường đều có
hàng hoa sinh viên. Hoa đẹp, lại do sinh viên bán nên khá là rẻ. Hoặc dịp đầu năm học,
chúng ta có thể thấy những tốp sinh viên vào tận giảng đường, ký túc xá bán sách với
giá rẻ hơn bên ngoài rất nhiều. Những hoạt động buôn bán này thường cần số đông để
có vốn (bởi sinh viên ít vốn) và cần có cộng sự giúp sức. Thông qua những hoạt động
này, tinh thần làm việc nhóm cũng tăng lên đáng kể, va chạm và tiếp xúc nhiều tạo cho
sinh viên một phong thái tự tin, cởi mở khi tiếp xúc.
Mặt khác, thị trường chủ yếu là sinh viên nên những "nhà kinh doanh trẻ" này rất
hiểu tâm lý và biết cách chiều khách hàng bằng nhiều hình thức như thái độ phục vụ hay
khuyến mãi giảm giá. Để có hàng hoá và thu được chênh lệch cao, sinh viên phải về tận
gốc những nơi cung cấp để mua hàng, lấy công làm lãi. Như buôn hoa, sinh viên phải về
tận Vĩnh Phúc, Ngọc Hà... đặt mua và học luôn cách bó hoa, trang trí. Những bạn đi bán
đồ gốm, lưu niệm thì phải lặn lội về Bát Tràng, Hương Canh, Đông Triều... để lấy hàng.
Rủi ro có thể gặp phải như tai nạn, mất hàng, vỡ hàng, hỏng hàng không nhỏ. Kiểu kinh
doanh này sẽ cho sinh viên khả năng quan sát và thực tế hơn, biết cách tính toán, biết chi tiêu hơn. Khó khăn gặp phải không ít nhưng nó sẽ giúp các bạn thấy tự tin hơn (1).
Hai bạn Hà và Minh (tại một trường ở Hà Nội) là một ví dụ điển hình. Khi đi
“cất hàng” ở chợ Đồng Xuân, người bán hàng biết là sinh viên gắt lên không bán lẻ. Lại
phải trổ tài “diễn thuyết”: cháu cũng “dân buôn” mới lấy được hàng. Hà kể: “Người bán
hàng cũng giảm giá hơn khi thấy bộ dạng tất bật và sự tính toán mà theo họ là “cò con” vì sinh viên vốn ít, hàng mua cũng đơn giản”(2).
Khi được hỏi “kinh doanh như thế thì học vào đâu?” Hà nở nụ cười rất duyên
khẳng định: “Phải biết hài hoà chứ. Kinh doanh cũng là học mà”. Hà luôn đứng trong
“top five” về học tập của lớp. Còn Minh thì cho biết: “Trước đây với số tiền bố mẹ gửi,
mình mua cái này thì phải nhịn cái kia. Từ khi bán hàng, có thêm được một khoản để
mình mua sách tham khảo, rồi cũng sắm được một số đồ dùng cá nhân nữa”. Hai cô
còn đang dự định sẽ làm “hàng xén trong cặp sách” với các loại đa dạng nhỏ gọn lúc
nào cũng có thể cung cấp ngay tức thì: bút, giấy, băng dính…
Hồng Lê (bạn cùng ký túc xá của Hà và Minh) nói: “Các bạn bán những thứ nhu
yếu phẩm không thể thiếu trong đời thường, bọn em còn dặn nếu có thêm khăn mùi xoa,
găng tay, dây buộc tóc… thì bọn em sẽ mua. Mua của bạn mình bán vừa tiện lại vừa rẻ
hơn dù chỉ là vài trăm đồng. Các bạn ấy cũng phải học như bọn em nhưng thật là năng
động”.
Gần đây, một công việc đang được sinh viên ưa chuộng đó là làm nhân viên
Marketing. Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã sử dụng một lượng lớn học sinh, sinh viên
làm cộng tác viên. Nhiều trung tâm ngoại ngữ đã tuyển đội ngũ tư vấn viên rất đông
đảo, toả đi khắp các khu vực. Nhiệm vụ của họ không chỉ là giới thiệu về trung tâm của
mình mà còn khuyến khích để học viên đến học ở trung tâm với nhiều hình thức giảm
giá, quà tặng hấp dẫn.... Hãng mỹ phẩm oriflame, hãng điện thoại S-Fone hay hãng
Unilever cũng đã có một lượng lớn nhân viên bán hàng là sinh viên. Doanh thu bán
hàng thu được từ lực lượng này cũng không hề nhỏ. Làm việc kiểu này mất khoảng 2-3
tiếng/ngày, thậm chí 3-5 tiếng/ngày. Tuy nhiên đây là công việc mang lại cho số đông
(1) “Sinh viên làm thêm”, trang 7, Báo Tuổi trẻ, số 03, 23/09/04, Linh Hương.
sinh viên sự năng động, nhanh nhẹn, mở rộng các mối quan hệ xã hội. Và đặc biệt là
"tài" ăn nói, thuyết phục - một ưu thế không nhỏ khi đi tuyển dụng sau này.
- Những hoạt động kinh doanh quy mô lớn:
Không chỉ làm những công việc mang tính chất nhỏ lẻ, thời vụ và tự phát như
trên, hiện nay cũng có rất nhiều các bạn sinh viên đã là những ông chủ, bà chủ thực sự.
ở Thành phố Cần Thơ hiện đang nổi lên nhiều cửa hàng ăn nên làm ra mà ông bà
chủ lại là những… sinh viên.
Khoảng 2 năm nay, người dân Cần Thơ rất quen với “thương hiệu” 3 Hạt Dẻ(1).
Đây là ý tưởng của Huỳnh Anh. Cô mở liên tục 2 cửa hàng chuyên bán đồ tặng phẩm tại
đường Hai Bà Trưng. Cả hai cửa hàng này nhanh chóng được giới trẻ yêu thích do có
nhiều mặt hàng quà tặng mới lạ, dễ thương theo kịp thị hiếu giới trẻ. Vào tháng 12/2004
sau khi được nhượng lại phần kinh doanh, bà chủ mới Lê Huỳnh Nga, sinh viên một
trường đại học tại Cần Thơ đã đầu tư trên 140 triệu đồng cho hệ thống âm thanh, ánh
sáng. Để thu hút khách, Nga còn tổ chức đêm đàn piano và hát nhạc nhẹ. Hồi đầu năm
Nga còn gây xôn xao khi mời được ca sĩ Lam Trường và ca sĩ Nhất Thiên Bảo về giao
lưu với các fan hâm mộ. Cái Nga muốn hiện nay chính là tích góp kinh nghiệm và ứng
dụng những kiến thức đã học vào thực tế….
- Kinh nghiệm của những sinh viên đã tốt nghiệp:
Những ví dụ trên đây đã đề cập tới những việc làm, những kinh nghiệm cũng như
sự tự đánh giá nhận xét của bản thân những sinh viên còn đang học tại trường về những
tác động mà việc làm thêm đem lại. Để có thể hiểu hơn những lợi ích mà việc làm thêm
cũng như các hoạt động xã hội đem lại cho sinh viên sau khi ra trường, dưới đây xin
trình bày một dẫn chứng điển hình.
Hoàng Vương hiện đang là nhân viên bộ phận chăm sóc khách hàng ở một tập
đoàn quảng cáo của Mỹ tại quận 1. Không ai có thể ngờ chàng nhân viên mới ngoài 20
tuổi, mặt mũi sáng láng, lương tháng gần 1000 đô la Mỹ, đi công tác nước ngoài liên
tục, đang sở hữu một vị trí quan trọng như vậy lại chỉ có tấm bằng Cao đẳng với mức
trung bình khá. Khó mà lý giải nổi tại sao cậu sinh viên mới ra trường với số điểm
http://www.vietnamnet.vn,
trong
hàng
“Mở
ký
(2) túc”, 12/03/2005, 08:40 AM (1) “Những sinh viên kiêm doanh nhân”, trang 6, Thanh niên, số 75, 16/03/2005, Trương Công Khả
khiêm tốn, lại lọt được qua vòng tuyển chọn hồ sơ và cuối cùng là tầm ngắm của vị sếp
Tây vốn rất khó tính. Trong khi bạn bè Vương, một số người nổi trội trên ghế giảng
đường hiện vẫn còn khá vất vả trong các công ty tư nhân, chưa biết tương lai, thăng tiến
ra sao...
ý thức được kết quả học tập không xuất sắc của mình, Vương ra sức bù lại bằng
khả năng ngoại ngữ và làm thêm để tích luỹ kinh nghiệm. Chỉ một ngoại ngữ là tiếng
Anh thôi, nhưng các cuộc thi hùng biện, thi viết… Vương đều tham gia một cách tích
cực và đạt những giải thưởng nhất định.
Ngày cầm bằng tốt nghiệp đi xin việc, Vương giới thiệu ưu thế của mình là hoạt
động xã hội, giao tiếp. Bằng chứng là những hình ảnh, giấy khen từ những cuộc thi
được bài trí trên một cuốn sổ đẹp mắt. Khả năng ăn nói lưu loát, tự tin và đơn xin việc
rất ấn tượng (do có tìm hiểu trước về công ty và ngành nghề công ty đang hoạt động) đã
giúp Vương đánh bại hàng loạt đối thủ có bằng tốt nghiệp đỏ để lọt vào phòng giao tế –
nhân sự của một công ty quảng cáo nhỏ.
Xác định ban đầu là học kinh nghiệm, Vương không hề ngại ngần bất cứ công
việc gì sếp giao và luôn cố gắng hoàn tất một cách tốt nhất. Một thời gian sau, Vương
có trong tay recommendation letter (thư giới thiệu) rất chất lượng của sếp, tổng cộng
với nhiều mối quan hệ, kinh nghiệm trong nghề. Chìa khoá này đã giúp Vương chuyển
sang một công ty tầm cỡ hơn. Hiện Vương đang là đối tượng săn lùng của rất nhiều
công ty “săn đầu người” với mức lương hấp dẫn.
Đúc kết kinh nghiệm của mình, Vương nói: “Mỗi người có một tố chất riêng,
nếu không ý thức được ưu thế – nhược điểm của mình, sẽ rất khó thành công. Với tấm
bằng như tôi, sẽ rất khó khăn để gây ấn tượng khi nộp đơn vào những công ty mà tôi
mong muốn, vì vậy tốt nhất nên chọn đường vòng. Khả năng ngoại ngữ, giao tiếp tốt; sự
nhanh nhẹn, tự tin tích luỹ được nhờ đi làm thêm và hoạt động xã hội sẽ khiến bạn
thành công ở ít nhất một công ty nhỏ, từ đó tích luỹ kinh nghiệm làm việc, thư giới thiệu
và sự quen biết của giới trong nghề làm “bàn đạp” để tấn công những mục tiêu cao
hơn. Bởi các công ty thường xem trọng và có xu hướng tuyển dụng những người có kinh nghiệm, có tiếng trong nghề hơn” (1).
(1) http://www.neutoday.net, “Xin việc bằng cách đi đường vòng”, 04/03/2005, 13:22 PM
Tham vọng của Vương là làm marketing trong các công ty sản xuất hàng tiêu
dùng nước ngoài, với kinh nghiệm và vị trí hiện có, một cuộc thăng tiến và chuyển đổi
chỗ làm ngoạn mục nữa chắc chắn sẽ không phải là điều quá khó khăn. Vương đúc kết:
“Tôi mất vài năm để đi đường vòng nhưng đạt được mục đích, trong khi nhiều bạn cũng
cùng xuất phát điểm như tôi, vì quá tự ti và mặc cảm (khi thấy trên các bảng tuyển dụng
luôn đòi hỏi kinh nghiệm, bằng loại giỏi…) nên vẫn giậm chân tại chỗ”.
Vương công nhận, nhà tuyển dụng xem trọng chỉ số EQ (chỉ số cảm xúc) hơn chỉ
số thông minh IQ và chắc chắn, sau này khi ngồi vào ghế nhà tuyển dụng, Vương vẫn sẽ
nhìn nhận như vậy.
"Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn bằng cấp, điểm
số khi học đại học. Nhưng lời khuyên dành cho bạn, là nếu không may mắn đạt được
thành tích mà mình mong muốn, bạn cũng đừng quá tự ti và thất vọng. Hãy bình tĩnh
một cách khôn ngoan, biết cách định sẵn tương lai, hiểu rõ bạn có những gì và muốn gì.
Tự tin chọn con đường vòng cũng là một cách để tiến dần tới thành công khi bạn không
hề có trong tay những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đòi hỏi", Vương nói.
Rõ ràng, đúc kết lại, đối với sinh viên, việc làm thêm cũng như sự năng động
tham gia các hoạt động xã hội thực sự sẽ có nhiều tác động tích cực, ngoài khoản thu
nhập kiếm được thì sẽ là những kinh nghiệm, những “vốn liếng” có thể giúp ích cho bản
thân rất nhiều khi ra trường.
Toàn bộ những ví dụ trên đây là những dẫn chứng sinh động, thực tế nhất mà
sinh viên Việt Nam đã, đang và chắc chắn sẽ trải qua. Để có cái nhìn toàn diện hơn nữa
về vấn đề nghiên cứu, ngoài góc độ đánh giá từ sinh viên Việt Nam thì những kinh
nghiệm, quan điểm cũng như thực tế đời sống sinh viên ở một số nước trên thế giới
không thể không được nhắc tới. Họ đã và đang có những kinh nghiệm quý báu gì mà
chúng ta có thể học tập, áp dụng cho sinh viên Việt Nam.
1.3.2 Những kinh nghiệm của sinh viên Quốc tế
Rebecca, trường Đại học Cambridge: “Đi nhiều làm tươi mới bài giảng”.
Như nhiều sinh viên châu Âu khác, Rebecca rất thích đi du lịch tìm hiểu về các
nền văn hoá khác nhau. Cô đã dành một mùa hè du lịch và kết hợp làm điều tra cho đề
tài của mình về các hàng lưu niệm tranh vẽ tại Hà Nội.
Rebecca vay một khoản tiền từ trường đại học để trang trải cho chuyến đi. Đã du
lịch ở nhiều nước châu á khác nên việc thuê nhà trọ rẻ hay kiếm những phương tiện
kinh tế như xe ôm không còn là bài toán khó.
Rebecca qua Hội đồng Anh tại Việt Nam liên hệ với 2 sinh viên nhờ giúp đỡ với
vai trò phiên dịch trong các cuộc phỏng vấn. Đỡ được một khoản chi phí và lại có thêm
những người bạn mới.
Kết quả, cô đã đạt số điểm tuyệt đối 1.1 theo thang điểm quy định tại Anh cho
luận văn tốt nghiệp. Cô sẽ sang Pháp trau dồi vốn tiếng Pháp sẵn có, sang Trung Quốc,
Việt Nam và Nhật Bản dạy tiếng Anh, đồng thời học tiếng của các nước này. Ngoài ra
Rebecca đang lên kế hoạch cùng nhóm bạn của mình thiết lập một trang báo điện tử
cung cấp tin tức về các sự kiện quốc tế.
Vieneet Kumar, Đại học Quốc gia Singapore: “Học được nhiều sau những lần
mắc lỗi”.
Vieneet là sinh viên ấn Độ hiện theo học ngành Công nghệ thông tin ở
Singapore. Vắt chân lên cổ với bài tập lớn và công việc ngổn ngang, cuộc sống thường
ngày của cậu lúc nào cũng trong guồng quay tất bật.
Vieneet còn quay phim chính, chơi cho một ban nhạc ấn Độ, là uỷ viên của hội
đồng trách nhiệm quản lý và cập nhật thông tin cho một trang web của trường, tổ chức
các buổi thảo luận và trò chuyện cho sinh viên.
Trường Đại học Quốc gia Singapore có tới hơn 100 câu lạc bộ và các nhóm với
nhiều hoạt động khác nhau. Vieneet kể rằng các hoạt động này có vai trò rất quan trọng,
giúp sinh viên thoả mãn được sở thích của mình, học kỹ năng mới, phát triển toàn diện
và quan trọng nhất là giải toả những căng thẳng học hành.
Tham gia các hoạt động này, Vieneet cũng như nhiều sinh viên khác học được
khả năng lãnh đạo và làm việc theo nhóm. Với cậu, điều này khá quan trọng khi đi làm.
“Việc tổ chức các sự kiện sẽ giúp bọn mình biết rõ hơn về vai trò của một thành viên và
sự hoạt động của nhóm sẽ thành lập hay làm sụp đổ một tổ chức như thế nào. Bọn mình mắc lỗi và học được rất nhiều qua những lỗi đó” (1).
…và cũng vất vả việc làm thêm
(1) http://www.vietnamnet.vn, “Sinh viên quốc tế: sôi động tìm bài học ngoài giảng đường”, T.Tú
Mikhailik – sinh viên một trường Đại học ở Hà Nội - bảo: “Làm thêm là một
thuộc tính của sinh viên Ucraina” (1). Đó không phải là lời nói suông, bởi cậu cũng là
một người lão luyện trong việc kiếm tiền: không chỉ làm phim quảng cáo mà còn đóng
phim cho Singapore, làm môi giới cho công ty Đức Thành… Mikhailik làm đủ nghề để
sống. Cậu thuộc làu từng ngõ ngách của đất Hà Thành, biết cách đi qua ngõ tắt để đoạn
đường ngắn nhất. Trông Mikhailik sành sỏi và đầy kinh nghiệm.
Nhưng không phải lúc nào công việc cũng suôn sẻ. Mikhailik kể: “Mình đã đem
hồ sơ đi xin việc ở Bệnh viện Bạch Mai mấy lần mà không được. ở Ucraina thì ngược
lại, mọi chuyện sẽ rất dễ dàng vì họ thích có người mới trong cơ quan”.
Cũng như Mikhailik, Maxim cũng luôn được mọi người coi là rất giỏi trong việc
kiếm tiền. Chỉ với thời gian là 2 tiếng mỗi buổi làm gia sư tiếng Anh, cậu đã có 120
nghìn đồng một cách dễ dàng. Chỉ cần một tuần mấy buổi làm thêm như vậy, Maxim
cũng đủ tiền trang trải cho các sinh hoạt ngày thường ở Việt Nam.
1.3.3 So sánh sơ lược
Điểm qua vài dẫn chứng về sinh viên nước ngoài hiện nay, chúng ta đã phần nào
thấy được những tư duy khá tương đồng so với một bộ phận sinh viên Việt Nam, có
khác chăng chỉ là họ có nhiều điều kiện hơn để phát triển những mong muốn của mình.
Sinh viên Việt Nam hiện nay có nhiều vấn đề chưa thực sự theo kịp tốc độ phát triển
của nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận những cố gắng, những
thành quả mà sinh viên chúng ta đã đạt được. Chúng ta có quyền tin và chắc chắn sẽ
làm được những gì chúng ta muốn, sinh viên phải luôn xứng đáng là đội ngũ tiên phong,
là những người chủ tương lai của Đất nước.
Trên đây mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu một vài dẫn chứng điển hình về sinh
viên hiện nay. Những nội dung chính của đề tài nghiên cứu sẽ được trình bày ở các phần
(1) http://www.sinhvienvietnam.com, “Chuyện ít người biết về sinh viên Tây”, 15/03/2005, S.V
tiếp theo.
Phần 2
Phương pháp nghiên cứu
2.1 Dữ liệu thứ cấp
- Nguồn: thu thập dữ liệu qua báo, tạp chí, các website, ... (xem Danh mục tài
liệu tham khảo ở cuối đề tài nghiên cứu)
- Phương pháp thu thập: phân chia các thành viên trong nhóm mỗi người phụ
trách thu thập thông tin từ một nguồn dữ liệu.
2.2 Dữ liệu sơ cấp (điều tra)
2.2.1 Thu thập dữ liệu
Dữ liệu thu thập cho đề tài gồm cả thứ cấp và sơ cấp. Dữ liệu sơ cấp được thu
thập thông qua việc điều tra trực tiếp bằng Phiếu điều tra.
Ngoài dữ liệu thứ cấp, nhóm nghiên cứu chọn cả việc thu thập dữ liệu sơ cấp vì:
+ Dữ liệu thứ cấp không đủ để phục vụ cho nghiên cứu cả về số lượng lẫn
chất lượng. Hơn nữa cũng chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề mà nhóm nghiên
cứu đang quan tâm.
+ Nhóm nghiên cứu muốn có được những ý kiến xác thực từ phía các bạn
sinh viên về vấn đề việc làm thêm hiện nay, những đánh giá về tác động tích cực cũng
như tiêu cực mà công việc làm thêm đem lại.
+ Nhóm nghiên cứu muốn biết chính xác, cụ thể những tâm tư nguyện
vọng của những sinh viên khi đi làm thêm, những khó khăn, thuận lợi mà họ đã trải
qua.... để có được sự đánh giá khách quan và khoa học cho đề tài. Và từ đó cũng sẽ tìm
ra nguyên nhân vì sao có những bạn không đi làm thêm.
Việc thu thập dữ liệu được tiến hành với những sinh viên trong một trường Đại
học tại Hà Nội. Quá trình thu thập dữ liệu được tiến hành qua các bước sau:
Thiết kế phiếu điều tra
Thiết kế mẫu điều tra
Điều tra thử và tiến hành điều tra
2.2.1.1 Thiết kế phiếu điều tra (thiết kế bảng hỏi)
Xuất phát từ thực tế và từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi chia đối tượng nghiên
cứu làm 2 mảng chính: những người đã đi làm thêm và những người chưa đi làm thêm.
Đối với những người đã đi làm thêm, chúng tôi sẽ có những căn cứ lập các câu
hỏi như: bạn làm thêm vì lý do gì?, bạn làm thêm từ khi nào?, bạn làm những công việc
gì? thu nhập thế nào?….
Đối với những người chưa đi làm thêm, chúng tôi tập trung vào lý do không đi
làm và dự báo trong tương lai về đối tượng này.
Để đảm bảo tính chặt chẽ của việc nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thiết kế 2 lần
phiếu với mục đích: phiếu lần 1 bổ sung cho phiếu lần 2 (chính thức) và so sánh, kiểm
nghiệm thông tin qua 2 giai đoạn khác nhau.
Lần 1: Thiết kế phiếu điều tra có nhiều câu hỏi mở nhằm gợi cho người được
hỏi nêu lên những suy nghĩ của bản thân. Những thông tin này sẽ được cập nhật cho
phiếu điều tra lần 2. Dung lượng phiếu lần 1 không dài (2 trang), bao gồm 13 câu,
chia làm 3 phần: dành cho người đã đi làm thêm, chưa đi làm thêm và phần chung (xem
phụ lục Mẫu phiếu điều tra lần 1).
Lần 2: Tận dụng những thông tin có ích, loại bỏ những thông tin thừa từ phiếu
lần 1 để xây dựng phiếu chính thức. Phiếu lần 2 có dung lượng dài hơn (3 trang) và một
số câu hỏi đi sâu hơn về mức độ tác động đối với người trả lời. Phiếu lần 2 gồm 13 câu
chia làm 2 phần: cho người đã đi làm thêm và cho người chưa đi làm thêm (xem phụ
lục Mẫu phiếu điều tra lần 2).
2.2.1.2 Thiết kế chọn mẫu
Để tiến hành chọn mẫu chúng tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên,
chọn ra 150 người để nghiên cứu (phiếu điều tra lần 1), và chọn ra 250 người để nghiên
cứu (phiếu chính thức). Những người được chọn, mỗi người sẽ được phát 01 phiếu điều
tra và tự trả lời.
Để đảm bảo tính đại diện của mẫu, chúng tôi chọn cả từ những sinh viên năm thứ
nhất đến những sinh viên năm cuối.
Với 150 phiếu điều tra phát ra và thu về 150 phiếu (lần 1), tương ứng có 150
người đã cộng tác trả lời.
Với phiếu điều tra chính thức, số lượng phát ra là 250 phiếu, thu về 241 phiếu,
trong đó có 5 phiếu không hợp lệ. Tổng cộng có 236 phiếu hợp lệ.
2.2.1.3 Điều tra thử và tiến hành điều tra
Sau khi thiết kế xong phiếu điều tra lần 1 và chọn mẫu nghiên cứu, chúng tôi tiến
hành điều tra thử để kiểm tra tính chính xác, hoàn thiện của phiếu điều tra cũng như
mong muốn có được những thông tin ban đầu phục vụ cho việc nghiên cứu. Thời gian
điều tra phiếu lần 1 là từ 15/10 đến 26/10/2004.
Chúng tôi tiến hành điều tra chính thức từ 3/3 đến 15/3/2005.
2.2.2 Phương pháp xử lý số liệu
Kết thúc từng giai đoạn điều tra, công việc tiếp theo là tiến hành tổng hợp các dữ
liệu thu được.
Trước tiên phải hiệu chỉnh dữ liệu bằng việc kiểm tra xem người trả lời đã trả lời
đúng theo yêu cầu chưa, gạn lọc ra những câu trả lời không logic, những câu trả lời
không đúng do người trả lời điền nhầm chỗ...
Bằng phần mềm SPSS, chúng tôi đã tổng hợp số liệu của cả 2 phiếu điều tra
(xem phụ lục Bảng tổng hợp số liệu Phiếu điều tra lần 1, 2).
phần 3
việc làm thêm đối với sinh viên qua
kết quả điều tra xã hội học và phân tích,
đánh giá của nhóm nghiên cứu
3.1 Một số thống kê mẫu
Qua điều tra và tổng hợp số liệu lần 2, tương quan giữa các thống kê về giới tính
và về năm học được biểu thị qua bảng sau:
Bảng 3.1: Tương quan giữa sinh viên đã và chưa đi làm thêm
phân chia theo giới tính và theo năm học
Tiêu chí (phân theo giới tính) Số lượng (người) Giới tính %
Nam 46.95 77 1. Đã làm 164 Nữ 53.05 87
Nam 44.44 32 2. Chưa bao giờ 72 Nữ 55.56 40
Nam 109 46.19 Tổng 236 Nữ 127 53.81
Tiêu chí (phân theo năm học) Số lượng (người) Năm thứ %
>= 4 27.44 45
3 32.93 54 1. Đã làm 164 2 28.05 46
1 11.58 19
>= 4 8.33 6
3 38.89 28 2. Chưa bao giờ 72 2 41.67 30
1 11.11 8
>= 4 51 21.61
3 Tổng 236 82 34.75
2 76 32.20
1 27 11.44
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Từ số liệu thu thập được ta thấy trong 236 người được hỏi có 109 là nam và 127
là nữ.
Cũng trong số 236 người đó thì số lượng sinh viên năm thứ nhất có 27 người,
chiếm 11.44%; sinh viên năm thứ hai và thứ ba lần lượt là 76 và 82 người; Số lượng
sinh viên lớn hơn hoặc bằng năm thứ tư là 51 người, chiếm 21.61%.
3.2 Phân tích kết quả điều tra xã hội học
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu cũng như làm rõ hơn vấn đề việc làm thêm
của sinh viên có nhiều lợi ích, chúng tôi đã tự thiết kế phiếu, tiến hành điều tra nhằm có
được những số liệu sát thực nhất. Chúng tôi rất quan tâm tới vấn đề tuy không mới
nhưng rất thiết thực này.
- ý kiến về vấn đề sinh viên đi làm thêm:
ở câu hỏi đầu tiên, chúng tôi muốn biết quan điểm chung của người được hỏi đối
với vấn đề việc làm thêm của sinh viên nên đã đưa ra 5 tiêu chí cơ bản: rất cần thiết -
cần thiết - không có ý kiến - không cần thiết – rất không cần thiết.
Kết quả chúng tôi thu được như sau: Đơn vị: người
H ×nh 3.1: ý kiÕn vÒ vÊn ®Ò sinh viª n ®i lµm thª m
RÊt cÇn thiÕt
98
CÇn thiÕt
K h«ng cã ý kiÕn
K h«ng cÇn thiÕt
16
13 19
RÊt kh«ng cÇn thiÕt
120 100 80 60 40 20 0
1
4
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Từ kết quả điều tra thấy rằng số lượng sinh viên có quan niệm đi làm thêm là cần
thiết và rất cần thiết chiếm đến đại đa số, có đến 114 bạn, chiếm 76%. 13 bạn không có
ý kiến bình luận. Bên cạnh đó cũng có 19 người cho rằng việc làm thêm là không cần
thiết; có 4 người, chiếm 2.67% cho rằng rất không cần thiết đi làm thêm khi là sinh
viên. Lý do mà các bạn đưa ra rằng học trên lớp là đủ, không nên đi làm thêm vì sẽ lấy
mất nhiều thời gian công sức cho việc học.
Số liệu ở lần điều tra thứ 2 (chính thức) cũng cho kết quả khá tương đồng với lần 1(1). Điều đó chứng tỏ việc đi làm thêm là khá cần thiết trong sinh viên hiện nay. Nó đã
trở thành vấn đề phổ biến, mang tính chất xã hội hoá cao.
- Tương quan giữa sinh viên đã và chưa đi làm thêm:
Với câu hỏi tiếp theo, tại lần điều tra thứ nhất có 60% tương ứng 90 bạn đã đi
H ×nh 3.2: T ¬ng quan gi÷a sinh viª n ®· vµ ch a ®i lµm thª m
Ch a bao giê 40%
§ · lµm 60%
làm, số người chưa đi làm là 60 bạn, chiếm 40%.
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
So sánh giữa 76% cho rằng việc đi làm thêm là cần thiết với 60% đã đi làm,
chứng tỏ có nhiều bạn nhận thức việc làm thêm là rất có ích nhưng vì những lý do khác
nhau nên họ vẫn chưa đi làm thêm. Qua tiếp xúc với những sinh viên chưa bao giờ đi
làm thêm nhưng lại cho rằng đi làm thêm là cần thiết, các bạn đã bày tỏ những trở ngại,
khó khăn làm cho họ chưa thực sự bắt đầu đi làm thêm. Và có rất nhiều bạn vẫn đã và
đang tiếp tục tìm cho mình những công việc thích hợp và bổ ích.
ở lần điều tra thứ 2, ngoài chia ra 2 đối tượng đã và chưa bao giờ làm thêm, chúng tôi còn phân tách theo các yếu tố về giới tính và năm học(1) để từ đó có cái nhìn
tương đối toàn diện hơn về nhu cầu đi làm thêm trong sinh viên hiện nay.
Nếu phân chia theo giới tính ta thấy tỷ lệ nữ đi làm thêm trong lần điều tra thứ 2
nhiều hơn là tỷ lệ nam. Tuy nhiên tỷ lệ này cũng không có sự chênh lệch nhiều.
Nếu phân theo năm học, sinh viên năm thứ ba là đối tượng chiếm tỷ lệ đã đi làm
thêm cao nhất. Tuy nhiên tỷ lệ sinh viên năm ba không đi làm thêm cũng khá cao,
chiếm 38.89% trong tổng số 72 người không đi làm.
Qua bảng số liệu chúng ta thấy vấn đề việc làm thêm được hầu hết các đối tượng
sinh viên quan tâm, không có sự phân biệt nhiều về giới tính cũng như về trình độ. Sinh
viên là đối tượng khá nhạy cảm, dễ tiếp thu những vấn đề mới mẻ, thiết thực. Chính vì
vậy nếu được học kiến thức trên lớp và được ứng dụng ngay trong thực tế là điều mong
mỏi rất lớn của đội ngũ sinh viên.
Khi lĩnh hội kiến thức quý báu từ thầy cô giáo ở trường cũng như trong quá trình
trao đổi với thầy cô, chúng tôi cũng đã nhận được sự cổ vũ động viên rất lớn. Không ít
thầy cô đã rất đồng tình khi biết chúng tôi có một việc làm thêm thích hợp.
Dĩ nhiên không phải không biết đến những tác động trở lại của việc đi làm thêm,
song quan điểm của chúng tôi là: việc gì cũng có tính hai mặt của nó. Đi làm thêm là
cần thiết nếu biết khắc phục những khó khăn và hạn chế gặp phải. Và có thể khi học ở
trường đời (thực tế) sinh viên sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian hơn?…
- Sự đánh giá các yếu tố theo mức độ quan trọng tác động đến quyết định đi
làm thêm:
Từ việc chia 2 loại đối tượng đã và chưa đi làm thêm, những sinh viên đã đi làm
thêm tiếp tục trả lời các câu hỏi ở phần A trong phiếu điều tra.
Với đối tượng này, câu đầu tiên chúng tôi đặt ra là muốn người được hỏi đánh
giá một số yếu tố có mức độ quan trọng như thế nào trong quyết định đi làm thêm của
(1) Tham khảo câu 1 Bảng tổng hợp số liệu phiếu điều tra lần 2
họ. Kết quả thu thập được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.2: Sự đánh giá theo mức độ quan trọng
trong quyết định đi làm thêm
(1: hoàn toàn không quan trọng; 2: không quan trọng… 5: rất quan trọng)
Đơn vị: %
Mức độ quan trọng Tiêu chí 1 2 3 4 5
1. Có thêm thu nhập 1 11 2 37 49
2. Có thêm mối quan hệ mới 0 54 23 13 10
3. Có thêm kinh nghiệm 0 1 6 35 58
4. Muốn khẳng định bản thân 8 36 41 9 6
5. Được thực hành lý thuyết đã học 23 58 14 2 3
6. Hi vọng tìm được cơ hội mới 11 14 21 41 13
7. Cần tạo cho mình một quy tắc 6 56 32 5 1
8. Muốn sử dụng thời gian có ích 0 10 11 44 35
39 25 10 5 9. Học cách trình bày một vấn đề trước mọi người 21
1 10. Khác (xin ghi rõ)………….
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Bảng số liệu trên thể hiện mức độ quan trọng của các yếu tố trong việc quyết
định đi làm thêm, hay cũng có thể nói nó thể hiện mục đích mà sinh viên đi làm thêm là
gì? Yếu tố nào có vai trò lớn nhất trong quyết định đó. Đây là một vấn đề rất quan
trọng, có tính chất quyết định những vấn đề khác của sinh viên khi đi làm: ví dụ như từ
mục đích sẽ ảnh hưởng đến việc chọn công việc gì? thời gian làm việc ra sao?… Vấn đề
này chính là sự thể hiện tư duy nhận thức của từng cá nhân. ở đây không còn bó hẹp về
vấn đề việc làm thêm mà rộng hơn, đó là thể hiện sự nắm bắt, nhận thức xu thế của thời
đại ngày nay. Nắm được yếu tố này sẽ giúp cho chúng ta có sự đánh giá khách quan
hơn, chính xác hơn về xu thế của sinh viên ngày nay.
Số liệu qua điều tra thể hiện một thực tế rằng tiêu chí có mức độ quan trọng trong
quyết định đi làm thêm của sinh viên chủ yếu là thu nhập, 49% cho rằng rất quan trọng,
37% cho rằng quan trọng. Điều này là dễ hiểu vì theo kết quả thống kê năm 2003 trên
cả nước có tới 2/3 số sinh viên đang theo học Đại học là con em của các vùng nông thôn
(1). Trong khi đó mức chi phí sinh hoạt ngày càng đắt đỏ như hiện nay thì khoản tiền mà
các gia đình cung cấp cho con em họ khoảng 4 - 5 trăm nghìn đồng/tháng là không đủ.
Vì vậy nhu cầu đi làm thêm để có thêm thu nhập trang trải học tập, sinh hoạt của bộ
phận sinh viên này là tất yếu. Ngoài ra một bộ phận không nhỏ sinh viên, mặc dù gia
đình có điều kiện trang trải đầy đủ cho việc ăn học nhưng họ vẫn muốn có được các
khoản thu nhập thêm để tự túc cho những nhu cầu cá nhân khác. Vì vậy họ cũng quyết
định đi làm thêm.
Ngoài vấn đề thu nhập thì yếu tố có thêm kinh nghiệm, 58% cho rằng rất quan
trọng để đi đến quyết định có đi làm thêm. Đây là tiêu chí quan trọng, sát sườn nhất đối
với sinh viên hiện nay. Số liệu mà chúng tôi thu thập được cũng đã phần nào chứng
minh thực tế này.
Với đại bộ phận sinh viên, lượng kiến thức lý thuyết là rất lớn, để có thể biến
những kiến thức đó thực sự thành của bản thân thì đòi hỏi người học phải có một quá
trình rèn luyện, nghiên cứu sâu cũng như linh hoạt trong việc áp dụng vào thực tế. Làm
được điều đó không phải một sớm một chiều, nhưng sẽ là tốt hơn khi chúng ta có thể áp
dụng kiến thức được học khi tham gia các hoạt động phong trào, hay đi làm thêm ngay
khi còn ngồi trên ghế giảng đường chứ không chỉ bó hẹp ở sự tự học của bản thân.
Bên cạnh yếu tố kinh nghiệm, cũng có nhiều bạn chọn muốn sử dụng thời gian có
ích do nhận thức đi làm cũng là một cách tiết kiệm thời gian, sử dụng quỹ thời gian hợp
lý hơn.
Trên đây là ba yếu tố có mức độ quan trọng lớn ảnh hưởng đến quyết định đi làm
thêm của sinh viên. Những tiêu chí còn lại có mức độ ảnh hưởng ít hơn, thậm chí là
không quan trọng trong quyết định đó. Tiêu chí muốn khẳng định bản thân có đến 60%
cho rằng không quan trọng; được thực hành lý thuyết đã học, cần tạo cho mình một quy
tắc lần lượt là 95% và 92% cho rằng không quan trọng. Một số tiêu chí khác cũng có sự
ảnh hưởng phần nào nhưng không nhiều trong quyết định đi làm thêm.
Tóm lại, qua sự phân tích số liệu ở trên có thể rút ra hai yếu tố có tầm quan trọng
nhất trong quyết định đi làm thêm của sinh viên chính là yếu tố thu nhập và kinh
(1) “Thực trạng sinh viên đại học”, trang 6, Báo Tuổi trẻ, số 14, 13/3/2004, N.M
nghiệm. Điều này có thể nói là rất phù hợp với tình hình thực tế của sinh viên hiện nay.
- Lượng sinh viên bắt đầu đi làm thêm ở các năm:
ở câu hỏi thứ hai, chúng tôi hỏi "Bạn làm thêm từ khi nào?" nhằm muốn biết
được khoảng thời gian mà người được hỏi bắt đầu đi làm thêm.
Đơn vị: người
H ×nh 3.3: L î ng SV b¾t ®Çu ®i lµm thª m ë c¸ c n¨ m
40
50
28
40
18
30
20
4
10
0
N ¨ m
1
2
3
4
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Nhìn kết quả ở hình 3.3 nhận thấy một xu hướng thực tế là các bạn sinh viên bắt
đầu đi làm thêm nhiều nhất trong năm thứ hai và giảm dần đến năm thứ tư (thời điểm học kỳ I của năm thứ tư) (1). Đây là kết quả tương đối hợp lý trong tư duy nhận thức của
sinh viên. Có thể lý giải như sau: sinh viên năm 1 - 2 học những môn đại cương nên
việc học nhẹ nhàng hơn so với học các môn chuyên ngành; ngoài thời gian tự học, thời
gian rỗi cũng tương đối nhiều. Đây là lượng thời gian lý tưởng để có một công việc làm
thêm. Nhất là ở năm thứ hai, mọi việc ổn định hơn với sinh viên. Đồng thời chính trong
thời điểm này có nhiều phát sinh mới như chi tiêu cho sinh hoạt tăng (do tăng mối quan
hệ...) và cho học tập cũng tăng hơn….
- Tương quan giữa các kênh tìm việc làm thêm:
Khi đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bắt đầu đi làm thêm, chúng ta cũng
không thể không quan tâm đến các cách tiếp cận công việc sắp tới của mình. Tiếp cận
(1) Thời điểm học kỳ II của năm thứ tư, số lượng này đã tăng hơn do có nhiều thời gian rỗi hơn. Tham khảo số liệu tại phụ lục Bảng tổng hợp số liệu Phiếu điều tra lần 2.
để làm sao tìm được cho mình công việc có sự phù hợp cả về thể lực, trí lực cũng như
hoàn cảnh của mỗi người. ở đây chúng tôi đưa ra một số cách tiếp cận như qua báo chí,
internet, TTDVVL, bạn bè…
Qua điều tra chúng tôi đã thu thập được số liệu như sau:
H×nh 3.4: T ¬ng quan gi÷a c¸ c kªnh
TTDVVL 24.76%
Tæ chøc § oµn, Héi 7.28%
B¹n bÌ , ng êi th©n 30.58%
Tê r¬i 10.19%
Internet 4.37%
Kh¸c 2.44%
B¸o chÝ 18.93%
Tivi 1.45%
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Dễ dàng nhận thấy rằng TTDVVL, nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động môi
giới việc làm lại không phải là địa chỉ đáng tin cậy nhất của sinh viên khi tìm việc, có
tới 30.58% người đã tìm việc làm thêm qua bạn bè, người thân. Đây là một ưu thế sẵn
có của các bạn. Một thực tế khá phổ biến là trong môi trường lớp học, khi có một bạn
sinh viên đi làm thêm sẽ lôi kéo được bạn bè thân cùng giúp sức làm việc. Điều đó
chứng tỏ sự đoàn kết và tính cộng đồng khá cao của sinh viên ngày nay.
Trái ngược với phần đông người tìm việc qua bạn bè, người thân, ta thấy lượng
người tìm việc qua công cụ Internet còn thấp, chỉ có 9 người, chiếm 4.37%. Đây là một
thực tế đáng phải lưu tâm. Tất nhiên khi tìm việc qua mạng thì độ chính xác của thông
tin là yếu tố rất quan trọng (yếu tố này hiện nay chưa hẳn đã làm thoả mãn người sử
dụng Internet (khách quan). Nhưng theo chúng tôi như đã nói ở trên, điều gì cũng có
tính hai mặt. Và chúng tôi nghiêng về phía lỗi ở người sử dụng là sinh viên nhiều hơn
(yếu tố chủ quan) do chưa biết khai thác và sử dụng có hiệu quả công cụ này). Chúng ta
không nên vì lý do nào đó mà xem nhẹ công cụ này, ngoài mục đích sử dụng để tìm
việc làm thì Internet thực sự là công cụ khá hoàn hảo để chúng ta học tập, tìm kiếm
những thông tin hứu ích, lý thú, cập nhật những kiến thức mới nhất... Từ đó có thể bổ
trợ cho việc học tập cũng như những mục đích khác của bản thân người sử dụng.
Trở lại TTDVVL, chúng tôi muốn lưu ý rằng có rất nhiều trường hợp các bạn
mất tiền oan nhưng vẫn không có được việc làm. Do vậy khi cân nhắc tìm việc qua báo
chí hay TTDVVL chúng ta cũng cần chú ý một điều: hãy cảnh giác với những thông tin
về công việc chung chung, không cụ thể rõ ràng.
Dù có tìm việc qua phương tiện gì, chúng ta hãy tự tin vào bản thân. Đó là điều
kiện tiên quyết để mỗi người có thể tìm được công việc phù hợp cho mình. Chúng ta
hãy kiên nhẫn và học hỏi, xác định đi làm thêm cũng là để học và tích luỹ cho tương lai.
- Những công việc làm thêm của sinh viên:
Qua phân tích một số vấn đề ở trên chúng ta phần nào đã có cái nhìn thấu đáo
hơn về việc làm thêm của sinh viên hiện nay. Nhưng sẽ là đầy đủ hơn khi chúng ta đi
sâu vào các vấn đề cụ thể như: công việc mà những người đã đi làm lựa chọn chủ yếu là
gì? thời gian làm việc của họ như thế nào, có ảnh hưởng gì đến việc học tập ở
trường?.... Để biết được sinh viên đã và đang đi làm thêm những công việc gì, chúng tôi
đã đưa ra một số công việc như: gia sư, tiếp thị, bán hàng, tư vấn viên, văn phòng....
H ×nh 3.5: N h÷ng c«ng viÖc lµm thª m cña sinh viª n
Båi bµn 7.17%
K h¸ c 1.35%
Tæ chøc ki nh doanh 13.00%
Gi a s 29.15%
TiÕp thÞ 17.49%
T vÊn vi ª n 16.60%
B¸ n hµng 13.00%
V ¨ n phßng 2.24%
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Kết quả tổng kết cho thấy số sinh viên đi làm gia sư đông nhất, chiếm 29.15%.
Có nhiều sự lựa chọn cho công việc này chính bởi do tính chất của nó có nhiều điểm
phù hợp với sinh viên, vừa không tốn nhiều thời gian lại có thu nhập tương đối ổn định,
công việc cũng không yêu cầu quá cao.... Hơn nữa hiện nay nhu cầu cho con cái học
thêm tăng cao, các vị phụ huynh thuê sinh viên làm gia sư thì chi phí phải bỏ ra ít hơn
so với chi phí cho các thầy cô giáo có kinh nghiệm kèm cặp con cái họ. Một điểm nữa,
việc dạy gia sư tại nhà cũng giúp phụ huynh dễ kiểm tra và quản lý con cái họ sát sao
hơn.... Bên cạnh những điểm lợi như thế, nhưng đánh giá một cách khách quan thì công
việc gia sư cũng có những hạn chế như: hiếm khi có thể áp dụng những kiến thức được
học vào công việc, thiếu sự sáng tạo trong công việc, không có nhiều các mối quan hệ
như các công việc khác. Có thể nói gia sư chỉ nên là công việc trước mắt, phục vụ chủ
yếu cho những sinh viên có mục đích kiếm thêm thu nhập chứ không thể là công việc
cho những sinh viên muốn thể hiện tài năng.
Một trong những công việc làm thêm cũng đang được ưu chuộng hiện nay là làm
tiếp thị, con số người chọn công việc này là 39, chiếm 17.49% trong tổng số sự lựa chọn
các công việc. Công việc này khá phổ biến và phù hợp với sinh viên vì qua đó sinh viên
có khả năng làm việc nhóm tốt hơn, có nhiều mối quan hệ cũng như rèn luyện được kỹ
năng giao tiếp cho bản thân. So với làm gia sư thì công việc tiếp thị cũng có khá nhiều
yếu tố thuận lợi hơn cho những người đi làm. Tuy nhiên công việc tiếp thị lại đòi hỏi
nhiều thời gian và công sức hơn. Một phần nào đó cũng sẽ có ảnh hưởng đến học tập
trên lớp.
Cũng giống như tiếp thị, công việc tư vấn viên hiện nay cũng thu hút được sự
quan tâm của đông đảo học sinh, sinh viên. Công việc này không gò bó về thời gian
nhưng đòi hỏi sinh viên phải có quan hệ rộng, có kỹ năng giao tiếp tốt, phải chịu khó
tìm tòi, tự hoàn thiện mình. Đây có thể là công việc lâu dài, nó không những giúp sinh
viên trong quá trình học tập mà cả sau khi ra trường, với mối quan hệ tốt sinh viên cũng
dề tìm việc hơn. Công việc này còn giúp chúng ta phát huy được những điểm mạnh,
phát hiện ra những khả năng còn tiềm ẩn trong mỗi người…
Những mặt tích cực của một số công việc làm thêm ở trên được đề cập đến là rất
quan trọng cho sinh viên nói chung. Tuy nhiên những công việc đó có hạn chế là chưa
áp dụng được nhiều những kiến thức đã học trên lớp. Trong khi đó những công việc mà
có thể áp dụng được kiến thức đã học thì số người đã làm lại không cao. Điều này do cả
yếu tố chủ quan và khách quan gây nên. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm vì theo
chúng tôi, xét đến cùng, nhiệm vụ của người sinh viên khi còn ngồi trên ghế giảng
đường thì học tập là quan trọng nhất. Chúng ta đi làm thêm để biết được những thực tế
bên ngoài, có cái nhìn toàn diện hơn về các vấn đề.... Và sẽ là tốt nhất nếu kiến thức
được truyền giảng trên lớp chúng ta có thể sử dụng cho công việc hiện tại cũng như sau
này. Sự kết hợp đó mới thực sự có nhiều tác động tích cực, vừa giúp chúng ta được thực
hành kỹ năng, áp dụng kiến thức chuyên môn vào công việc; vừa giúp cho thầy cô, nhà
trường có sự điều chỉnh những môn học sao cho hợp lý, sát với thực tế. Làm được điều
đó thì xã hội sẽ tiết kiệm được rất nhiều cả về thời gian, công sức, tiền của....
- Thời gian làm thêm của sinh viên:
Ngoài tìm hiểu về công việc các bạn sinh viên đã và đang làm, chúng tôi còn đề cập đến vấn đề thời gian khi sinh viên đi làm thêm(1). Đây là yếu tố rất quan trọng vì nó
thể hiện việc sử dụng quỹ thời gian của sinh viên khi đi làm thêm như thế nào? có làm
ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp hay không? có ảnh hưởng đến những công việc cá
nhân hay gia đình không?...
Qua điều tra thu thập số liệu chính thức, chúng tôi thấy có 24 người đã làm các
công việc bán thời gian. Đây là một dạng công việc có thu nhập khá ổn định, không ảnh
hưởng đến thời gian học tập trên lớp. Công việc này thường như tiếp thị, bán hàng ở các
chợ hay siêu thị (demo), hay trực điện thoại....
Về công việc làm thêm theo đợt (10-15 ngày), có 33 sự lựa chọn. Làm theo đợt
có ưu điểm là lương khá cao. Tuy nhiên cũng khá vất vả và mất nhiều thời gian, ảnh
hưởng đến công việc học tập trên lớp cũng như tự học ở nhà của sinh viên.
Công việc kế tiếp là làm theo ngày nghỉ, có 16 người đã và đang làm công việc
này. Làm việc trong những ngày nghỉ thì không bị ảnh hưởng đến việc học tập trên lớp
mà vẫn có thu nhập nhưng không nhiều. Đa phần những người lựa chọn công việc này
không nhằm mục đích kiếm thêm thu nhập mà muốn tận dụng thời gian rỗi, muốn thay
đổi không khí sau một tuần học tập căng thẳng....
Thời gian làm việc có số người lựa chọn nhiều nhất là làm thêm 1 – 2 buổi/ tuần,
có 47/171 người, chiếm 27.48%, cao nhất trong tất cả các sự lựa chọn. Những người
làm việc với thời gian này thường là công việc gia sư. Cũng như phân tích ở trên, đây
vẫn là công việc được đa số sinh viên lựa chọn do tính thích hợp về thời gian và thu
nhập. Làm việc với thời gian 1 – 2 buổi/ tuần chắc chắn không có ảnh hưởng nhiều đến
việc học tập và sinh hoạt của phần đông sinh viên nói chung.
Với công việc có tính chất không cố định, có 32 người đã lựa chọn, chiếm
18.71%. Không ổn định ở đây theo nghĩa là khi nào có việc thì làm. Công việc này
(1) Tham khảo câu 7 Bảng tổng hợp số liệu phiếu điều tra lần 2
mang nhiều tính chất bị động về thời gian, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng đến học tập và
sinh hoạt của cá nhân. Tuy nhiên những công việc này vẫn được nhiều người ưa thích vì
thu nhập cao hơn hẳn so với những công việc khác…
Điểm qua một vài nét về vấn đề thời gian trên đây ta thấy công việc làm thêm
chắc chắn sẽ mất một quỹ thời gian nhất định của sinh viên. Có những công việc không
ảnh hưởng nhiều đến học tập và sinh hoạt nói chung mà còn giúp cho sinh viên có thêm
những khoản thu nhập có ích phục vụ cho học tập. Nhưng cũng không thể phủ nhận
nhiều công việc có sức hút cao khiến một bộ phận không nhỏ sinh viên bị cuốn theo xu
hướng mải mê làm thêm. Từ đó dẫn tới xao nhãng việc học tập vốn rất quan trọng.
Có thể kết luận rằng, việc làm thêm sẽ chỉ có ích khi mỗi chúng ta biết tự ý thức,
tự cân đối, đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực của nó để có sự áp dụng, điều chỉnh
cho bản thân sao cho hợp lý nhất. Làm được điều này hoàn toàn không đơn giản, nhưng
nếu thực hiện được chúng thì rõ ràng những mặt tích cực sẽ được phát huy tối đa không
chỉ trong hiện tại mà cả tương lai sau này của bản thân mỗi người.
Trên đây là những thông tin cơ bản về tình hình đi làm thêm của sinh viên.
Những thông tin này đã ít nhiều cho ta sự nhìn nhận ra những tác động mà việc làm
thêm đem lại. Tuy nhiên những tác động đó chưa thực sự làm sáng tỏ mục đích mà
chúng tôi muốn hướng tới.
- Thu nhập từ làm thêm của sinh viên:
Với mong muốn đưa ra và chứng minh những tác động tích cực hiện hữu nhất
của việc làm thêm, chúng tôi đã đặt câu hỏi liên quan đến vấn đề thu nhập từ công việc
này. Qua 2 lần điều tra, kết quả thu thập được khá tương đồng, được thể hiện qua các
bảng số liệu sau:
Bảng 3.3: Sự lựa chọn thứ tự ưu tiên của việc chi tiêu
Đơn vị: người
Thứ tự ưu tiên Tiêu chí 1 3 4 2
1. Học tập 35 24 5 26
2. Sinh hoạt 35 17 1 37
3. Giải trí - mua sắm 18 40 7 25
4. Khác 2 9 77 2
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Bảng 3.4: Sự lựa chọn thứ tự ưu tiên của việc chi tiêu
Đơn vị: SL (người)
Thứ tự ưu tiên
1 3 4 5 6 2 Tiêu chí S S S % SL % % SL % % SL % L L L
0 0 0 0 1. Học tập 77 47 34 21 31 19 22 13
6 3 0 0 2. Sinh hoạt 64 39 57 35 29 18 8 5
7 8 3. Giải trí - mua sắm 12 48 29 58 35 17 11 16 10 13
8 5 4. Tìm kiếm CV mới 21 13 37 23 36 21 34 21 28 17
3 2 5. Tiết kiệm 4 2 7 4 76 46 48 29 26 17
0 6. Khác (xin ghi rõ)… 0 0 0 2 1 5 4 60 37 97 58
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy có 35 người chọn ưu tiên nhất chi tiêu cho học tập,
chiếm 38.89% trong tổng số 90 người đã đi làm thêm (số liệu lần 1). Và con số đó cũng
là con số của việc chi tiêu cho sinh hoạt. ở lần điều tra thứ 2, về học tập có 77 người
chọn, chiếm 47% trong tổng số 164 người đã đi làm thêm. Chi tiêu cho sinh hoạt có 64
người, chiếm 39%.
Việc chi tiêu cho giải trí có ít hơn so với chi tiêu cho học tập và sinh hoạt, có 18
người chọn giải trí - mua sắm là yếu tố ưu tiên nhất, chiếm 20% trong tổng số 90 người
đã đi làm thêm. Cuối cùng chỉ có 2 người chọn ưu tiên chi tiêu cho mục đích khác,
chiếm 2.22%. ở lần điều tra thứ 2, con số cho giải trí – mua sắm là 7%, cho tìm kiếm
công việc mới, tiết kiệm, khác lần lượt là 5%, 2% và 0%.
Đến mức ưu tiên hai, ở lần điều tra thứ nhất, về học tập có 26 người chọn, chiếm
28.89%. Con số này thể hiện việc giảm đi của sự ưu tiên. Đối với sinh hoạt và giải trí,
con số có tăng lên, lần lượt chiếm 41.11% và 27.78% trong tổng số 90 người đã đi làm
thêm. ở lần điều tra thứ 2, xu hướng cơ bản cũng như ở lần đầu tiên.
Ta thấy rằng mức chi tiêu của những sinh viên đã đi làm thêm phần lớn vẫn ưu
tiên nhiều cho học tập, kế đến là cho sinh hoạt và giải trí. Cuối cùng mới sử dụng vào
mục đích khác như tìm kiếm công việc mới, tiết kiệm…
Những biểu hiện trên đây khá dễ hiểu và mang tính thực tế cao. Việc đi làm thêm
của sinh viên phần lớn vẫn là muốn có thêm thu nhập, phục vụ trước mắt cho việc học
tập và sinh hoạt. Chính vì thế nên có đến 77.78% trong tổng số 90 người đã đi làm ưu
tiên chi tiêu cho học tập và sinh hoạt (theo số liệu lần 1) và ở lần 2, con số này là
85.97% trong tổng số 164 người đã đi làm thêm.
Rõ ràng với sự ưu tiên chi tiêu cho học tập và sinh hoạt như trên ta thấy việc đi
làm thêm đã có tác dụng tích cực đối với cá nhân sinh viên nói riêng, đối với gia đình,
nhà trường và xã hội nói chung. Vì việc có thu nhập từ mồ hôi công sức của bản thân sẽ
giúp cho sinh viên biết quý trọng đồng tiền, biết chi tiêu hợp lý và từ đó cũng làm giảm
bớt gánh nặng cho gia đình. Nhất là đối với sinh viên ngoại tỉnh, cuộc sống đôi khi còn
nhiều khó khăn, eo hẹp....
- Những lợi ích ngoài thu nhập từ đi làm thêm:
Ngoài việc tìm hiểu về vấn đề chi tiêu trên, chúng tôi cũng rất quan tâm đến
những tác động tích cực khác mà việc làm thêm đem lại. Chúng tôi đã tiến hành thu
thập số liệu dựa trên việc đưa ra những nhận định để cho sinh viên sau khi đã đi làm
thêm có thể đánh giá. Những nhận định này được đúc kết từ kinh nghiệm bản thân cũng
như qua các thông tin thu thập được từ trong và ngoài quá trình điều tra. Những nhận
định xoay quanh việc làm thêm có tác động đến bản thân mỗi sinh viên như thế nào? Đó
vừa là những tác động hữu hình, vô hình mà cũng vừa là những tác động trước mắt và cả
tương lai sau này.
Chúng tôi phân ra năm mức độ như sau: 1: tăng hơn nhiều; 2: có tăng hơn; 3:
không thay đổi; 4: giảm hơn; 5: giảm hơn nhiều (lần 1). 1 – hoàn toàn không đồng ý; 2
– không đồng ý; 3 - không ý kiến; 4 - đồng ý và 5 – hoàn toàn đồng ý (lần 2).
Tất cả những yếu tố trên được tổng hợp thông qua hai bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.5: Sự lựa chọn các tiêu chí theo mức độ
Đơn vị: người
Mức độ thay đổi Tiêu chí 1 2 3 4 5
31 50 8 1 0 Kiến thức kinh tế xã hội
24 58 8 0 0 Kinh nghiệm tích luỹ
28 49 13 0 0 Sự năng động, sáng tạo
37 43 10 0 0 Kỹ năng giao tiếp
21 49 19 0 1 Tác phong công nghiệp
Nguồn: Thu thập số liệu lần 1
Bảng 3.6: Sự đánh giá các nhận định theo mức độ đồng ý
Đơn vị: người
Mức độ đồng ý Tiêu chí 1 2 3 4 5
1. Việc đi làm rất mất thời gian của tôi 12 57 63 19 13
2. Tôi có nhiều mối quan hệ mới tốt hơn 15 51 25 62 11
3. Làm thêm khiến sức khoẻ tôi bị ảnh hưởng nhiều 43 83 7 26 5
4. Làm thêm khiến việc học tập của tôi kém hơn 21 44 74 17 8
5. Làm thêm giúp tôi tăng kỹ năng giao tiếp, tác 0 5 20 74 65 phong chững chạc hơn
6. Làm thêm cho tôi nhiều kinh nghiệm sống, kinh 4 6 17 70 67 nghiệm làm việc
7. Làm thêm giúp tôi rèn khả năng làm việc độc lập 8 11 10 86 49 cũng như khả năng làm việc nhóm tốt hơn
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Qua hai bảng ở hai thời điểm điều tra trên ta thấy ngay một điều rõ ràng rằng
phần lớn những người sau khi đi làm thêm đều có sự trưởng thành hơn, có được những
kiến thức, những kỹ năng tốt cho bản thân.
Sự lựa chọn trên mới nhìn có sự hơi chủ quan, mang nhiều tính cá nhân vì ai
cũng muốn mình tốt hơn lên, tốt hơn so với người khác. Nhưng xét một cách tổng thể,
phần lớn những người đã đi làm thêm đều có thiên hướng lựa chọn giống nhau. Hơn
nữa việc sử dụng số liệu chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu, mang tính bảo mật thông
tin cao thì sự trả lời trung thực của chính bản thân người được điều tra là hoàn toàn
đáng tin cậy.
ở bảng 3.5 (điều tra lần 1), về kiến thức kinh tế xã hội, có 31 người trả lời tăng
hơn nhiều, chiếm 34.44%; có 50 người trả lời có tăng hơn, chiếm 55.56% trong tổng số
90 người đã từng đi làm thêm.
Về kinh nghiệm, có 24 người trả lời tăng hơn nhiều, chiếm 26.67%; và số người
trả lời có tăng hơn lên đến 58 người, chiếm 64.44%.
Ta cũng nhận thấy về những tiêu chí còn lại như sự năng động sáng tạo, kỹ năng
giao tiếp và tác phong công nghiệp đều có số người chọn cao và thường nghiêng về biểu
hiện tăng hơn nhiều và có tăng hơn. Đặc biệt số người chọn có tăng hơn là cao nhất so
với các biểu hiện còn lại.
ở bảng 3.6 (điều tra lần 2), các tiêu chí có đi sâu hơn so với các tiêu chí ở lần
điều tra thứ nhất.
Tiêu chí việc làm thêm rất mất thời gian của tôi, làm thêm khiến sức khoẻ tôi bị
ảnh hưởng nhiều đều có sự không đồng ý chiếm tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ đồng ý. Theo
chúng tôi, chỉ có một bộ phận nhỏ sinh viên bị ảnh hưởng bởi hai tiêu chí nêu trên. Còn
đại đa số khi đã đi làm thêm đều xác định được trước những tiêu cực cũng như tự biết
cân đối về mặt thời gian và sức khoẻ.
Về các tiêu chí như tôi có nhiều mối quan hệ mới tốt hơn, làm thêm khiến việc
học tập của tôi kém hơn thì cơ bản cũng không có sự chênh lệch nhiều giữa hai quan
điểm đồng ý hay không.
Tiếp đến là các nhận định 5, 6 và 7, những nhận định này đã thu được những số
liệu thể hiện sự đồng ý rất cao.
Với nhận định làm thêm giúp tôi tăng kỹ năng giao tiếp, tác phong chững chạc
hơn có 74 người đồng ý, chiếm 45%; có 65 người rất đồng ý, chiếm 39% trong tổng số
164 người đã đi làm thêm.
Với nhận định làm thêm cho tôi nhiều kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc
có 70 người đồng ý, chiếm 42%; có 67 người rất đồng ý, chiếm 40% trong số những
người đã đi làm.
Cuối cùng, ở nhận định 7, các con số này lần lượt là 52% đồng ý và 30% rất
đồng ý.
Tất cả những sự lựa chọn trên là hoàn toàn có căn cứ vì có thể nói ở sinh viên,
những con người trẻ tuổi, ham học hỏi, có nhiều mong muốn được giao lưu, được rèn
luyện bản thân... thì việc học tập ở trên lớp là chưa đủ. Số liệu qua hai bảng trên đây
một lần nữa giúp chúng ta có khẳng định chắc chắn: việc làm thêm đem lại rất nhiều
những tác động tích cực, nhất là khi chúng ta biết cân đối thời gian học và hành hợp lý.
Ngoài việc luôn cố gắng học tập tốt ở trên lớp nhưng khi chúng ta có điều kiện
để học hỏi thêm, để rèn luyện tích luỹ thêm cho mình những kỹ năng, những kinh
nghiệm thông qua việc tham gia các phong trào Đoàn, Hội hay việc đi làm thêm thì tại
sao chúng ta lại tự bó hẹp mình?
Việc đi làm thêm không phải là dành cho những người có tư tưởng chán học mà
chính là dành cho những sinh viên coi sự học tập là mở rộng. Học trên lớp cũng là học,
có được những kiến thức, những kỹ năng bên ngoài cũng là học. Học trên lớp để có kiến
thức, có những tư duy căn bản; để có thể vượt qua những kỳ thi trong trường và sau này
ra làm việc. Với lượng kiến thức được học tại trường đó, nếu không kết hợp với những
kiến thức thực tế, không có sự thực hành, va chạm cuộc sống... thì chúng ta chưa thể có
đủ vốn liếng cho bản thân khi đi phỏng vấn xin việc, đặc biệt là ở những công ty liên
doanh hoặc công ty nước ngoài. Đó là còn chưa kể đến sự thiếu thực hành sẽ làm cho
kiến thức của chúng ta bị rơi rụng, nhìn rộng ra thì đó là sự lãng phí lớn cho xã hội, cho
đất nước.
Mong muốn của chúng tôi ở các câu hỏi này là sẽ có những thay đổi tích cực đối
với những sinh viên đã đi làm thêm. Và thực tế điều đó đã được chứng minh một cách
rõ ràng.
- Những khó khăn của sinh viên khi đi làm thêm:
Những số liệu điều tra trên đây cơ bản đã chứng minh được những tính tích cực
mà việc làm thêm đem lại cho sinh viên. Tuy nhiên, để có thể thu lượm được những lợi
ích đó thực tế hoàn toàn không đơn giản, sinh viên cũng đã phải trải qua không ít những
khó khăn khi đi làm thêm. Số liệu điều tra về vấn đề này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.7: Những khó khăn của sinh viên khi đi làm thêm
Tiêu chí Sự lựa chọn %
1. Gặp phải sự lừa đảo 32 16.49
2. Gia đình không ủng hộ 49 25.26
3. Khó tìm công việc phù hợp 63 32.47
4. Bị coi thường 15 7.73
5. Thiếu phương tiện, công cụ thông tin liên lạc 31 15.98
6. Khác (xin ghi rõ)……………………………. 4 2.07
Tổng 194 100
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Từ bảng số liệu 3.7 ta thấy khó khăn lớn nhất của sinh viên khi đi làm thêm là
khó tìm công việc phù hợp, có 63 sự lựa chọn, chiếm 32.47% trong tổng số 164 người
đã đi làm thêm. Những khó khăn còn lại khác là gặp phải sự lừa đảo, thiếu phương tiện,
công cụ thông tin liên lạc; gia đình không ủng hộ…
Số liệu về những khó khăn khi đi làm thêm ở trên có thể chưa đầy đủ, chưa sâu
nhưng ít nhiều cũng đã cho chúng ta thấy để có được những kinh nghiệm, những thành
quả trong quá trình học tập và lao động, sinh viên nói chung cũng đã phải chấp nhận hy
sinh, phải chịu đựng những khó khăn nhất định. Chính vì lý do đó, sự ủng hộ, giúp đỡ
từ phía gia đình, nhà trường và các tổ chức đoàn thể đối với việc học tập và lao động
của sinh viên có thể nói sẽ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng.
- Sự đánh giá các yếu tố theo mức độ ảnh hưởng đến quyết định không làm
thêm:
Toàn bộ những phân tích trên đây là những thông tin cơ bản nhất về đối tượng
sinh viên đã đi làm thêm qua hai lần điều tra của chúng tôi.
Trong nghiên cứu này, một vấn đề cũng không thể không nhắc tới đó là những
suy nghĩ, quan điểm của đối tượng sinh viên không đi làm thêm. Đặt ra những câu hỏi
cho đối tượng này, chúng tôi cũng không ngoài mục đích muốn hiểu hơn tại sao có
những sinh viên không đi làm thêm? Đó là những tác động khách quan hay do chủ quan
bản thân họ?…
Cũng giống với đối tượng đã đi làm thêm, chúng tôi đặt câu hỏi thể hiện mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố trong quyết định không đi làm thêm của đối tượng còn lại
này. Số liệu điều tra lần 2 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.8: Sự đánh giá theo mức độ ảnh hưởng trong quyết định không làm thêm
(1: hoàn toàn không ảnh hưởng; 2: không ảnh hưởng… 5: rất ảnh hưởng)
Đơn vị: SL (người)
Mức độ ảnh hưởng
Tiêu chí 1 2 4 5 3
S S S S S % % % % % L L L L L
1. Quan điểm đi làm thêm không tốt 17 23 25 35 19 26 7 10 4 6
0 2. Muốn tập trung học 0 8 11 3 4 39 54 22 31
0 3. Không có đủ thời gian 0 7 10 13 18 25 35 27 37
2 4. Không đủ sức khoẻ 4 6 8 9 12 31 43 24 33
5. Không có cơ hội 26 36 33 46 8 11 3 4 2 3
6. Không có phương tiện 4 6 7 10 9 12 29 40 23 32
7. Bố mẹ không cho 8 11 6 9 0 0 27 37 31 43
8. Muốn tham gia hoạt động khác 11 15 13 18 7 11 17 23 24 33
9. Khác (xin ghi rõ)…………… 1 1
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
Trong 236 phiếu điều tra lần 2 của chúng tôi có 72 bạn xác nhận là chưa từng đi
làm thêm.
Với tiêu chí không có đủ thời gian, có 25/72 người, chiếm 35% cho là có ảnh
hưởng và có 27/72 người, chiếm 37% cho rằng yếu tố này rất ảnh hưởng đến quyết
định không đi làm thêm của họ. Những sinh viên này phần lớn không đi làm thêm vì
bận việc gia đình. Các hoạt động đó đã làm cho quỹ thời gian của họ không còn để đi
làm thêm, mặc dù chính họ cũng công nhận đi làm thêm là rất bổ ích.
Với tiêu chí muốn tập trung học, có 54% cho là có ảnh hưởng và có 31% cho
rằng rất ảnh hưởng đến quyết định không đi làm thêm. Những sinh viên này có quan
điểm muốn học thật tốt khi còn đi học. Với họ việc làm thêm không quan trọng. Họ suy
nghĩ học giỏi sẽ dễ xin việc hơn sau khi ra trường.
Những tiêu chí còn lại khá khách quan nhưng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định không đi làm của sinh viên. Không có phương tiện, 40% cho rằng có ảnh
hưởng; bố mẹ không cho, có đến 43% cho rằng rất ảnh hưởng.
Một số tiêu chí khác như quan điểm đi làm thêm không tốt, không có cơ hội gần
như không ảnh hưởng đến quyết định không đi làm thêm của sinh viên.
Qua một vài số liệu dẫn chứng trên đây chúng tôi không phủ nhận vẫn còn một
bộ phận sinh viên cũng có những quan điểm rất riêng trong việc quyết định không đi
làm thêm. Nhưng thực tế đã cho thấy bộ phận sinh viên còn lại không đi làm thêm
không phải do ý muốn chủ quan hay do có quan điểm không đúng về vấn đề này mà gần
như hoàn toàn họ bị chi phối bởi những nguyên nhân khách quan khác mà có thể dễ
dàng khắc phục được. Tuy không đi làm thêm nhưng họ cũng có sự hiểu biết, đánh giá
được những mặt tích cực mà việc làm thêm mang lại. Điều này càng được chứng minh
qua câu hỏi dự báo của chúng tôi.
Bảng 3.9: Dự báo nhu cầu đi làm trong 3 – 5 tháng tới của
những người chưa đi làm thêm
Tiêu chí Số lượng (người) %
1. Có 43 59.72
2. Chưa quyết định 10 13.88
3. Không 19 26.4
Tổng 72 100
Nguồn: Thu thập số liệu lần 2
ở bảng 3.9, chúng tôi đặt câu hỏi dự báo cho những sinh viên chưa đi làm thêm.
Mục đích mà chúng tôi muốn hướng tới là xem họ có dự định làm thêm hay không. Nếu
có thì đồng nghĩa là họ đánh giá việc làm thêm cũng có nhiều tác động tích cực, đáng để
họ lưu tâm. Trên cơ sở khắc phục những điều kiện khách quan chi phối, có thể họ sẽ đi
làm thêm trong thời gian tới. Và số liệu mà chúng tôi thu thập được đã phần nào minh
chứng cho nhận định trên.
Để thay lời kết cho vấn đề nghiên cứu, chúng tôi xin trích một dẫn chứng thực tế
tại diễn đàn Đại hội sinh viên toàn quốc lần 7: Có nên làm thêm trong khi đi học, về quê
hay “bám trụ” thành phố để tìm việc sau khi tốt nghiệp… là những bức xúc được nhiều sinh viên đề cập tại diễn đàn.
Làm thêm: nên hay không?
Đa số đại biểu tham dự diễn đàn đều cho rằng, để nâng cao kỹ năng thực hành
trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn như hiện nay thì giải
pháp tốt nhất là sinh viên nên kiếm việc làm thêm ngay từ khi còn theo học.
Tuy nhiên để có được việc làm thêm vừa mang lại thu nhập khá, vừa tích luỹ
được kinh nghiệm và vốn sống xã hội, với sinh viên không phải là vấn đề đơn giản. Bởi
ngoài nghề gia sư, phiên dịch tương đối nhàn, đa số sinh viên vẫn phải đi làm thêm
bằng nhiều nghề gian nan khác như phu hồ, rửa bát, bồi bàn… và nếu chỉ quanh quẩn
trong “núi” công việc đó, làm sao sinh viên có được những kỹ năng thực hành phục vụ
cho nghề nghiệp sau này? Bởi lẽ đó, Nguyễn Thế Hưng, Chủ tịch Hội sinh viên TP Hải Phòng “phản biện”: “Sinh viên không nên làm thêm trong quá trình học” (1).
Không đồng tình với quan điểm trên, Phan Kim Phụng, đại diện đại biểu sinh
viên TP Hồ Chí Minh cho rằng: “sinh viên nên đi làm thêm trong thời gian học, không
chỉ để có thêm thu nhập mà còn để trang bị cho mình những kiến thức về đời sống xã
hội để kịp thích nghi với mọi thử thách”. Phụng đề xuất Hội sinh viên các trường nên tổ
chức nhiều ngày hội việc làm và tranh thủ mối quan hệ giữa giáo viên trong trường với
các cơ quan để giúp sinh viên tìm việc sau khi ra trường.
Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh viên TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Nhung cho
biết: “Khác với vài ba năm trước, các doanh nghiệp khi tuyển dụng thường yêu cầu
phải có thêm “2 năm kinh nghiệm”, nay tiêu chí tuyển dụng của họ là sinh viên tốt
nghiệp khá, giỏi kèm theo “tiêu chí” làm thêm trong quá trình học. Nếu được lựa chọn
giữa sinh viên giỏi và một sinh viên khá có khả năng thích ứng xã hội cao, chắc chắn,
doanh nghiệp sẽ lựa chọn trường hợp thứ hai”
3.3 Đánh giá chung
Từ những sự phân tích, đánh giá ở trên ta có thể rút ra được những mặt tích cực
cũng như tiêu cực mà việc làm thêm đem lại cho sinh viên, các tân cử nhân như sau:
Mặt tích cực:
Việc làm thêm giúp tăng thêm thu nhập
Kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc được nâng cao
Sinh viên có thể tăng kỹ năng giao tiếp, tác phong chững chạc hơn
Giúp sinh viên hạn chế được những thời gian vô ích
Có thể có thêm quan hệ mới tốt hơn
ít nhiều vận dụng được kiến thức đã học vào thực tiễn
Mặt tiêu cực:
Đôi khi sẽ bị mất thời gian dành cho học tập
(1) http://www.vietnamnet.vn, “Việc làm vẫn là mối quan tâm số một”, 17/03/2005, Ngọc Minh
Sức khoẻ có thể bị ảnh hưởng
Gặp phải sự lừa đảo
Từ những mặt tích cực, tiêu cực mà việc làm thêm đem lại cho sinh viên cũng
như từ sự dự báo xu hướng trong thời gian tới, chúng tôi thấy rằng để khuyến khích và
quản lý vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên thì nhà trường, xã hội, doanh nghiệp và
các tổ chức đoàn thể không thể không vào cuộc. Chúng tôi xin trình bày một số giải
pháp cho vấn đề nghiên cứu tại phần tiếp theo.
phần 4
Một số giải pháp nhằm khuyến khích và quản lý
việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay
4.1 Một số giải pháp nhằm khuyến khích và quản lý việc làm thêm đối với sinh
viên hiện nay
4.1.1 Nâng cao nhận thức tầm quan trọng của việc làm thêm trong các trường Đại
học và cộng đồng xã hội
Cơ sở của giải pháp:
Hiện nay có thể nói sinh viên đi làm thêm phần lớn mang tính chất tự phát, chưa
có sự trợ giúp, quản lý của nhà trường và cộng đồng xã hội. Các trường đại học mới chỉ
dừng ở việc khuyến khích sinh viên tham gia các hoạt động bề nổi như sinh viên tình
nguyện, giao lưu sinh viên doanh nghiệp… hay các hoạt động bề sâu là nghiên cứu
khoa học chứ chưa coi trọng vấn đề khuyến khích và quản lý việc làm thêm. Trong khi
đó vấn đề này giờ đây đang đóng vai trò khá quan trọng trong đời sống học tập và sinh
hoạt của đại bộ phận sinh viên các trường đại học.
Sinh viên đi làm thêm ngoài vì vấn đề thu nhập còn do họ cảm thấy bản thân
thiếu những kinh nghiệm, những kỹ năng có ích cho mình sau khi ra trường. Chính vì lý
do đó, khi nhà trường cũng như cộng đồng xã hội coi việc làm thêm là một khâu quan
trọng trong quá trình đào tạo bậc đại học thì chắc chắn sinh viên nói chung sẽ rất đồng
tình vì họ có thể vừa được học tập vừa được thực hành ngày càng nhiều hơn kiến thức
lý thuyết đã học.
Nội dung giải pháp:
- Nhà trường có thể liên kết với các tổ chức xã hội thành lập các mô hình như
trung tâm giới thiệu việc làm, trung tâm tư vấn ngay trong phạm vi trường đại học.
Ví dụ như tại một số trường Đại học hiện nay có thành lập Quỹ phát triển tài
năng sinh viên. Đây thực sự là mô hình hay và bổ ích cho sinh viên khi đang học tại
trường.
Hay như ở úc, hầu hết các trường đại học và cao đẳng đều có các trung tâm giới
thiệu việc làm cung cấp nhiều thông tin của các nhà tuyển dụng và có các chuyên viên
tư vấn việc làm để hỗ trợ sinh viên. Rất nhiều sinh viên đã tìm được việc làm thông qua
sự giới thiệu từ các trung tâm trong nhà trường.
- Nhà trường ngoài việc đánh giá năng lực sinh viên qua học tập, nghiên cứu
khoa học, hoạt động xã hội cũng nên có quy chế khuyến khích, hỗ trợ cho những sinh
viên đi làm thêm, có thể bằng hình thức cộng điểm, thưởng điểm nếu có những công
trình, đề án mang tính thực tiễn cao…
- Thành lập CLB Doanh nghiệp sinh viên, do sinh viên quản lý điều hành, hỗ trợ
sinh viên trong việc nghiên cứu, xây dựng những đề án kinh doanh, mời các doanh
nghiệp bên ngoài tham gia đóng góp ý tưởng và hỗ trợ về vốn cho hoạt động.
- Để quản lý sinh viên đi làm thêm, nhà trường có thể quy định những sinh viên
có điểm tổng kết học kỳ từ 6.0 trở lên mới được đi làm thêm, quy định số giờ làm thêm
tối đa trên 1 tuần, 1 tháng, 1 học kỳ….
Ví dụ như ở úc, du học sinh có thể làm việc bán thời gian (20 giờ/tuần) trong thời
gian học và toàn thời gian trong các kỳ nghỉ. Bên cạnh đó, với việc coi việc làm thêm là
một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, các khoá học cao đẳng hay các trường đại
học ở úc đều có liên hệ với những nơi thực tập cho sinh viên (đôi khi còn gọi là “Sắp
đặt công nghiệp” – industrial placement). Điều này sẽ mang lại cho sinh viên cơ hội có
thời gian kinh qua công việc kinh doanh thực sự. Sinh viên đăng ký học ngành y tá hoặc
chăm sóc trẻ có thể được sắp xếp vào làm tại những trung tâm chuyên về chăm sóc trẻ
em khoảng hai tuần mỗi lần. Những sinh viên đăng ký học ngành kinh tế hay thương
mại có thể được sắp xếp vào làm tại một công ty kế toán địa phương. Thời gian làm
việc hoặc thực tập trong khi học có thể được trả lương hoặc không theo chức vụ tại nơi
làm việc và thường được tính vào bằng cấp của sinh viên.
- Nhà trường cũng nên cân nhắc trong việc bổ sung một số môn học có tính thực
hành cao, tổ chức thi trắc nghiệm, thi vấn đáp để rèn luyện cho sinh viên những kỹ năng
phản ứng linh hoạt, có kiến thức tổng hợp.
Lợi ích của giải pháp:
Nhờ coi việc làm thêm là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, nhà
trường sẽ vừa trợ giúp, vừa có thể quản lý được sinh viên chặt chẽ hơn. Nhà trường sẽ
biết được nhiều hơn những nhu cầu về học tập và sinh hoạt của sinh viên để có sự sửa
đổi, bổ sung hợp lý về phương pháp giảng dạy và cũng như về công tác quản lý sinh
viên. Bên cạnh đó, nếu làm được điều này thì nhà trường và cộng đồng xã hội sẽ góp
phần không nhỏ trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên.
4.1.2 Tăng cường mối quan hệ giữa sinh viên - khoa - doanh nghiệp
Cơ sở của giải pháp:
Tính chất tự tìm việc làm thêm đối với sinh viên Việt Nam hiện nay có thể nói là
khá chủ động hơn so với những thời kỳ trước đây, tuy nhiên nếu mạnh dạn so sánh với
các nước trên thế giới thì sinh viên Việt Nam vẫn có những hạn chế trong vấn đề này.
Sinh viên do nhiều yếu tố khách quan như thiếu quan hệ, thiếu thông tin… nên rất khó
tìm được những công việc phù hợp với ngành học, với thời gian học, thậm chí đôi khi
còn gặp phải sự lừa đảo không đáng có. Để khắc phục tình trạng trên, nếu các khoa và
các thầy cô giáo, vốn có nhiều mối quan hệ và thông tin chính xác với những đơn vị bên
ngoài, chủ động cung cấp những thông tin, là cầu nối cho sinh viên trong vấn đề tìm
việc làm thêm thì đây sẽ là sự kết hợp rất hoàn hảo.
Nội dung giải pháp:
- Các khoa, các thầy cô giáo nên kết hợp với các doanh nghiệp trong việc đào
tạo, trau dồi kỹ năng cho sinh viên. Doanh nghiệp sẽ cung cấp những thông tin kinh tế,
tuyển dụng…, các khoa sẽ cung cấp nhân lực, tạo điều kiện cho những sinh viên có nhu
cầu, có khả năng được đi thực tế, làm việc không lương tại các doanh nghiệp.
- Các khoa, các thầy cô giáo có thể mời một người ngoài xã hội (một kỹ sư, bác
sĩ, kỹ thuật viên, nhà doanh nghiệp… chẳng hạn) lên lớp một bài về chuyên môn của họ
cho sinh viên. Đây là một việc rất thực tế và rất tốt cho sinh viên vì được tiếp cận những kinh nghiệm mà người được mời trao cho (1).
Lợi ích của giải pháp:
Các khoa, các thầy cô là cầu nối cho sinh viên trong vấn đề tìm việc làm thêm sẽ
giúp sinh viên tìm và tìm được những công việc thích hợp với chuyên môn, thời gian
học tập trên lớp…. Mối quan hệ tốt được xây dựng từ hai phía sẽ càng giúp cho khoa,
các thầy cô giáo có được niềm tin, sự nỗ lực phấn đấu của sinh viên để xây dựng khoa,
xây dựng trường ngày càng có chất lượng tốt hơn.
(1) Đây là kinh nghiệm được áp dụng phổ biến ở các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới
4.1.3 Tăng cường sự tham gia của các tổ chức đoàn thể
Cơ sở của giải pháp:
Nhắc đến các tổ chức đoàn thể trong các trường đại học, chúng ta đều có thể hình
dung ngay được đó chính là những cầu nối cho sinh viên trong việc thông tin đến nhà
trường; là sân chơi lành mạnh, bổ ích cho các bạn sinh viên về các hoạt động văn, thể,
mỹ. Những hoạt động bổ ích, thiết thực cho sinh viên thì không một tổ chức đoàn thể
nào không tham gia. Và đối với vấn đề việc làm thêm vốn dĩ rất gần gũi với cuộc sống,
học tập của sinh viên cũng vậy, các tổ chức đoàn thể cũng không thể đứng ngoài cuộc.
Với những tính chất rất tích cực như: gần gũi với sinh viên, là môi trường cho
sinh viên rèn luyện, có quan hệ tốt với các doanh nghiệp… thực tế các tổ chức Đoàn,
Hội ở các trường đại học hiện nay nói chung đã làm được rất nhiều cho sinh viên. Có
không ít trường đại học mà sinh viên ở đó thông qua các tổ chức Đoàn, Hội đã tìm được
việc làm thêm cho mình ngay khi còn đang học cũng như việc làm sau khi tốt nghiệp ra
trường.
Nội dung giải pháp:
- Đoàn, Hội nên tổ chức những Hội thảo về các chủ đề mang tính thời sự, tổ chức
các lớp học miễn phí cho sinh viên về các kỹ năng xin việc, làm việc sau tốt nghiệp…
- Tổ chức Hội chợ việc làm cho sinh viên trong và ngoài trường mỗi năm một
lần.
- Đoàn, Hội cũng nên tổ chức các chương trình giao lưu sinh viên – doanh
nghiệp, giao lưu cựu sinh viên đã thành đạt với sinh viên trường… Dưới đây xin nêu
một dẫn chứng điển hình.
Tại Diễn đàn “Hành trang sinh viên lập thân lập nghiệp” diễn ra vào đầu tháng
11/2004, có một thực tế mà hầu hết các đại biểu tham dự đều đồng ý với nhận định này: “Thất nghiệp sẽ giảm nếu Đoàn, Hội nhiệt tình vào cuộc” (1).
Liên quan đến vấn đề việc làm và mối lo thất nghiệp của nhiều bạn sinh viên,
Đoàn Thu Trang, sinh viên K42 tại một trường Đại học ở Hà Nội cho rằng, trong số 11
nghìn cử nhân được đào tạo hàng năm mà chỉ có xấp xỉ 50% tìm được việc làm (kể cả
những công việc không phù hợp với chuyên môn) thì quả đáng buồn. Tuy nhiên, vấn đề
(1) http://www.vietnamnet.Việt Nam, "Hành trang sinh viên lập thân lập nghiệp", 21/3/2005, 09:16 AM
là làm thế nào để vượt qua trở ngại đó. Trang dẫn ví dụ vai trò của tổ chức Đoàn, Hội ở
trường mình trong việc hỗ trợ, tìm kiếm việc làm cho sinh viên và cho biết: hàng năm,
có tới gần 100% sinh viên của trường tìm được việc làm nhờ được “tập huấn” qua các
chương trình “ý tưởng kinh doanh sáng tạo”, “Sinh viên tài năng”… do Đoàn trường
đứng ra tổ chức.
Tham gia các chương trình này, sinh viên sẽ được giao lưu, trao đổi với các
chuyên gia về kinh tế, những doanh nhân thành đạt, học hỏi kinh nghiệm cho công việc,
nắm rõ yêu cầu, tiêu chí của nhà tuyển dụng để có sự điều chỉnh bản thân về kiến thức,
kinh nghiệm thực tiễn trước lúc bắt đầu hành trình tìm việc.
Lợi ích của giải pháp:
Sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài trường sẽ không chỉ giúp
cho sinh viên có thêm nhiều kinh nghiệm, kỹ năng tốt mà còn tạo cho sinh viên những
sân chơi bổ ích sau những giờ học căng thẳng. Hoạt động bề nổi tốt sẽ bổ trợ thêm cho
sinh viên nhiều kiến thức có thể áp dụng được trong các hoạt động bề sâu.
4.1.4 Phát huy tính năng động và sáng tạo của sinh viên
Cơ sở của giải pháp:
Trong xu thế hội nhập và phát triển, từ kinh nghiệm của sinh viên quốc tế cũng
như từ chính những bài học của sinh viên Việt Nam cho thấy, tính năng động, sáng tạo
trong sinh viên đóng vai trò vô cùng quan trọng, có rất nhiều lợi ích cho chính bản thân
họ sau khi ra trường. Bên cạnh đó, rộng hơn hết là xã hội sẽ có những trí thức trẻ kế
thừa tốt, làm cho đất nước có một nguồn lực mạnh mẽ về con người, phát huy được
những năng lực nội sinh, đưa đất nước sánh ngang với tầm khu vực và quốc tế.
Nhà trường và các tổ chức đoàn thể dù có nỗ lực đến đâu, cố gắng đến đâu để
khuyến khích những việc làm thêm trong sinh viên thì cũng chỉ là từ một phía. Sinh
viên cần chủ động hơn, sáng tạo hơn nữa, chủ động áp dụng những kiến thức đã học vào
thực tế thông qua các hoạt động xã hội hay qua việc làm thêm mà mình có điều kiện
tham gia ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Sinh viên Việt Nam ngày nay do được tiếp xúc nhiều hơn với các luồng văn hoá,
kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới và khu vực nên đã có sự năng động, sáng
tạo trong cả học tập và lao động. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đã
đủ điều kiện để có thể hội nhập và phát triển tốt như các nước tiên tiến khác. Yếu tố
năng động sáng tạo trong cuộc sống sẽ không bao giờ có giới hạn, không bao giờ là đủ.
Chính vì thế, phát huy yếu tố năng động sáng tạo luôn là đòi hỏi cấp bách không chỉ
trong việc làm thêm mà trong tất cả những công việc khác, với tất cả mọi người trong
một quốc gia. Đặc biệt là với lực lượng thanh niên, sinh viên, những người chủ tương
lai của đất nước.
Nội dung giải pháp:
- Sinh viên cần chủ động trong việc tổ chức các hoạt động CLB, các hoạt động
sinh hoạt NCKH, các hoạt động vui chơi giải trí khác…
Ví dụ như tại các trường đại học hiện nay có rất nhiều các mô hình CLB do sinh
viên điều hành hoạt động như CLB Kinh tế mới, CLB Sinh viên NCKH, CLB Thơ…. ở
các câu lạc bộ này, sinh viên hoàn toàn chủ động trong việc tổ chức, xây dựng chương
trình sinh hoạt, tổ chức các cuộc thi kiến thức lý thuyết lẫn thực tế cho sinh viên. Kinh
phí cho các hoạt động này một phần do Nhà trường hỗ trợ, còn lại các bạn sinh viên đều
phải chủ động đi mời tài trợ từ các doanh nghiệp, các tổ chức bên ngoài. Thông qua
những hoạt động như thế, các bạn sinh viên sẽ tạo cho mình được những kỹ năng,
những kinh nghiệm rất thực tế mà không một giáo trình nào có thể đề cập đến.
- Sinh viên ngoài học tập tại trường có thể tham gia viết báo, gửi tin bài cho các
bản tin hay các báo trong và ngoài trường.
- Sinh viên có thể chủ động tổ chức buôn bán kinh doanh những mặt hàng bên
trong và ngoài trường, dưới sự cho phép của nhà trường và chính quyền sở tại.
Lợi ích của giải pháp:
Sinh viên phát huy được sự năng động sáng tạo thông qua những hoạt động học
tập cũng như hoạt động ngoại khoá sẽ không chỉ giúp cho bản thân thêm những kiến
thức mới, kinh nghiệm mới mà còn làm cho nhà trường, xã hội và rộng hơn là làm cho
đất nước có được một nguồn nhân lực mạnh mẽ, đủ điều kiện đáp ứng những thách thức
to lớn, tận dụng được những cơ hội mở rộng của xu thế hội nhập ngày nay.
4.2 Một số kiến nghị
4.2.1 Đối với nhà nước và xã hội
- Nhà nước và các địa phương nên khuyến khích và tạo điều kiện cho các đoàn
thể, tổ chức quần chúng, doanh nghiệp trong việc đào tạo nghề, hướng nghiệp cho đội
ngũ thanh niên, sinh viên.
- Nhà nước cần có sự đổi mới chương trình, hệ thống đào tạo, tiếp thu và áp dụng
những phương pháp đào tạo phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, con người Việt Nam.
Chú trọng các phương pháp phát huy tính sáng tạo, tự chủ trong học sinh, sinh viên và
các đối tượng khác.
- Nhà nước cần có sự quản lý sát sao hơn về vấn đề thành lập, tổ chức các
TTDVVL, tránh để cho người lao động, sinh viên bị lừa đảo khi đến xin việc qua các
trung tâm.
4.2.2 Đối với doanh nghiệp và các tổ chức khác
- Các doanh nghiệp và các tổ chức nên chủ động tìm đến nhà trường, cung cấp
các thông tin tuyển dụng, làm việc bán thời gian hay cộng tác viên…
- Với những sinh viên năm thứ ba và năm cuối, doanh nghiệp nên liên hệ với nhà
trường về số lượng sinh viên kiến tập, thực tập, phân bố, nội dung nghiên cứu…. Việc
làm này mang tính kế hoạch, định hướng cho sinh viên sẽ thiết thực hơn là để sinh viên
tự đi liên hệ.
Kết luận
Với mong muốn đưa ra một bức tranh cụ thể, chi tiết về "Vấn đề việc làm thêm
đối với sinh viên hiện nay", bước đầu chúng tôi đã phát phiếu điều tra với đối tượng
chính là các bạn sinh viên tại một trường Đại học trên địa bàn Hà Nội. Sau thời gian làm
việc nghiêm túc, khoa học chúng tôi đã hoàn thành công việc nghiên cứu.
Vấn đề việc làm thêm đối với sinh viên hiện nay nhìn từ khía cạnh những người
trong cuộc đã được rất nhiều ý kiến ủng hộ và đồng tình. Đa số các bạn sinh viên cho
rằng việc làm thêm có nhiều tác động tích cực. Hầu hết sinh viên đều rất muốn có cơ
hội để được đi làm bởi họ cho rằng đi làm thêm họ có thể cảm nhận được giá trị bản
thân, phát huy và vận dụng được vốn kiến thức sẵn có. Đồng thời bổ sung được kinh
nghiệm sống sau này. Sinh viên khi đi làm thêm được nhận những đồng tiền, những
thành quả từ chính công sức mình bỏ ra. Từ đó dần dần họ sẽ có được những cách nhìn
nhận đúng đắn hơn về giá trị thực sự của cuộc sống.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có không nhỏ lượng sinh viên
chưa thể đi làm vì những lý do mà có thể dễ dàng khắc phục được.