
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Hà Nội là thủ đô của cả nước, nơi có tốc độ phát triển cơ sở hạ
tầng nhanh, tập trung nhiều sông, ao hồ lớn. Hàng năm một khối
lượng lớn bùn được tạo ra từ quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và
nạo vét sông, hồ. Bùn thường được đổ trực tiếp tại các bãi chứa
tạm được cấp phép cũng như không được cấp phép với diện tích
chiếm chỗ đáng kể, gây ô nhiễm môi trường với chi phí cho các
bãi thải là rất lớn.
Mặt khác, với nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng trong thành phố,
đặc biệt với các dự án nâng cấp cải tạo đê, kè, xây dựng mở rộng
đường đều cần đến một lượng vật liệu rất lớn cho công tác san
nền, đắp nền móng công trình... Lượng vật liệu này thông thường
sử dụng là cát hoặc đất cấp phối được khai thác từ các mỏ cát
trong núi hoặc lòng sông. Việc khai thác cát đã tác động nghiêm
trọng đến điều kiện địa chất, môi trường sinh thái, sạt lở đất và
mất an toàn giao thông, đặc biệt là giao thông đường thủy. Trong
khi đó, với mục tiêu phát triển bền vững, yếu tố về môi trường
ngày càng được chú trọng, cùng với sức ép từ các bãi chứa được
cấp phép đã quá tải, việc nghiên cứu, chế tạo vât liệu phục vụ
công tác san lấp, đắp nền từ bùn thải nạo vét là nhu cầu tất yếu.
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều giải pháp kỹ thuật được ứng
dụng như: ép khô bùn; trộn phụ gia như vôi, xi măng nhằm tăng
cường độ... Mỗi giải pháp đều có những ưu điểm, tồn tại cũng
như phạm vi ứng dụng riêng. Trong đó giải pháp chế tạo bùn
thành cát nhân tạo đã và đang được nghiên cứu phát triển và có
tiềm năng ứng dụng cao cho vật liệu san lấp nền nhờ vào một số
ưu điểm của vật liệu rời như: thoát nước nhanh, nhẹ, dễ vận
chuyển, dễ lu lèn. Tuy nhiên, giải pháp này này còn khá mới mẻ
và chưa được ứng dụng ở Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn
luận án với đề tài: “Nghiên cứu xử lý bùn nạo vét từ một số
sông, hồ trong thành phố Hà Nội thành vật liệu dạng rời dùng
cho công tác đắp nền” có ý nghĩa về khoa học. Kết quả nghiên