Xã hội học số 4 - 1985<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
VỀ TÌNH HÌNH SINH ĐẺ<br />
CỦA CÁC DÂN TỘC CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC<br />
<br />
KHỔNG DIỄN<br />
Viện dân tộc học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
M<br />
ột trong những nhiệm vụ cơ bản của Dân tộc học – địa lý là Dân số học tộc người. Nó<br />
nghiên cứu sự gia tăng về mặt số lượng các dân tộc, kết hợp phân tích số lượng với chất<br />
lượng trong các hiện tượng xã hội với các quá trình xã hội. Sự gia tăng về số lượng của<br />
các dân tộc được xác định bằng các yếu tố như: di chuyển tự nhiên của dân cư và toàn bộ phức hợp<br />
những chỉ số có liên quan tới nó (hệ số hôn nhân, tỷ lệ sinh, tử, hệ số mắn đẻ, v.v.); các quá trình di<br />
chuyển nhân khẩu, các quá trình tộc người (cố kết tộc người, đồng hóa tự nhiên, v.v.). Sự biến động<br />
của dân cư trước hết được biểu hiện bằng chỉ số sinh và tử. Hiệu số của nó đóng vai trò cơ bản trong<br />
việc gia tăng dân số các dân tộc. Trong các dân tộc, tỷ lệ sinh thường gắn liền với thái độ cổ truyền đối<br />
với hôn nhân và tuổi kết hôn, với truyền thống muốn có đông con và các hạn chế khác.<br />
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ trình bày hạn chế ở khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc, đồng thời<br />
có dẫn một vài số liệu có tính chất chung hoặc ở khu vực khác để đối chiếu so sánh.<br />
Số dân Việt Nam thời vua Tự Đức (1847-1883) khoảng hơn 7 triệu người năm 1921 khoảng trên 15<br />
triệu. Như vậy trong vòng 1/2 thế kỷ số dân đã tăng lên gấp đôi trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị,<br />
vào khoảng năm 1931 tỷ lệ sinh của vùng trung tâm Bắc Bộ là 3,78%. Theo Gourou thì tỷ lệ này hãy<br />
còn là thấp so với thực tế(?). Sau năm 1951 do đời sống của nhân dân được nâng cao nên khả năng<br />
sinh đẻ tăng nhiêu. Chẳng hạn ở Hà Nội năm 1955 là 2,44%. Những năm sau đó tình hình sinh ở miền<br />
Bắc tiếp tục phát triển ngày một cao. Số liệu điều tra điển hình ở toàn miền Bắc trong ba năm 1957,<br />
1959 và 1960 cho thấy như sau:<br />
Bảng 1:<br />
1957 1959 1969 Tỷ lệ trung bình<br />
- Toàn miền Bắc 4,67 4,49 4,61 4,6<br />
+ Thành thị 5,53 4,54 4,26 4,8<br />
Trong đó miền núi - 4,58 4,18 4,4<br />
+ Nông thôn 4,65 4,49 4,62 4,5<br />
Trong đó miền núi 4,11 4,24 4,62 4,3<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4 - 1985<br />
<br />
50 KHỔNG DIỄN<br />
<br />
Theo các tài liệu ước tính thì năm 1959 có chừng 695.000 trẻ và năm 1960 có khoảng 742.000 trẻ<br />
ra đời. Nếu đối chiếu giữa số trẻ sinh ra với số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 18 đến 45 (kể cả chưa<br />
chồng và góa chồng) thì trong hai năm này cứ 4 phụ nữ có một trẻ được sinh ra. Nói cách khác, trung<br />
bình một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cứ 4 năm sinh một lần. Như vậy bình quân một phụ nữ trong độ<br />
tuổi sinh đẻ sinh rói 7 lần. Rõ ràng con số đó là quá nhiều. Để đảm bảo sức khỏe cho chị em và các trẻ<br />
nhỏ, nhà nước phải có chính sách về dân số.<br />
Năm 1963, các biện pháp khuyến khích sinh đẻ có kế hoạch được áp dụng nhưng do không triệt để,<br />
việc thực hiện không đến nơi đến chốn, nhất là đối với miền núi hầu như vấn đề chưa được đặt ra, vì<br />
vậy tỷ lệ sinh đẻ vẫn rất cao. Ví dụ năm 1963 tỷ lệ sinh toàn miền Bắc là 4,11%, trong đó thành thị là<br />
4,66%, nông thôn là 4,10% trong nông thôn miền núi là 4,22% (miền núi thấp 4,24%, vùng cao<br />
4,08%). Qua số liệu thống kê về tình hình trẻ em sinh ra theo độ tuổi của người mẹ năm 1963, thấy<br />
rằng phụ nữ sinh đẻ tập trung vào độ tuổi từ 20 đến 29 tuổi. Nhưng số người đẻ quá sớm (dưới 19 tuổi)<br />
và quá muộn (trên 50 tuổi) vẫn còn chiến một tỷ trọng đáng kể.<br />
Những năm sau đó tốc độ sinh đẻ trong nhân dân có giảm xuống đôi chút. Chẳng hạn tỷ lệ sinh<br />
năm 1965 là 3,77%, đến năm 1979 lâu 3,12%. Nếu so sánh giữa các vùng trong cả nước thì tỷ lệ sinh ở<br />
các tỉnh miền núi phía Bắc thuộc loại tương đối cao (3 430%), chỉ kém hai vùng là Tây Nam Bộ<br />
(3,55%) và Tây Nguyên (3,83%). Có những tỉnh, tỷ lệ sinh trong nhân dân tuy có những bước thăng<br />
trầm khác nhau, nhưng cũng đã có xu hướng giảm đi rõ rệt. Chẳng hạn ở Hà Tuyên từ 3,55% năm<br />
1975 xuống 2,85% năm 1980. Họ phấn đấu đến năm 1985 chỉ còn 2%, tuy còn cao hơn mức phấn đấu<br />
của cả nước theo tinh thần Nghị quyết đại hội V là 0,3%. Song đó cũng là một quyết tâm lớn của cán<br />
bộ và nhân dân địa phương. Trong khi đó tỷ lệ sinh của Hoàng Liên Sơn năm 1983 vẫn còn ở con số<br />
3,8%. Chúng ta hãy xem xét tình hình sinh ở hai khu vực: Việt Bắc và Tây Bắc, cụ thể là hai tỉnh:<br />
Lạng Sơn (Việt Bắc) và Sơn La (Tây Bắc) cho thấy, trong những năm gần đây, năm có tỷ lệ sinh cao<br />
nhất của Lạng Sơn cũng chỉ là 3,39% còn trung bình là 3,14%, thì ở Sơn La năm cao nhất là 3,50%<br />
còn trung bình và 3,39%, bằng năm cao nhất của Lạng Sơn.<br />
Ví dụ khác, so sánh giữa hai tỉnh: Quảng Ninh (Đông Bắc) và Lai Châu (Tây Bắc) từ 1979 đến<br />
1982 sẽ thấy rằng năm có tỷ lệ sinh cao nhất của Quảng Ninh là 2,94% chưa bằng năm có tỷ lệ sinh<br />
nhất của Lai Châu.<br />
Bảng 2<br />
Năm Quảng Ninh Lai Châu<br />
1979 2,75 3,81<br />
1980 2,94 3,21<br />
1981 2,67 3,11<br />
1982 2,29 4,06<br />
<br />
Rõ ràng trong những năm gần đây. Ở khu vực Tây Bắc có tỷ lệ sinh rất cao, là một khu vực có tỷ lệ<br />
sinh cao nhất của cả nước.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4 - 1985<br />
<br />
Về tình hình… 51<br />
<br />
Nếu so sánh giữa các dân tộc, ta thấy tỷ lệ sinh theo thứ tự từ cao xuống thấp như sau: Sán dìu, Lư,<br />
Thái, Tày, Dao, Kinh, mường, v.v. 1 .<br />
Số liệu các cuộc điều tra dân tộc xã hội học ở các tỉnh Bắc Thái, Lạng Sơn (năm 1980, 1981), Hà<br />
Sơn Bình, Sơn La (1982) phần nào cũng phản ánh tình hình thực tế đó.<br />
Trả lời câu hỏi “Đồng chí hoặc vợ đồng chí đã đẻ tất cả mấy lần” ở các dân tộc kinh, Tày, Nùng,<br />
Thái, Mường được thể hiện như sau:<br />
Bảng 3. TỶ LỆ VỚI NGƯỜI ĐƯỢC HỎI (%)<br />
Số lần Kinh Tày Nùng Thái Mường<br />
1–2 20,0 17,0 18,2 24,3 23,8<br />
3–4 20,0 23,9 20,2 16,4 32,0<br />
5–6 18,5 23,6 24,9 19,9 22,0<br />
7–8 20,4 17,8 17,4 19,7 17,4<br />
9 – 10 14,5 12,7 12,6 13,5 2,5<br />
11 trở lên 6,5 5,0 6,7 7,0 2,2<br />
Một trong những nguyên nhân tuy không cơ bản dẫn đến tình trạng sinh đẻ là nhiều là do nam nữ<br />
lấy vợ lấy chồng khá sớm. Chẳng hạn, so với số người được hỏi, có 10,5% ở người Kinh, 7,7% ở<br />
người Tày, 13% ở người Nùng, 4,4% ở người Thái và 8,5% ở người Mường là đã lấy vợ lấy chồng<br />
dưới tuổi 77. Trong tương lai, tuổi kết hôn của nam nữ thanh niên chắc sẽ được nâng lên qua kết quả<br />
thăm dò nguyện vọng của đồng bào (bảng 4 và 5).<br />
Bảng 4. CON TRAI NÊN LẤY VỢ LÚC BAO NHIÊU TUỔI (% SỐ NGƯỜI ĐƯỢC HỎI)<br />
Tuổi Kinh Tày Nùng<br />
17 – 18 3,2 5,6 5,3<br />
19 – 20 36,0 60,6 67,4<br />
21 – 22 15,8 9,5 9,1<br />
24 – 24 7,4 4,6 2,5<br />
25 trở lên 37,1 19,3 15,1<br />
Bảng 5. CON GÁI NÊN LẤY CHỒNG LÚC BAO NHIêU TUỔI (%)<br />
Tuổi Kinh Tày Nùng<br />
17 – 18 35,9 60,0 55,3<br />
19 – 20 47,1 30,2 36,0<br />
21 – 22 11,6 4,3 4,0<br />
24 – 24 3,4 2,9 0,9<br />
25 trở lên 1,5 1,6 3,4<br />
<br />
<br />
<br />
1. Từ năm 1976 đến 1979 tỷ lệ tăng dân số ở các dân tộc như sau: Sán dìu 13,7%, Lự Thái 13%, Tày 12%,<br />
Dao 11,4%, Kinh 10,8% và Mường 7,3%.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4 - 1985<br />
<br />
52 KHỔNG DIỄN<br />
<br />
Một nguyên nhân khác là do đời sống còn khó khăn, xã hội chưa thể đảm bảo được đầy đủ cho<br />
cuộc sống của lớp người già nên người ta cũng cần có số con nhất định để làm chỗ dựa, chăm sóc lúc<br />
tuổi già. Trong khi đó do tập quán còn nặng nề, công tác vệ sinh phòng bệnh cũng như các cơ sở y tế,<br />
thuốc men chưa đầy đủ nên tình trạng chết còn chiếm một tỷ lệ đáng kể, nhất là đối với trẻ sơ sinh.<br />
Vậy là sinh nhiều, dẫn đến khó khăn nên chết nhiều và do đó, lại phải sinh nhiều.<br />
Tuy vậy chúng ta có thể hy vọng trong thời gian tới tỷ lệ sinh vong nhân dân các dân tộc miền núi<br />
các tỉnh phía Bắc sẽ có xu hướng giảm dần, qua kết quả của việc thăm dò nguyện vọng số con của mỗi<br />
gia đình (bảng 6).<br />
<br />
Bảng 6: MỖI GIA ĐÌNH NÊN CÓ MẤY CON (% SỐ NGƯỜI ĐƯỢC HỎI)<br />
Số con Kinh Tày Nùng Thái Mường<br />
<br />
1 0,2 - 0,2 - 0,6<br />
2 4,4 4,3 4,0 1,0 2,2<br />
3 14,8 15,9 16,3 2,8 22,0<br />
4 57,1 50,7 41,1 37,7 37,1<br />
5–6 20,5 22,8 28,0 40,3 30,9<br />
7–9 2,5 4,5 7,6 17,4 5,1<br />
<br />
<br />
Song cần phải có sự vận động, cần có sự hỗ trợ đồng bộ của các ngành, các cấp vào vấn đề kế<br />
hoạch hóa gia đình. Nếu không tăng dân số ở miền núi một cách không có kế hoạch và không có nền<br />
kinh tế tăng theo thì sẽ đẻ ra nhiều bất hợp lý khác chẳng hạn dẫn tới tình trạng phá rừng vô tội vạ, hủy<br />
hoại môi trường sống. Rừng bị tàn phá, đất bị sói mòn, không những ảnh hưởng đến môi trường sinh<br />
thái ở vùng núi mà ngay ca miền núi cũng bị thiên nhiên trực tiếp trả thù. Ví như Lạng Sơn gần dây có<br />
tới 5-6 hồ chức nước mà nước không có.<br />
Ta lấy con số 2,8% là tỷ lệ tăng dân số trong hình hàng năm (từ 1976 đến 1980) của các tỉnh miền<br />
núi phía Bắc, cộng thêm các yếu tố tăng khác sẽ có khoảng 7 vạn nhân khẩu, là số tăng của năm 1980<br />
so với năm 1976. Trong khi đó kinh tế không nhích được bao nhiêu. Về chăn nuôi, 5 năm này ở đây số<br />
lượng bò có tăng chút ít (trên 2.000 con) thì trâu giảm đi 2 vạn con, lợn giảm trên 6 vạn con. Về trồng<br />
trọt: năng suất cây trồng giảm, diện tích được mở rộng chút ít do phá rừng khai hoang, các thế mạnh<br />
không được phát huy, sản lượng lương thực bình quân đầu người giảm (1978 là 234kg%/người, 1980<br />
là 228kg/người), về lúa cũng vậy (1978 là 148kg/người, 1980 là 147 kg/người). Riêng Lạng Sơn, trong<br />
vòng 20 năm (1960 - 1980) giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng chỉ bằng 23,8 % so với tốc độ tăng<br />
dân số. Hoặc ở Lai Châu, 1978 tỷ lệ sinh của toàn tỉnh là 3,66%, nghĩa là trong năm có trên một vạn<br />
trẻ ra đời, trừ đi số người chết là 2.000 người, vậy còn gần 9.000 người (chưa kể sự di chuyển dân<br />
miền xuôi lên trong khi có năng suất lao động giảm đi 20,6 tạ/ha 1977 xuống còn 20,06 tạ/ha 1978, số<br />
trường và lớp học phổ thông giảm (giảm 33 trường, 10 lớp), số giường bệnh chỉ tăng được 6 cái. Vậy<br />
làm sao đảm bảo việc nâng cao được mức sống nhân dân? Làm sao đảm bảo được sức khỏe cho đông<br />
bào, đảm bảo được học hành cho lớp trẻ nếu cứ để tình trạng này kéo dài?<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4 - 1985<br />
<br />
Vì vậy ngoài những biện pháp như thâm canh, tăng vụ, áp dụng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật<br />
vào sản xuất phát triển giao thông vận tải, v.v… vấn đề phải được đặt lên hàng đầu là vấn đề kế hoạch<br />
hóa gia đình.<br />
Làm thế nào để mỗi vùng dân tộc và mỗi thành phần dân tộc có một mức độ dân số (cả số lượng và<br />
chất lượng) thích hợp nhất cho việc phát triển nhanh chóng cả về kinh tế, xã hội, nhanh chóng đưa<br />
đồng bào cùng với toàn thể các dân tộc trên đất nước tiến vào chủ nghĩa xã hội với một trình độ vật<br />
chất văn hóa ngang nhau. Đó là một sự cân nhắc và tính toán rất khoa học của Ủy ban kế hoạch Nhà<br />
nước, của mỗi địa phương và mỗi gia đình.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />