Xã hội hóa và truyền thông đại chúng.

Chức năng cơ bản của các phương tiện truyền thông đại

chúng là cung cấp thông tin cho quảng đại công chúng. Việc

xuất bản báo chí có xu hướng gắn liền với chỉ báo vòng đời là

một cách làm tốt để tăng cường khả năng giao tiếp đại chúng

của công chúng. Tuổi nhi đồng có báo Họa mi, lớn hơn thì đọc

báo Thiếu niên tiền phong. Công chúng thanh niên hướng đến

báo Tiền phong. Khi về già có báo Người cao tuổi. Khả năng

phổ quát của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với

công chúng được nối dài bởi sự lan tỏa của hệ thống kênh

truyền, đặc biệt là hệ thống phương tiện được thiết kế bằng công

nghệ điện tử. Trong chuỗi các tác nhân xã hội hóa thì truyền

thông đại chúng mặc dù ra đời muộn hơn rất nhiều so với các

thiết chế xã hội khác như gia đình, trường học, nhà thờ, nhưng

lại sớm tỏ rõ sự tác động đối với xã hội hóa từ khả năng tạo nên

các “bản đúc xã hội” của công chúng.

Các nhà nghiên cứu nhận định rằng: vào cuối thập niên 80 của

thế kỷ trước, truyền thông đại chúng, bao gồm truyền thanh,

phim, báo in, nhạc thu âm, truyền hình đã trở thành những tác

nhân quan trọng đối với xã hội hóa, đặc biệt là truyền hình.

Trong khoảng mười năm trở lại đây có sự xuất hiện của Internet.

Một nghiên cứu ở Mỹ cho biết, 32% trẻ em dưới 7 tuổi tại nước

này có ti vi riêng. Ở độ tuổi từ 12 đến 18, con số đó là 53%.

Tình trạng ấy đã khiến Viện Hàn lâm Giáo dục Mỹ đưa ra lời

khuyến cáo: các bậc cha mẹ không nên cho trẻ em dưới 2 tuổi

xem ti vi. Các bậc cha mẹ cũng nên tránh sử dụng những “người

giữ trẻ điện tử”. Mặc dù vậy, người ta không thể phủ nhận vai

trò tích cực của ti vi nói riêng và phương tiện truyền thông đại

chúng nói chung đối với xã hội hóa. Hệ thống truyền thông đại

chúng đã tham gia thực sự tích cực vào việc quảng bá các phong

cách sống phù hợp với những chuẩn mực xã hội, những khuôn

mẫu hành vi.

Các thông điệp quảng cáo ‘Muốn tránh bướu cổ thì hãy dùng

muối iốt” “Hãy tránh xa HIV bằng cách không tiêm chích ma

túy, không dùng chung bơm kim tiêm” được công chúng tiếp

nhận vì nó có khả năng tạo nên sự liên kết xã hội bằng cách đưa

ra một cách nhìn phổ biến mang tính chuẩn hóa về văn hóa. Các

thông điệp này tạo dựng những khuôn mẫu hành vi và điều

chỉnh các kiểu hành vi lệch chuẩn trở về hợp chuẩn với các giá

trị văn hóa. Cần nhận thức rõ điều ấy vì thông tin nói chung và

thông tin trên truyền thông đại chúng nói riêng chưa phải là tri

thức và tri thức cũng chưa phải là văn hóa. Văn hóa chỉ hình

thành trên cơ sở cá nhân học hỏi được cách sống của xã hội và

giao tiếp đại chúng là một con đường để công chúng tiếp nhận

trao truyền văn hóa. sự

Việc quan sát các thông điệp được truyền trên các phương tiện

truyền thông đại chúng cho thấy các thiết chế truyền thông đại

chúng đặc biệt coi trọng việc xây dựng các vai trò xã hội của

con người vì vai trò xã hội là mục tiêu của xã hội hóa. Cùng với

hoạt động giáo dục nghề nghiệp diễn ra chính thức ở tác nhân

trường học, báo chí đã dành các chuyên trang, chuyên mục cho

các vấn đề ấy. Trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại

chúng, có nhiều kênh cung cấp các thông điệp liên quan đến vai

trò xã hội của cá nhân như các website: Tư vấn du học, Mạng

giáo dục, Báo Kinh tế nông thôn, Báo Kinh tế đô thị, Tạp chí

Gia đình và Xã hội… Các kênh thông tin đó không chỉ là nơi

cung cấp thông điệp, mà còn là diễn đàn của công chúng truyền

thông, để họ chia sẻ các vấn đề tạo nên mối quan tâm chung, gắn

với nhu cầu hoàn thiện các vai trò xã hội.

Đến nay, Việt Nam đã chính thức hòa mạng Internet được 14

năm. Số liệu tính tới tháng 10 năm 2010 của Trung tâm quản lý

Internet Việt Nam (VNNIC) cho biết gần 30% dân số Việt Nam

sử dụng Internet, tỷ lệ này tương đương trên 25 triệu người sử

dụng. Nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Quý Thanh về Internet -

sinh viên - lối sống cho thấy: “Việc truy cập internet là hoạt

động rất phổ biến ở sinh viên hiện nay. Có tới 93% số được hỏi

cho biết có sử dụng internet, trong đó 42,2% số sinh viên truy

cập “vài ngày một lần”và 36,9% sinh viên sử dụng “vài lần

trong tháng”. Như vậy, sinh viên truy cập mức độ khá thường

xuyên chiếm tới 56,7%. Nghiên cứu nói trên cũng chỉ rõ: tác

động của internet đối với hoạt động sống của sinh viên là rất

đáng kể, có 65,6% số người được hỏi nói rằng họ truy cập

internet với mục đích “tìm thông tin phục vụ bài học”, với mục

đích “đọc báo, truyện” tỷ lệ là 45,1%, cũng có 10,5% số người

được hỏi cho biết họ truy cập internet để “tìm việc làm”.

Những lo ngại về các lệch lạc xã hội từ các phương tiện truyền

thông đại chúng là có lý do thực tế. Một thời, ở Mỹ, người ta coi

TV là kẻ nối giáo cho nhạc Rốc và dấy lên một phong trào mạnh

mẽ phản đối nhạc Rốc, coi dòng nhạc này như là nguyên nhân

của sự chung chạ bừa bãi, sự lạm dụng phụ nữ và nạn sử dụng

ma túy. Gần đây, các thông điệp về những người đẹp trong làng

giải trí Hàn Quốc tự tử được phát tán trên mạng cho thấy hành vi

tự tử ở họ mang dấu hiệu như một hội chứng và có khả năng lây

lan. Báo chí đã không làm được điều cần thiết là chỉ ra các mối

dây ràng buộc xã hội đối với những người có ý định tự sát. Điều

ấy có nghĩa là hành vi tự sát từ nguyên nhân vị kỷ - theo sự phân

loại của E. Durkheim ( 1858-1917) - đã không được các thông

điệp của báo chí ngăn chặn có hiệu quả. Việc quan sát chỉ báo

nhận diện địa chỉ tác giả cho thấy có tờ báo nhân danh phê phán

nạn mại dâm, nhưng lại chỉ ra các địa chỉ đen.

Định hướng xã hội là đặc trưng cơ bản của truyền thông đại

chúng. Đặc trưng này càng được quảng bá rộng rãi thì khả năng

ảnh hưởng từ các lệch lạc xã hội qua các con đường không chính

thức càng hạn chế. Ở đây, tính trung thực của thông tin có ý

nghĩa quyết định. Trung thực tạo nên niềm tin. Niềm tin có khả

năng liên kết các giá trị và chuẩn mực. Niềm tin tạo nên tâm thế,

từ đó tác động đến nhận thức và hành vi của cá nhân, tạo lập tri

thức, văn hóa và định hướng hoạt động. Các chương trình

Duyên dáng Việt Nam, Hiến máu nhân đạo, được công chúng

báo chí hưởng ứng là vì vậy. Đó là cách để báo chí thực sự trở

thành tác nhân quan trọng đối với xã hội hóa cá nhân trong xã

hội hiện đại, để cá nhân tăng cường khả năng học hỏi cách sống

của xã hội nhằm hòa nhập vào đời sống cộng đồng, quốc gia và

quốc tế.