
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG HÀ NỘI
Phạm Tri Thức
NGHIÊN CỨU XỬ LÝ BÙN NẠO VÉT TỪ MỘT SỐ SÔNG,
HỒ TRONG THÀNH PHỐ HÀ NỘI THÀNH VẬT LIỆU
DẠNG RỜI DÙNG CHO CÔNG TÁC ĐẮP NỀN
Ngành: Địa kỹ thuật Xây dựng
Mã số: 9580211
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Hà Nội – 2025

Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Phan Huy Đông
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Đức Mạnh
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Thị Nụ
Phản biện 3: PGS.TS Vũ Anh Tuấn
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước
họp tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2025
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Quốc gia và thư viện Trường
Đại học Xây dựng Hà Nội.

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Hà Nội là thủ đô của cả nước, nơi có tốc độ phát triển cơ sở hạ
tầng nhanh, tập trung nhiều sông, ao hồ lớn. Hàng năm một khối
lượng lớn bùn được tạo ra từ quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và
nạo vét sông, hồ. Bùn thường được đổ trực tiếp tại các bãi chứa
tạm được cấp phép cũng như không được cấp phép với diện tích
chiếm chỗ đáng kể, gây ô nhiễm môi trường với chi phí cho các
bãi thải là rất lớn.
Mặt khác, với nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng trong thành phố,
đặc biệt với các dự án nâng cấp cải tạo đê, kè, xây dựng mở rộng
đường đều cần đến một lượng vật liệu rất lớn cho công tác san
nền, đắp nền móng công trình... Lượng vật liệu này thông thường
sử dụng là cát hoặc đất cấp phối được khai thác từ các mỏ cát
trong núi hoặc lòng sông. Việc khai thác cát đã tác động nghiêm
trọng đến điều kiện địa chất, môi trường sinh thái, sạt lở đất và
mất an toàn giao thông, đặc biệt là giao thông đường thủy. Trong
khi đó, với mục tiêu phát triển bền vững, yếu tố về môi trường
ngày càng được chú trọng, cùng với sức ép từ các bãi chứa được
cấp phép đã quá tải, việc nghiên cứu, chế tạo vât liệu phục vụ
công tác san lấp, đắp nền từ bùn thải nạo vét là nhu cầu tất yếu.
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều giải pháp kỹ thuật được ứng
dụng như: ép khô bùn; trộn phụ gia như vôi, xi măng nhằm tăng
cường độ... Mỗi giải pháp đều có những ưu điểm, tồn tại cũng
như phạm vi ứng dụng riêng. Trong đó giải pháp chế tạo bùn
thành cát nhân tạo đã và đang được nghiên cứu phát triển và có
tiềm năng ứng dụng cao cho vật liệu san lấp nền nhờ vào một số
ưu điểm của vật liệu rời như: thoát nước nhanh, nhẹ, dễ vận
chuyển, dễ lu lèn. Tuy nhiên, giải pháp này này còn khá mới mẻ
và chưa được ứng dụng ở Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn
luận án với đề tài: “Nghiên cứu xử lý bùn nạo vét từ một số
sông, hồ trong thành phố Hà Nội thành vật liệu dạng rời dùng
cho công tác đắp nền” có ý nghĩa về khoa học. Kết quả nghiên

2
cứu của luận án sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn thúc đẩy việc
tận thu nguồn bùn thải nạo vét cũng như từ thi công các công
trình ngầm thành vật liệu xây dựng đóng góp vào sự phát triển
chung của xã hội.
2. Mục tiêu nghiên cứu
1) Đưa ra được tổng quan về các giải pháp kỹ thuật xử lý và tái
sử dụng bùn nạo vét thành vật liệu xây dựng.
2) Làm rõ cơ sở khoa học của giải pháp xử lý bùn thành vật liệu rời.
3) Lấy được các mẫu bùn điển hình ở một số sông, hồ lớn, đánh
giá các chỉ tiêu lý, hóa và khả năng xử lý thành vật liệu đắp nền.
4) Nghiên cứu đưa ra được qui trình chế tạo vật liệu dạng rời từ bùn
nạo vét ở dạng lỏng với hàm lượng nghèo phụ gia.
5) Nghiên cứu được các đặc tính địa kỹ thuật của vật liệu rời chế
tạo từ hàm lượng nghèo phụ gia từ đó đưa ra phạm vi ứng dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào các
mẫu bùn được lấy từ một số sông, hồ trong nội thành Hà Nội.
Ngoài ra, phụ gia tạo cường độ là các loại xi măng ở thị trường
trong nước, phụ gia tạo keo kết dính là loại polymer siêu thấm
nước có hoạt tính cao thường được sử dụng trong xây dựng.
Với mục tiêu cuối cùng là nghiên cứu chế tạo được một loại vật
liệu dạng rời giống cát nhân tạo, xuyên suốt luận án này được gọi
tên là GFM (viết tắt của granular cement treated soil for filling
material), tác giả chú trọng vào nghiên cứu đặc tính địa kỹ thuật
của loại vật liệu GFM được chế tạo từ hàm lượng nghèo phu gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu gồm: khảo
sát thực nghiệm, phương pháp tổng hợp và thống kê số liệu, thí
nghiệm trong phòng và phân tích đánh giá số liệu.
5. Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
5.1. Giá trị khoa học
Tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở khoa học của
phương pháp chế tạo một loại vật liệu dạng rời từ vật liệu bùn

3
dạng lỏng, xây dựng qui trình chế tạo vật liệu này với qui mô
trong phòng thí nghiệm. Làm rõ vai trò của phụ gia xi măng và
polymer trong quá trình biến bùn lỏng thành vật liệu dạng hạt rời.
Tác giả cũng lý giải rõ ứng xử về ứng suất - biến dạng của loại
vật liệu/đất dạng rời nhưng các hạt đất lại có nguy cơ bị vỡ ra và
co lại (không phải hạt cứng/rắn giống như cát hay cuội sỏi).
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án mở ra một hướng mới thúc đẩy
công tác xử lý bùn nạo vét từ các sông, ao hồ cũng như bùn phải
thải ra từ các hoạt động xây dựng khác. Sản phẩm của quá trình
xử lý là vật liệu rời dạng hạt GFM (như cát) có thể sử dụng làm
vật liệu san lấp cũng như nền của một số loại công trình đường
giao thông, đất đắp sau tường chắn đất,… Cũng từ kết quả của
nghiên cứu này, một lượng lớn bùn từ công tác nạo vét sông, ao
hồ đang từ chất thải có thể xử lý để trở thành vật liệu san lấp, góp
phần bảo vệ môi trường sống, giảm sức ép về nhu cầu nguồn vật
liệu đắp nền cho quá trình phát triển cơ sở hạ tầng trên cả nước.
6. Những đóng góp mới của luận án
Với ý nghĩa về khoa học và thực tiễn nêu trên, đóng góp mới của
luận án có thể được tổng hợp ở các nội dung sau:
1) Tác giả đã đề xuất được qui trình xử lý bùn nạo vét ở dạng
lỏng, hạt mịn, thành một loại vật liệu dạng rời GFM (giống cát)
làm vật liệu san lấp và nền móng công trình... Từ qui trình sản
xuất đó, tác giả cũng đã chỉ ra được vật liệu GFM có thể sản xuất
được từ một lượng nhỏ phụ gia xi măng và polymer, nhằm hướng
tới giá thành phù hợp và đưa ra được phạm vi ứng dụng của vật
liệu GFM sản xuất từ các mức hàm lượng phụ gia khác nhau.
2) Tác giả đã chỉ ra được đặc tính ứng suất-biến dạng khác biệt của
vật liệu GFM so với vật liệu dạng rời như cát sỏi truyền thống. Đó
là ở cấp ứng suất nhỏ vật liệu GFM có đặc tính giống cát sỏi, nhưng
ở cấp ứng suất lớn vật liệu GFM ứng xử như đất dính.
7. Cấu trúc của luận án
Cấu trúc của luận án ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến
nghị, luận án gồm có 3 chương, 12 bảng, 98 hình ảnh và biểu đồ