
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Tình hình thực hiện.
Nền kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đang từng bước chuyển
biến tích cực, có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật tăng lên đáng kể, những tỉnh
trong vùng đều thuộc vào loại có tiềm năng về kinh tế và lao động. Do đó, tất cả
các tỉnh đều có mức tăng trưởng kinh tế nhanh và dự kiến tốc độ tăng trưởng cao
cho thời kỳ đến năm 2010. Nhìn chung trong những năm qua, vùng kinh tế trọng
điểm Bắc bộ đã phát triển khá toàn diện, duy trì được mức tăng trưởng tương đối
cao, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1. Những kết quả đạt được:
Những thành tựu cơ bản của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ thể hiện ở các nội
dung sau đây:
(1) Dân số và mật độ dân số của vùng
Bảng 1: Dân số và mật độ dân số
2000
2001
2002
2003
Dân s
ố (ngh
ìn ng
ư
ời)
8193,2
8344,5
8483,7
8591,3
M
ật độ dân số (Ng
ư
ời/km
2
)
750,9
764,6
777
789,3
(2) Các tỉnh trong vùng đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với
mức bình quân cả nước.

Thời kỳ 1996 - 2002 tốc độ tăng trưởng bình quân của vùng kinh tế trọng điểm Bắc
bộ đạt khoảng 8,8% (gấp 1,26 lần so với mức tăng trung bình của cả nước là 7%);
Trong đó giá trị gia tăng của công nghiệp đạt khoảng 11,4% (giá trị sản xuất tăng
15%/năm); nông nghiệp khoảng 3%/năm (giá trị sản xuất 4,5%/năm) và ngành
dịch vụ khoảng 9%/năm.
Giai đoạn 2001 - 2003 theo ước tính của các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 8,7%. Năm 2002, GDP bình quân đầu người
của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ gấp khoảng 1,18 lần mức bình quân của cả
nước (7,96/6,7 triệu đồng). Đời sống nhân dân trong vùng được cải thiện (nămn
(năm 2002 so với năm 1995: GDP/người gấp 2,4 lần; KWh/người gấp 3,6 lần; tỷ lệ
hộ đói nghèo giảm được 3,3%,…).
(3) Cơ cấu kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đã có sự chuyển dịch tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá góp phần lôi kéo sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của vùng đồng bằng sông Hồng. Trong thời kỳ 1995 - 2002 tỷ trọng các
ngành phi nông nghiệp tăng thêm được 4,46 điểm, tương ứng tỷ trọng nông lâm
giảm được 4,46 điểm (nông, lâm, thủy sản giảm từ 15,42% xuống 10,96%; công
nghiệp - xây dựng tăng từ 30,46% lên 41,67%; và dịch vụ giảm từ 54,12% xuống
47,37%,
Lực lượng lao động của vùng có chất lượng khá hơn so với các vùng khác (năm
2001, tỷ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 9,1% là mức cao nhất
trong cả nước; tỷ lệ lao động có chuyên môn nghề nghiệp chiếm khoảng 30%),
đang đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lao động xã hội
đã có chuyển biến rõ rệt (thời kỳ 1991 - 2002, tỷ trọng lao động nông, lâm, thuỷ
sản đã giảm từ khoảng trên 72% xuống khoảng 56%; tỷ trọng lao động công
nghiệp và xây dựng tăng từ khoảng 11,5% lên khoảng 16,6%; lao động dịch vụ
tăng nhanh, tỷ trọng tăng từ 16,5% lên khoảng 27,6%).

- Công nghiệp phát triển khá nhanh, trong 3 năm (2001 - 2003), giá trị gia tăng đạt
mức tăng bình quân khoảng 12%; cơ cấu sản phẩm đã có những chuyển dịch tích
cực (ngoài những sản phẩm công nghiệp truyền thống được củng cố và tăng liên
tục (năm 2002 so với năm 1995 sản xuất động cơ gấp khoảng 3 lần, sản xuất thép
gấp khoảng 8 lần, xi măng gấp 1,1 lần, than gấp 1,5 lần, sơn các loại gấp 2 lần, sản
xuất điện thoại tăng gần 3 lần,...), đã xuất hiện một số mặt hàng mới như lắp ráp ô
tô, lắp ráp máy tính, công nghiệp phần mềm, vật liệu trang trí nội thất... (năm 2002
so với năm 1995 lắp ráp ô tô tăng khoảng 3 lần, sản phẩm công nghiệp phần mềm
gấp vài chục lần, sản phẩm sành sứ nội thất gấp khoảng 4 lần,…).
Đến hết năm 2002, vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ có 11 khu công nghiệp được
thành lập (chiếm khoảng 15% so với cả nước), với tổng diện tích khoảng 1704 ha
(chiếm 11,3% so với cả nước). Các khu công nghiệp có doanh thu khoảng 200
triệu USD (chiếm khoảng 13% so với cả nước) và thu hút 15.300 lao động (chiếm
5% so với cả nước). Là một trong 2 vùng có khu công nghệ cao và công nghiệp sản
xuất phần mềm.
Công nghiệp nông thôn ở nhiều nơi phát triển mạnh, đặc biệt là các làng nghề có
khởi sắc mới. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ có trên 400 làng nghề, chiếm gần
1/3 số làng nghề của cả nước.
Theo số liệu thống kê; năm 2002, vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ có khoảng 15
vạn doanh nghiệp công nghiệp, chiếm 23% số doanh nghiệp công nghiệp cả nước,
riêng số doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng
15,8% cả nước và tạo ra 13,8% giá trị gia tăng công nghiệp và xây dựng của cả
nước.
- Nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có sự chuyển đổi mạnh về cơ cấu sản xuất
cây trồng, mùa vụ, vật nuôi theo hướng hiệu quả, tăng thu nhập trên một đơn vị
diện tích đất nông nghịêp. Nông sản hàng hoá có bước phát triển khá, xuất hiện

nhiều mô hình phát triển trang trại có thu nhập cao (khoảng 50 triệu đồng/ha).
Ngoài việc đảm bảo an ninh lương thực; việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn
quả, rau, hoa, cây cảnh, nuôi trồng thuỷ sản đã có bước tiến bộ đáng kể (khoảng 4
nghìn ha trồng lúa năng suất thấp đã chuyển sang trồng cây ăn quả và 6 nghìn ha
lúa bấp bênh do úng ngập chuyển sang nuôi trồng thủy sản, khu vực gần thành phố
đã xuất hiện nghề nuôi bò sữa,...).
- Các loại hình dịch vụ phát triển đa dạng và có nhiều lĩnh vực phát triển khá như
thương mại; dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch, khách sạn, nhà hàng;
dịch vụ tài chính, tiền tệ, ngân hàng, tư vấn,…
(4) Mức đóng góp vào thành quả chung của cả nước của vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ tiếp tục tăng
Năm 2002, so với cả nước, vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ chiếm khoảng 19,4%
về GDP; 21,66% về thu ngân sách; 19,58% về kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời nếu
so với năm 1995, tỷ trọng của nhiều chỉ tiêu tổng hợp (về GDP, giá trị gia tăng
công nghiệp, giá trị gia tăng nông nghiệp, giá trị gia tăng dịch vụ,..) của vùng kinh
tế trọng điểm Bắc bộ tăng hơn được khoảng 1 - 1,5%.
(5) Kết cấu hạ tầng được cải thiện đáng kể, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn (trong thời kỳ 1995 - 2002
chiếm khoảng 43,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) đã tập trung vào một số công
trình then chốt, tạo ra những điều kiện thuận lợi khai thác tiềm năng của vùng
.Thời kỳ 1996 - 2002, đầu tư toàn xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ ước
đạt khoảng 120 nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành), bằng khoảng 20% đầu tư toàn
xã hội của cả nước; trong đó vốn Nhà nước chiếm khoảng 63%, vốn FDI chiếm
khoảng 22% và vốn của dân chiếm khoảng 15%.

- Đầu tư bước đầu tạo được tiềm lực cho phát triển lâu dài và đang hình thành được
các khâu đột phá.
- Về hệ thống đường bộ: quốc lộ 1A là tuyến chiến lược quan trọng đã hoàn thành
việc khôi phục, cải tạo nâng cấp từ Lạng Sơn về Hà Nội đi Ninh Bình đến Thanh
Hoá, đạt tiêu chuẩn cấp III; quốc lộ 18, từ Bắc Ninh đi Bãi Cháy đã hoàn thành cơ
bản việc nâng cấp đạt tiêu chuẩn cấp III. Đoạn Bãi Cháy - Mông Dương - Móng
Cái đang triển khai nâng cấp đạt tiêu chuẩn cấp IV; việc nâng cấp quốc lộ 10 hoàn
thành; đường Láng - Hoà Lạc hoàn thành giai đoạn I đạt tiêu chuẩn cấp I. Đã xây
dựng mới các cầu như cầu Bình, Triều Dương, Tân Đệ, Tiên Cựu; đang xây dựng
cầu Yên Lệnh, Thanh Trì, Bãi Cháy...; Các quốc lộ khác như 2B, 38, 39, 183, 12B,
21, 21B và 23 cũng được cải tạo.
Giao thông nông thôn được phát triển khá mạnh (cải tạo khoảng 300 km, làm mới
khoảng 150 km).
- Về hệ thống các sân bay: trong vùng có 3 sân bay hiện đang khai thác là sân bay
quốc tế Nội Bài, sân bay Cát Bi và sân bay Gia Lâm.
Sân bay Nội Bài đã được đầu tư đạt công suất 4 triệu hành khách/năm, có điều kiện
mở rộng để đạt 6 triệu hành khách/năm.
Sân bay Cát Bi đang là sân bay nội địa hiện đảm nhận vai trò dự bị cho sân bay
Nội Bài; dự kiến sẽ kéo dài đường hạ - cất cánh đạt khoảng 2800 mét dài, mở rộng
nhà ga từ 4000 m2 lên 6000 m2; quy hoạch mở thêm đường bay khu vực và hướng
tới xây dựng Cát Bi thành sân bay quốc tế.
Sân bay Gia Lâm chủ yếu phục vụ quân sự và dịch vụ trực thăng
- Về hệ thống cảng biển: đã mở rộng cảng Hải Phòng, đến năm 2002 thực tế hàng
hoá thông qua cảng đã đạt 11,4 triệu tấn; cảng Cái Lân hiện đầu tư giai đoạn I đạt
1,1 triệu tấn. Đã hình thành đội tầu biển có tổng trọng tải trên 50 vạn DWT, thực