X lý n xấu nn hàng, cách nào?
Đằng sau v thâu tóm này là con s trích lập d phòng 100% của HBB liên quan
đến khoản n tại Vinashin và khoản đầu trái phiếu tr giá 3.700 t đồng của
Vinashin. Giá tr của khoản trích lập d phòng đối với n xấu này là con s lớn
đáng k so với vốn điều l của HBB là 4.050 t đồng. Liệu việc sáp nhập ngân
hàng có tr thành một giải pháp “kiểu Việt Nam” để giải quyết vấn đề n xấu
trong h thống ngân hàng?
Quốc tế đã hành x ra sao với các khon n xấu?
Theo kinh nghiệm quốc tế, việc xcác khoản n xấu có th được thực hiện qua
một trong ba hoặc phối hợp c ba cách chính sau: i) xnội b thu hồi bởi cán
b ngân hàng hoặc dịch v thu hồi n; ii) x lý qua việc bán n cho các t chức tài
chính trung gian và iii) bán n xấu cho công ty mua bán n của Nhà nước.
Tái cấu h thống ngân hàng, giám sát chặt ch hoạt động cho vay dưới chuẩn,
nâng cao tiêu chuẩn v quản tr công ty trong các ngân hàng... là các giải pháp
mang tính h thống t ngân hàng trung ương.
Các công ty mua bán n
Hai giải pháp x lý n xấu ph biến mà hầu hết chính ph các nước châu Á đã làm
là khuyến khích th trường th cấp cho các tài sản xấu và các khoản n xấu với
việc nới lỏng các hạn chế th trường th cấp này và bơm tiền vào các công ty
mua bán n (AMCs) của Chính ph để giải quyết vấn đề n xấu củac ngân
hàng. Giải pháp này đã đem đến một kết qu không đến nỗi t, AMCs đã thu hồi
được 110 t USD t tổng s 350 t USD n xấu mua t các ngân hàng.
Các t chức tài chính trung gian
Th trường chính của các t chức tài chính trung gian này châu Á là Nhật Bản và
Hàn Quốc, trong khi đó, các AMCs của Chính ph đóng vai trò chính giải quyết
n xấu Trung Quốc, Indonesia và Malaysia. Lợi thế của việc s dụng các t
chức tài chính trung gian mua n xấukh năng có tiền mặt khá nhanh, nhưng
bất li của nó lại là giá bán các khoản n xấu khá thấp do các t chức tài chính
trung gian mong đợi li nhuận t 25% đến 35% hàng m t việc đầu vào các
khoản n xấu.
B phận thu hồi n trong ngân hàng
Một s phân tích ch ra rằng, giải quyết n xấu bắt nguồn t xnội b thu hồi
bởi cán b ngân hàng hoặc dịch v thu hồi n cũngmột giải pháp tốt khi mà
ngân hàng, cán b ngân hàng là người nm được nhiều thông tin v khách hàng
nhất k t khi h ra quyết định cho vay. Một ví d thành công là các ngân hàng
Trung Quốc đã thiết lập nên công ty mua bán n nhưmột b phận của ngân
hàng đứng ra giải quyếtc khoản n xấu một cách độc lập và thực hiện một cách
bài bản, chuyên nghiệp v x lý n xấu. Thành tích của b phận này là đã thu hồi
được 500 triệu USD tc khoản n xấu với t l thu hồi cao hơn gấp 3 ln so với
kh năng ngân hàng t thu hồi trước đó.
Một trong những công c để có được thành tích đónhững ngân hàng này đề ra
mức thưởng lên đến 12% giá tr của khoản thu hồi được để các chuyên gia trong
lĩnh vực đòi n này còn có th lấy thêm được các tài sản đảm bảo b sung, hay
dám đương đầu với các v đòi n khó khăn. Kh năng thu hồi n đạt được là 55%
giá tr khoản n xấu so với 20% là mức trung bình mà các ngân hàng khác có th
thu hồi được trong cùng giai đoạn.
Tuy nhiên, Nhật Bản lại không thành công trong việc s dụng b phận thu hồi n
xấu của các ngân hàng dựa trên việc các ngân hàng t thành lập hoặc liên kết
thành lập AMCs. Nguyên nhân bắt nguồn t việc các AMCs này kéo dài thi gian
tr n cho các con nợ, thậm chí che dấu các khoản n xấu trên s sách của ngân
hàng mẹ.
Tái cấu h thống ngân hàng qua đóng cửa, quốc hữu hóa và sáp nhp
Việc giải quyết mang tính h thống cho vn đề n xấu ngân hàng còn có th thực
hiện thông qua một chế tái cấu h thống ngân hàng. Đóng cửa và quốc hữu
hóa là những giải pháp rất mạnh, vì nó kéo theo nhiều h lụy. Còn sáp nhập theo
cách thông thường nhất vẫnmột ngân hàng “khỏe” mua lại một ngân hàng
“yếu” hơn, trong đó, h thống kế toán của ngân hàng b sáp nhập được hợp nhất
vào ngân hàng kia. Có nghĩa là toàn b các khoản tiền gửi hay các khoản cho vay
và các tài sản khác được duy trì bởi ngân hàng sau sáp nhập.
Nhược điểm của việc sáp nhập ngân hàng là ch giải quyết được phần ngọn của
vấn đề n xấu, khi t l n xấu trên vốn hay trên tổng tài sảnth giảm xét trên
báo cáo kế toán hợp nhất của ngân hàng sau sáp nhập, nhưng s tuyệt đối n xấu
thì vẫn tồn tại trên s sách. S n xấu đó vẫn là một “ung nhọt” không hơn không
kém, nhưng nỗi đau của ung nhọt đó có phần nh nhàng hơn, khi mà vốn điều l
và tổng tài sn của ngân hàng sau sáp nhập ln hơn, đủ để tránh cho ngân hàng có
n xấu lớn rơi vào tình trạng phải đóng cửa hay b quốc hữu hóa.
Liệu cách làm nào s thực shiệu qu trong việc giải bài toán n xấu ngân
hàng cho Việt Nam? Câu hỏi còn b ng khi mà việc sáp nhập ngân hàng mới ch
dừng con s 5 ngân hàng. Trong khi đó, hiệu qu hoạt động của các công ty mua
bán n còn là một du hỏi lớn hơn. Phải chăng, còn một hướng đi kh dĩ trong
việc chào bán các khoản n xu cho các t chc tài chính trung gian quốc tế?