TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA KHXH & NHÂN VĂN
BÀI GIẢNG Học phần: CẢM THỤ VĂN HỌC Ở TIỂU HỌC Mã học phần: 2104281 Ngành đào tạo: GIÁO DỤC TIỂU HỌC
1. Giảng viên biên soạn: DƯƠNG THỊ ÁNH MINH
2. Số tín chỉ: 02
3. Tổ/Khoa quản lí học phần: KHOA KHXH & NHÂN VĂN
Quảng Nam, 09/2023
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
1
UBND TỈNH QUẢNG NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÀI GIẢNG HỌC PHẦN
CẢM THỤ VĂN HỌC Ở TIỂU HỌC
1. Thông tin chung về học phần
- Tên học phần: CẢM THỤ VĂN HỌC Ở TIỂU HỌC - Tên tiếng Anh: Induced literature in elementary school - Mã học phần: 2104281 Số tín chỉ: 02 - Loại học phần: (bắt buộc/tự chọn) - Yêu cầu tham gia học phần: + Các học phần học trước: Không + Các học phần tiên quyết: Không + Các yêu cầu khác đối với học phần: Không - Phân giờ bố thời gian đối với các hoạt động: Giờ lên lớp + Lý thuyết: 15 + Thực hành/ Thí nghiệm/ Thảo luận trên lớp: 30 + Thực tập tại cơ sở: Không + Làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khóa luận TN: Không Giờ chuẩn bị cá nhân + Hoạt động theo nhóm: + Tự học, tự nghiên cứu: 90 - Bộ môn - Khoa phụ trách giảng dạy học phần: Khoa KHXH & NV
2. Tóm tắt nội dung học phần
Học phần Cảm thụ văn học ở tiểu học là môn học nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về cảm thụ văn học, những biện pháp giúp sinh viên phát triển năng lực cảm thụ các tác phẩm văn học ở nhiều thể loại khác nhau (tự sự, trữ tình, kịch,…), cũng như cách tiến hành giúp học sinh cảm thụ tác phẩm một cách có nghệ thuật.
Trên cơ sở những kiến thức cơ bản đã được học, học phần này giúp sinh viên hình thành kỹ năng thiết kế các dạng bài tập để phát huy năng lực cảm thụ tác phẩm một cách có nghệ thuật. Sinh viên làm quen với các dạng bài tập để phát huy năng lực cảm thụ của học sinh, đồng thời có cơ hội trình bày những cảm nghĩ của mình về tác phẩm văn học. 3. Mục tiêu của học phần (Course Objective – viết tắt là CO) 3.1. Mục tiêu chung:
Học phần giúp người học vận dụng được các kiến thức về cảm thụ văn học để phân tích, đánh giá và cảm thụ các tác phẩm văn học, hình thành kỹ năng thiết kế các dạng bài tập để phát huy năng lực cảm thụ tác phẩm một cách có nghệ thuật. Đồng thời, giúp sinh viên làm quen với việc thiết kế các dạng bài tập để phát huy năng lực cảm thụ của học sinh và trình bày những cảm nghĩ của mình về tác phẩm văn học.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
2
3.2. Mục tiêu cụ thể
Mục
Nội dung
KT KN Tự chủ, tự
tiêu
chịu trách
(CO)
nhiệm
CO1
Trình bày được các kiến thức chung nhất về
x
tiếp nhận văn học và quá trình cảm thụ tác
phẩm văn học.
CO2
Nhận biết được các tín hiệu nghệ thuật trong
x
tác phẩm văn học. Thiết kế và xây dựng được
các dạng bài tập rèn luyện kĩ năng cảm thụ
văn học cho học sinh tiểu học.
CO3
Có tinh thần trách nhiệm, hình thành tác
x
phong sư phạm qua các hoạt động thực hành
dạy học.
4. Chuẩn đầu ra của học phần (Course Learning Outcome – viết tắt là CLO)
Bảng 4.1. Chuẩn đầu ra của học phần (CLO)
Nội dung chuẩn đầu ra học phần
Sau khi học xong hoc phần, sinh viên có khả năng: Ký hiệu chuẩn đầu ra HP CLO1
CLO2
CLO3
CLO4
Trình bày được những kiến thức chung nhất về tiếp nhận văn học, mối quan hệ giữa các thành tố trong quá trình tiếp nhận văn học (nhà văn, tác phẩm, bạn đọc). Phân tích được quá trình cảm thụ tác phẩm văn học, phân biệt được quá trình đọc hiểu và cảm thụ văn học. Phân tích, cảm thụ được tác phẩm văn học. Phát hiện và đánh giá được tác dụng của các tín hiệu đặc sắc trong tác phẩm. Thiết kế và xây dựng được các dạng bài tập rèn luyện kĩ năng cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học. Tác phong sư phạm chuẩn mực qua các hoạt động thực hành dạy học.
5. Ma trận thể hiện sự đóng góp của chuẩn đầu ra học phần (CLO) vào việc đạt
được các chuẩn đầu ra CTĐT (PLO) và và các chỉ số PI (Performance Indicator)
Bảng 5.1. Mối liên hệ giữa CLO và PLO/PI
PLO và chỉ số PI
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
3
CLO
PLO1
PLO5
PLO6
PI 1.5
PI5.2
PI6.1
PI6.2
CLO1
I
CLO2
M
CLO3
M,A
CLO4
R
R
R
R
Học phần Cảm thụ văn học
M, A
R
R
R
ở tiểu học
6. Đánh giá học phần
Sinh viên đạt được đánh giá kết quả học tập trên cơ sở điểm thành phần như sau:
Bảng 6.1. Phương pháp, hình thức kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của SV Lấy dữ
Trọng số CLO
Thành
Trọng
Hình thức
liệu đo
Công cụ
trong thành
phần
số
kiểm tra -
CLO
lường mức
đánh giá
phần đánh giá
đánh giá
(%)
đánh giá
độ đạt
(%)
PLO/PI
(7)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
Đánh giá
Rubric
60
nhanh trên
Đánh giá
TLN, câu
CLO1
10%
lớp, Báo
quá trình
hỏi vấn
CLO2
cáo thảo
40
đáp
luận
CLO2
50
Đánh giá
Kiểm tra
30%
Đề kiểm tra
giữa kì
tự luận
CLO3
50
CLO2
30
Đánh giá
Kiểm tra
Đề thi cuối
60%
CLO3
40
tự luận
kỳ
cuối kỳ
CLO4
30
7. Nội dung chi tiết học phần – Lịch trình giảng dạy
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
4
Chương 1. TIẾP NHẬN VÀ CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC 8 tiết (LT: 5 tiết, TH: 3 tiết x 2)
Mục tiêu của chương 1: Chương này cung cấp cho sinh viên những nội dung kiến thức khái quát về mĩ học tiếp nhận. Cụ thể: khái niệm mĩ học tiếp nhận, đối tượng nghiên cứu, một số khái niệm, thuật ngữ (kinh nghiệm thẩm mĩ, khoảng cách thẩm mĩ, kết cấu vẫy gọi, đồng nhất hóa, tiếp nhận đồng đại và lịch đại, tầm đón nhận, động cơ tiếp nhận, tâm thế tiếp nhận), lí thuyết tiếp nhận trong nghiên cứu văn học. Từ đó, sinh viên biết vận dụng để nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể.
Chuẩn đầu ra của chương 1: Sinh viên phân tích được khái niệm mĩ học tiếp nhận, và một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản: kinh nghiệm thẩm mĩ, khoảng cách thẩm mĩ, kết cấu vẫy gọi, đồng nhất hóa, tiếp nhận đồng đại và lịch đại, tầm đón nhận, động cơ tiếp nhận, tâm thế tiếp nhận. Trình bày được lí thuyết tiếp nhận trong nghiên cứu văn học.
1.1. Khái quát về tiếp nhận văn học 1.1.1. Khái niệm Lý thuyết Mĩ học tiếp nhận đã trở thành một hướng nghiên cứu rất phát triển ở châu Âu và thế giới trong hơn ba mươi năm trở lại đây và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc soi sáng đời sống văn học trên nhiều bình diện. Hơn 20 năm nay, nó không còn là tên gọi xa lạ đối với các nhà lí luận và nghiên cứu văn học Việt Nam. Nói như GS. Trần Đình Sử, “nếu xem hoạt động của văn học gồm hai lĩnh vực lớn là sáng tạo và tiếp nhận thì bản thân sự tiếp nhận văn học đã hàm chứa một nửa lí luận văn học”. Mĩ học tiếp nhận ra đời chính là tiếng nói đầy kiêu hãnh của người đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của văn học nói chung và số phận của từng tác phẩm nói riêng. Theo đó, vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu văn học đã và đang đem lại những đóng góp giàu tính khoa học, đồng thời làm phong phú thêm hệ thống lý luận văn học nước nhà.
Theo A. V. Dranov, Mĩ học tiếp nhận là một khuynh hướng trong phê bình và nghiên cứu văn học, xuất phát từ ý tưởng tác phẩm nảy sinh, được thực hiện chỉ trong quá trình gặp, tiếp xúc của tác phẩm văn học với độc giả, và đến lượt mình, nhờ liên hệ ngược, độc giả lại tác động đến tác phẩm, do vậy, độc giả quyết định tính chất lịch sử của việc tiếp nhận và tồn tại của tác phẩm. Theo đó, đối
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
5
tượng nghiên cứu của Mĩ học tiếp nhận không phải là tác giả hay tác phẩm mà là hoạt động giao tiếp của người sáng tác và người tiếp nhận, là mối quan hệ của hoạt động liên đới trong sự cảm nhận tác phẩm văn học của độc giả hoặc thính giả.
Ở một phương diện khái quát, theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể. Qua tiếp nhận văn học, nhờ được tri giác, liên tưởng, cắt nghĩa, tưởng tượng của người đọc mà tác phẩm trở nên đầy đặn, sống động, hoàn chỉnh; ngược lại, người đọc nhờ tác phẩm mà được mở rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm về đời sống, tư tưởng và tình cảm cũng như năng lực cảm thụ tư duy (…) Tiếp nhận văn học tạo thành đời sống lịch sử của tác phẩm văn học”. Như vậy, tiếp nhận văn học là hoạt động đặc trưng của sáng tạo văn học - tác phẩm văn học là một quá trình. Trước đây, người ta chỉ chú ý đến khâu sáng tác hoặc nghiên cứu sáng tác tách rời với các quy luật tiếp nhận. Với Mĩ học tiếp nhận, tác phẩm văn học tự nó mới chỉ là văn bản nghệ thuật, chỉ khi có sự tiếp nhận của người đọc, văn bản mới thực sự có một sinh mệnh, trở thành một tác phẩm đúng nghĩa. Nói cách khác, tác phẩm = văn bản + sự tiếp nhận của độc giả.
Bên cạnh đó, với tư tưởng chủ đạo là “độc giả sống, đi tìm gặp nhà văn, tích cực tham dự vào sáng tác”, Mĩ học tiếp nhận hướng đến việc tìm hiểu chức năng thẩm mĩ của tác phẩm thông qua người đọc, để từ đó hướng các nhà văn, các nhà nghiên cứu đi theo hướng tiếp nhận nghệ thuật như một hiện tượng độc lập, tự thân đến vấn đề đọc và hiểu nó. Cụ thể, lý thuyết này tham gia vào việc nghiên cứu độc giả và xã hội, hướng đến việc tìm hiểu chức năng thẩm mỹ của tác phẩm thông qua người đọc và xem tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá tác phẩm là hiệu ứng xã hội của tác phẩm đó. Vì thế, xét về nguồn gốc, Mĩ học tiếp nhận ra đời là là tiếng nói đầy kiêu hãnh của người đọc với tâm thế là người làm chủ tác phẩm văn học, đồng thời là sự phản ứng với mỹ học nội quan, đối với những tư tưởng và tính tự trị của tác phẩm.
Trong những trường phái Mĩ học tiếp nhận trên thế giới thì trường phái Mĩ học tiếp nhận Konstanz có ảnh hưởng mạnh nhất. Và một trong những tên tuổi nổi bật mà ta không thể không nhắc đến là Wolfgang Iser và Hans Robert Jauss.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
6
Với những đóng góp quan trọng như Tầm đón nhận, Khoảng cách thẩm mỹ, Kết cấu vẫy gọi, Hành động đọc, Tiếp nhận đồng đại và lịch đại… của hai tác giả này, cùng với công trình Tác phẩm văn học của Roman Ingarden, lý thuyết Mĩ học tiếp nhận đã làm cho vị trí của người đọc được lên ngôi và thúc đẩy sự phát triển thuận chiều của đời sống văn học. Ở Việt Nam, từ đầu những năm 1985, lần đầu tiên lý thuyết Mĩ học tiếp nhận của trường phái Konstanz được dịch và giới thiệu rộng rãi. Và từ đó, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu đi vào khám phá lĩnh vực mới mẻ này, họ đưa ra những ý kiến liên quan đến tiếp nhận văn học. Đặc biệt, sau đổi mới 1986, không khí dân chủ tràn vào tất cả các mặt của đời sống, văn học cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng đó. Cùng với bối cảnh đó, đời sống báo chí văn học cũng có những bước phát triển sôi động, vấn đề tiếp nhận văn học trở thành một trong những vấn đề trung tâm. Các nhà nghiên cứu, lý luận đã vận dụng lý thuyết này ở những mặt cơ bản nhất để khám phá đời sống văn học. Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết lịch sử của ông với những đặc trưng cơ bản của tiếp nhận như: đón bắt được tầm đón nhận đa chiều nơi độc giả, xây dựng tác phẩm mở, kết cấu vẫy gọi đến sự phong phú về động cơ tiếp nhận, khơi gợi sự sáng tạo của bạn đọc hôm nay cũng sẽ là mảnh đất đầy tiềm năng để lý thuyết Mĩ học tiếp nhận khám phá và lý giải.
Ra đời và phát triển ở phương Tây, Mĩ học tiếp nhận du nhập vào Việt Nam và có một chỗ đứng nhất định như hôm nay phải trải qua một quá trình tiếp thu có chọn lọc. Chúng ta ghi nhận sự đóng góp to lớn của các dịch giả mà tiêu biểu trong số đó là các công trình như: ManFred Naumann - Song đề của lý thuyết tiếp nhận, Tạp chí văn học, (4), 1978; R. Barthes - Độ không của lối viết, Nxb Hội nhà văn, 4-1997; G. Lukacs - Nghệ thuật và chân lý khách quan, Tạp chí Văn học nước ngoài, (6), 1999; A. Draviov - Mĩ học tiếp nhận, Tạp chí Văn học, (3), 2002; H. R. Jauss - Lịch sử văn học như là sự khiêu khích với khoa học văn học, Tạp chí Văn học nước ngoài, (1), 2002; Roman Ingarden, Tác phẩm văn học, Nxb Hà Nội…
Bên cạnh lý thuyết được chuyển ngữ, giới lý luận trong nước cũng đã kịp thời giới thiệu, luận giải và bổ sung thêm nhiều khía cạnh, làm cho Mĩ học tiếp nhận ngày càng được hoàn thiện và phát huy cao khả năng ứng dụng trong nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học Việt Nam. Có thể nói, ý kiến của Hải Triều về vai trò người đọc trong cuộc tranh luận Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh từ 1930 - 1945 đã bước đầu đề cập và có sự gặp gỡ nhất định
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
7
với lý thuyết tiếp nhận hôm nay. Theo dòng thời gian, các nhà lí luận, phê bình cũng như người làm khoa học trong nước đã tập trung nghiên cứu và giới thiệu lý thuyết này một cách có hệ thống. Tiêu biểu là các tác giả và bài viết như Nguyễn Văn Hạnh: Ý kiến của Lê nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, 1971; Hoàng Trinh: Văn học so sánh với vấn đề tiếp nhận văn học, 1980; Nguyễn Văn Dân: Tiếp nhận Mĩ học tiếp nhận như thế nào? (1985), Lí luận tiếp nhận văn học với sự tiếp nhận văn học nghệ thuật thế giới ở Việt Nam (1985), Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên quan điểm liên ngành (1986); Nguyễn Thị Thanh Hương: Hans Robert Jauss, người sáng lập trường phái mĩ học tiếp nhận Constance; Nguyễn Lai: Tiếp nhận văn học, một vấn đề thời sự; Đỗ Đức Hiểu: Đọc văn chương; Từ Sơn: “Nghĩ về công chúng văn học của chúng ta hiện nay; Trần Đình Sử: Tiếp nhận - bình diện mới của lý luận văn học; Phương Lựu: Tiếp nhận văn học; Huỳnh Như Phương: Tác phẩm và người đọc; Trương Đăng Dung: Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Tác phẩm văn học như là quá trình; Trần Thái Học: Về giá trị nghệ thuật - Sự gặp gỡ giữa quan điểm văn nghệ của Hải Triều với lý luận văn nghệ hiện đại, Văn chương và tiếp nhận; Đỗ Lai Thúy: Người đọc, hành trình từ cổ điển đến hiện đại; Nguyễn Thị Hạnh Quyên: Thành tựu nghiên cứu lý thuyết Mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam … Những công trình kể trên không chỉ dừng lại ở cấp độ lý thuyết mà còn chú ý đến tính ứng dụng của nó trong thực tiễn. Dù mỗi tác giả có một cách quan niệm và lí giải riêng nhưng tất cả đều thống nhất ở việc thừa nhận tác phẩm chỉ tồn tại khi tồn tại người đọc.
1.1.2. Một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản 1.1.2.1. Kinh nghiệm thẩm mĩ Jauss cho rằng sự thích thú thẩm mỹ hay khoái cảm thẩm mỹ có hai dạng: thứ nhất là nó làm ta quên mình trong đối tượng, thứ hai là nó thiết lập một vị thế mà sự tồn tại của đối tượng được đặt vào vòng ngoặc, và do vậy biến đối tượng trở thành đối tượng thẩm mỹ. Đây là hành vi mà ý thức tạo ra một hình ảnh của đối tượng trong đầu óc. Ông gọi là ‘sự thích thú tự mình trong sự thích thú về cái khác’ (Selbstgenuss im Fremdgenuss). Đây là nền tảng cho sự thích thú có tính chất hiểu và sự hiểu có tính chất thích thú, nói cách khác, đó là một vị thế hiểu đặc thù có tính thực hành của tiếp nhận nghệ thuật. Jauss cho rằng cái vị thế hiểu đặc thù này đã biểu hiện trong lịch sử quan niệm trước đó về bộ ba khái niệm của kinh nghiệm thẩm mỹ: poiesis, aisthesis và karthasis. Poiesis là kinh nghiệm thẩm mỹ có tính chất tác tạo, là sự thích thú thẩm mỹ khi một người nào đó vận dụng
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
8
năng lực sáng tạo của mình để tạo tác một sản phẩm, một công trình. Aisthesis là kinh nghiệm thẩm mỹ có tính chất tri nhận.
Trong thời cổ đại, khi mà sự tò mò vừa có mặt lý thuyết, vừa có mặt thẩm mỹ của nó, thì aisthesis biểu trưng cho việc miêu tả phác họa và kiến tạo lại thực tại. Việc kéo dài thích thú thẩm mỹ trong khi thể hiện việc miêu tả khung cảnh trên tấm khiên của Achiles cho thấy khía cạnh aisthesis của kinh nghiệm thẩm mỹ.
Thời hiện đại, kinh nghiệm thẩm mỹ có chức năng phê bình ngôn ngữ, và chức năng xã hội, trong hình thức truyền thông của nó, và do đó nó phá hủy bản thân vấn đề kinh nghiệm thẩm mỹ nội tại. Đến đây, theo Jauss, kinh nghiệm thẩm mỹ tiếp nhận bao hàm chức năng phê phán xã hội nhưng đồng thời nó cũng gia cố cho một xã hội đã mất đi sự tiếp xúc với trải nghiệm riêng đích thực của mình. Catharsis là kinh nghiệm thẩm mỹ có tính chất giao tiếp. Nó được tạo thành từ sự giao tiếp giữa tác phẩm và người thưởng thức. Jauss chú ý đến một phương diện biểu hiện của nó là “sự đồng nhất hóa thẩm mỹ”.
1.1.2.2. Khoảng cách thẩm mĩ Khoảng cách thẩm mỹ là sự khác biệt giữa tầm đón nhận của tác giả (qua
tác phẩm) với tầm đón nhận của người đọc.
Như một điều hiển nhiên, khi tác phẩm ra đời, nó luôn luôn tồn tại một khoảng cách thẩm mĩ giữa mã của người gửi và mã của người nhận, giữa tầm đón nhận của độc giả với những thông điệp đã được mã hóa trong văn bản. Khoảng cách thẩm mĩ này quy định giá trị của tác phẩm, được thể hiện bằng phản ứng của công chúng và thái độ của nhà phê bình. Theo H. Jauss, khoảng cách thẩm mĩ càng lớn thì giá trị nghệ thuật của tác phẩm càng cao. Theo ông, trong sáng tạo, nhà văn có thể làm cho khoảng cách thẩm mĩ đó có thể nắm bắt được về mặt lịch sử trên phạm vi của những phản ứng của công chúng và sự phán xét của phê bình, điều chỉnh “kết cấu vẫy gọi” sao cho đừng quá xa với khoảng cách thẩm mĩ của “người đọc tiềm ẩn”. Bởi lẽ, nếu cao quá, khác quá thì người đọc không tiếp nhận được, nhưng nếu thấp hơn hay lặp lại thì người đọc sẽ không có hứng thú và thờ ơ.
1.1.2.3. Kết cấu vẫy gọi Theo W. Iser, văn bản tác phẩm văn học luôn tồn tại “kết cấu vẫy gọi”, trong đó tồn tại rất nhiều khoảng trống và điểm không xác định, vẫy gọi người đọc đến bổ sung. Hiểu một cách khái quát, “kết cấu vẫy gọi” là kết quả sáng tạo
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
9
của tác giả, biểu hiện ở mức độ hấp dẫn, hứa hẹn hữu ích hàm chứa trong chỉnh thể văn bản; tác động trên mọi phương diện, cấp độ hình thức - nội dung văn bản tác phẩm, từ đó mời gọi giao tiếp thẩm mỹ, mời gọi người đọc, đồng thời định hướng và gợi ý quá trình tiếp nhận. 1.1.2.4. Đồng nhất hóa Trong lý thuyết của mình, Jauss cũng không quên dành sự lý giải hợp lý
cho khái niệm đồng nhất hóa (đồng nhất thẩm mĩ).
Đồng nhất hóa (đồng nhất thẩm mỹ) là sự bắt gặp giữa tầm đón nhận của
tác giả (qua tác phẩm) với tầm đón nhận của người đọc.
Đồng nhất hóa thẩm mỹ không phải là sự tiếp nhận thụ động của người thưởng thức trước tác phẩm nghệ thuật, mà ngược lại, đây là một quá trình giao tiếp tổng thể, tạo ra sự di chuyển qua lại giữa người thưởng thức được tự do trong cảm nhận thẩm mỹ của mình và đối tượng nghệ thuật phi hiện thực; lúc đó, bằng sự thích thú thẩm mỹ của mình, chủ thể có thể trải qua những trạng thái cảm xúc một cách trọn vẹn.
1.1.2.5. Tầm đón nhận Tầm đón nhận là một trong những khái niệm then chốt của lý thuyết tiếp nhận văn chương hiện đại. Thuật ngữ này được nhà Mĩ học tiếp nhận người Đức Hans Robert Jauss tiếp thu và phát triển từ đề xuất của Karl Mannheim trong cuốn sách được nhà nghiên cứu này công bố vào năm 1958. Trong công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học ra đời năm 1970, H. R. Jauss đã cụ thể hóa một cách khá rõ ràng khái niệm này. Theo ông, nghĩa của khái niệm tầm đón nhận đó là trình độ và kinh nghiệm văn chương có trước của mỗi người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm, bao gồm ba bộ phận hợp thành: một là quan niệm về thể loại; hai là quan niệm về hình thức đề tài; và ba là quan niệm về đặc trưng văn chương ở sự phân biệt giữa hư cấu và thực tế, giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ toàn dân. Đi vào Việt Nam, khái niệm này nhanh chóng được các nhà nghiên cứu, lí luận giảng giải và đưa ra những cách hiểu khác nhau. Trong số đó, ta có thể nhắc đến ba tác giả tiêu biểu: Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Thanh Hùng. Về bản chất, tầm đón nhận mang tính lịch sử và luôn có sự thay đổi tùy thuộc vào tâm lý dân tộc, tâm lý xã hội thời đại và các tiêu chuẩn thẩm mĩ của thời đại quy định. Nó là tiền đề của người đọc để tiếp nhận tác phẩm văn học. Như vậy, tầm đón nhận không cố định mà luôn thay đổi theo
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
10
quá trình đọc, và hiển nhiên, ý nghĩa của tác phẩm văn học cũng sẽ thay đổi theo từng tầm đón cụ thể. Nó được thể hiện ở những phương diện:
- Thứ nhất, chuẩn thẩm mỹ cộng đồng và ảnh hưởng của môi trường văn
hóa xã hội.
- Thứ hai, sự đa dạng về thị hiếu thẩm mỹ và cách đọc. - Thứ ba, sự sáng tạo và đồng cảm của chủ thể tiếp nhận. Với tư cách là chủ thể tiếp nhận đối với bất cứ loại tác phẩm văn học nào, người đọc không bao giờ là một tờ giấy trắng thụ động, mà vốn có một “tầm đón nhận” được hình thành một cách tổng hợp bởi nhiều yếu tố. Trước hết là do thực tiễn sống và sự giáo dưỡng văn hóa, đã hình thành nên ở người đọc từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ thái độ chính trị đến khuynh hướng tình cảm và hứng thú thẩm mỹ. Rồi nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, v.v... cũng góp phần tác động đến tâm hồn của người đọc.
Tất nhiên, nên phân biệt giữa tầm đón nhận cá nhân với tầm đón nhận tập thể. Cái sau tiêu biểu cho một lớp ngươi, một thế hệ, một lực lượng xã hội. Nó phản ánh và tổng hợp những nét chung nhất trong những tầm đón nhận của những cá thể trong từng phạm vi ấy. Nó cũng có thể biểu hiện tập trung ở tầm đón nhận của các nhà phê bình kiệt xuất, thái độ công minh chính trực, kiến thức uyên bác, năng lực thẩm vấn sâu sắc mà tinh tế. Trở lại tầm đón nhận cụ thể, có thể thấy biểu hiện ở các mặt sau:
- Tầm đón chờ ý nghĩa: Bất cứ bạn đọc nào với bất kỳ tác phẩm văn học nào cũng mong muốn nó vừa biểu hiện, vừa củng cố và nâng cao tư tưởng, tình cảm, những hứng thú và sở thích phù hợp với lý tưởng của mình. Cũng có thể đó là sự khẳng định trực tiếp những cái chính diện, cũng có thể là gián tiếp qua sự phủ định những cái ngược lại. Đây là tầm đón bao trùm nhất, có tác dụng chi phối một cách vô tình hay hữu ý đối với các tầm đón cụ thể khác.
- Tầm đón chờ ý tưởng: Khi tiếp xúc với một hình ảnh trong văn bản tác phẩm, người đọc bao giờ cũng liên tưởng tới những kinh nghiệm và thể nghiệm vốn có của mình, để định hướng sự lý giải nội dung bên trong của nó. Đọc những hình ảnh trong thơ cổ như “thanh tùng”, “hàn mai”, “bạch liên” v.v..., người đọc có thể liên tưởng đến những nhân cách thanh tao, cường nghị, v.v...
- Tầm đón nhận văn loại: Dựa vào kinh nghiệm thưởng thức thể loại vốn có, đứng trước một cuốn tiểu thuyết, bạn đọc rất có thể liên tưởng đến một cốt truyện với nhiều tình tiết phong phú và hấp dẫn, và một hệ thống nhân vật với
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
11
những tính cách phức tạp mà sống động. Và khi mối tiếp xúc với một bài thơ trữ tình, người đọc liền chuẩn bị được thưởng thức những sắc thái trữ tình nồng thắm, cách sử dụng giàu hình ảnh và nhạc điệu, v.v...
1.1.2.6. Động cơ tiếp nhận Không tách rời mà còn giao thoa với tầm đón nhận là động cơ tiếp nhận. Cuộc sống phong phú, văn học lại đa dạng, động cơ tiếp nhận của bạn đọc vốn đã không giống nhau, nhất là khi đứng trước tác phẩm cụ thể, lại càng khác biệt. Tuy vậy có thể khái quát vào các mặt sau:
- Muốn được hưởng thụ và bồi đắp những tình cảm thẩm mỹ - Muốn được mở mang trí tuệ - Muốn được bồi dưỡng thêm về tư tưởng, đạo đức, lý tưởng - Muốn học hỏi kinh nghiệm - Đọc để phân tích, nhận xét, đánh giá Thật ra các loại động cơ đọc nói trên không phải hoàn toàn biệt lập nhau, chỉ là những trọng điểm chú ý khác nhau mà thôi. Dù sao, vối những trọng điểm khác nhau như vậy, người đọc sẽ tìm đến với những loại tác phẩm không hoàn toàn giống nhau, hoặc ngay đối với cùng một tác phẩm cũng sẽ tiếp cận với những phương diện có phần khác nhau. Tuy nhiên, những tác phẩm ưu tú, nhất là những kiệt tác, đều có thể thỏa mãn tất cả những loại động cơ khai thác đó.
1.1.2.7. Tâm thế tiếp nhận Lý thuyết Mĩ học tiếp nhận ra đời là “tiếng nói đầy kiêu hãnh của chủ thể tiếp nhận” với tâm thế là người làm chủ tác phẩm văn học. Quá trình biến văn bản thành tác phẩm chỉ thuận lợi nhất khi người đọc tự giác, tích cực, hứng khởi tìm đến văn bản tác phẩm để giao tiếp thẩm mỹ, kỳ vọng, mong đợi ở văn bản những giá trị hữu ích cho tinh thần, tình cảm của mình. Với người đọc nói chung, các tiểu thuyết viết theo lối mới, đặc biệt những tác phẩm có sự kết hợp hiệu quả giữa cách thức diễn đạt với nội dung mang tính nhân văn đã tạo ra một trào lưu văn hóa đọc khá sôi nổi trong công chúng. Chính điều này đã góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mĩ và tầm đón đợi mới với thể loại nơi người đọc. Vì thế, bên cạnh Tầm đón đợi thì tâm thế tiếp nhận giữ một vai trò quan trọng chi phối quá trình tiếp nhận.
Tâm thế, tâm trạng con người, do một tập hợp nguyên nhân từ xã hội, thiên nhiên và cả nhân thân, chớ có quy kết vội nó chỉ là biểu hiện của tư tưởng và đạo
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
12
đức. Do đó,tâm thế đọc rất phức tạp, tuy vậy có thể khái quát vào ba trạng thái chính yếu nhất: hân hoan, ức chế và tĩnh tâm.
Tâm thế tĩnh tâm là điểm xuất phát tối ưu trong việc đọc tác phẩm, để thưởng thức nó gần đúng nhất với cái nó vốn có. Có điều không thể nào có trạng thái tĩnh tâm tuyệt đối được. Tâm thế thay đổi trong quá trình đọc là một điều hiển nhiên không những đối với trạng thái tĩnh tâm, mà cả với trạng thái hân hoan và ức chế, trừ phi đọc phải tác phẩm vô vị, nhạt nhẽo.
Người đọc không bao giờ là tờ giấy trắng, mà có đầy đủ những tiền đề, để làm nên tính năng động chủ quan của mình. Hiệu quả đọc, do đó, là muôn màu muôn vẻ, càng không thể trùng khớp với ý đồ của tác giả.
Như một tất yếu, những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đa phần là những tác phẩm phù hợp và đáp ứng tầm đón đợi của người đọc đương đại. Nói như Bùi Việt Thắng, sách hay chưa phải là sách bán chạy và sách bán chạy chưa hẳn đã hay. Một cuốn sách hay đồng thời là một cuốn sách bán chạy “cần hài hòa trong mình những thuộc tính sau: vừa nâng cao vừa phổ cập, vừa bác học vừa bình dân, vừa chính danh vừa thị trường”. Và đó chỉ có thể là sản phẩm của những nhà văn đích thực.
Bên cạnh đó, theo W.Iser, trong văn bản tồn tại cơ sở để tiến hành giao lưu giữa độc giả và văn bản, nó là dấu vết của điều kiện lịch sử xã hội và bối cảnh văn hóa hoặc những thứ tương đồng với tác phẩm trước. Việc đọc một văn bản chính là một quá trình giao lưu. Trong quá trình đọc, tiêu chuẩn kinh nghiệm vốn có có thể bị phủ định, từ đó kinh nghiệm thẩm mỹ của người đọc trở nên phong phú hơn.
Tất cả điều đó sẽ góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm thế của người đọc khi tiếp cận tác phẩm. Tâm thế đó không gì khác ngoài sự hân hoan, chờ đợi và khát khao được trải nghiệm qua từng trang sách. 1.2. Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học 1.2.1. Diễn biến của tiếp nhận văn học Bạn đọc đã chuyển hóa “văn bản thứ nhất” của tác giả thành “văn bản thứ hai” của chính mình. Tác phẩm văn học đã từ “vật tự nó” biến thành “vật cho ta”. Thông thưòng, cũng như trong mối quan hệ giữa sáng tác với đời sống, giữa hai loại văn bản này nhiều nhất, chỉ có sự thống nhất, chứ không thể đồng nhất hoàn toàn, vì phải trải qua những khâu chuyển dịch như sau:
1.2.1.1. Tái hiện để tái tạo
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
13
Các bộ môn nghệ thuật khác, chất liệu là vật chất, cho nên hình tượng của nó là trực tiếp. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, chất liệu của nó chỉ là ký hiệu của vật chất, cho nên hình ảnh của nó là gián tiêp. Không những thế, các ký hiệu ngôn từ trong tác phẩm văn học không phải “đồng hiện”, mà được triển khai theo hình tuyến từ đầu đến cuối văn bản, như thế sự tái hiện ở đây là liên tục. Chính trong quá trình tái hiện liên tục này, chúng ta mới nghe thấy dần hình tượng mà nhà văn mô tả, nhưng là hình tượng được diễn lại trong đầu óc của ngưòi đọc, chứ không phải như bức tranh hoặc khúc nhạc bên ngoài. Nói văn học mang tính hình tượng gián tiếp là như vậy. Nghĩa là nó phải kinh qua sự tưởng tượng của ngưòi đọc ngay giây phút đầu tiên của quá trình thưởng thức tiếp nhận, một điều hầu như không đặt ra với một số bộ môn nghệ thuật khác. Mà đã nói đến tưởng tượng là tất yếu sẽ kèm theo một thuộc tính tất yếu là sự sáng tạo. Sự sáng tạo trong sự tiếp nhận của độc giả văn học được nhấn mạnh hơn so với công chúng một số bộ môn khác là vì vậy. Cộng với các vấn đề động cơ, tâm thế và tầm đón chung cho công chúng, có thể thấy sự tái hiện mang tính chất sáng tạo hay sự tái tạo trong việc đọc văn học theo các mặt như sau:
Trước hết là phải tái tạo lại hình tượng. Trong khi đọc tác phẩm văn học, độc giả vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng với loại người tương tự ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lý giải của mình, mà hình dung, tưởng tượng về nhân vật nào đó. Kết quả là mỗi người mỗi khác. Hình dung mỗi người mỗi khác, cũng có nghĩa là không giống sự hình dung với chính tác giả.
Hai là thay đổi lại theo tình cảm khác. Tác phẩm văn học thành công nào cũng chan chứa tình cảm, đủ các sắc thái vui, buồn, giận, thương, v.v..., tất nhiên trong đó sẽ nổi lên một trạng thái tình cảm chủ đạo. Nhưng người đọc thường chỉ thích và nhớ nhất những trạng thái tình cảm nào phù hợp với sự xúc động thường ngày của bản thân.
Ba là giải thích theo quan niệm khác. Khi một bạn đọc nhất là các nhà khoa học đã có một quan niệm riêng về con người và thế giới, thậm chí đã hình thành một chủ thuyết, thì tất nhiên họ thường giải thích lại mọi việc trên đời, nhất là đối với những kiệt tác văn học nghệ thuật vì đây là “những bức tranh nhân sinh thu gọn”.
Thật ra, sự tái tạo hay thay đổi còn diễn ra trong vô số cấp độ và bình diện.Sự thay đổi đó, thậm chí còn diễn ra ở một con người đọc một tác phẩm xác định nhưng trong những lúc khác nhau. Tuy vậy, những kỷ niệm đọc, đọc một
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
14
cách xúc động của một thời, vẫn sống mãi, và sẽ tham gia vào hiệu quả tiếp nhận của những lần đọc sau. Bởi vì khi đọc lại một tác phẩm mà ta xúc động trong thời gian qua, thì bao nhiêu không khí cảnh huống của thời ấy cùng đồng thời sống lại. Đó là lý do giải thích vì sao nhiều tác phẩm, bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu câu thơ, chẳng hạn trong sách giáo khoa, mà ta tiếp xúc thời thơ ấu, ngẫm ra cũng bình thường thôi, nhưng nay đọc lại vẫn thấy thú vị.
1.2.1.2. Lý giải và ngộ nhận Như trên đã nói, có thể thấy sự tiếp nhận của bạn đọc, vừa có khả năng lý giải đúng, nhưng cũng có khả năng ngộ nhận ý đồ của tác giả. Nhưng không phải tất cả những “hiểu sai”, ngộ nhận ý đồ của tác giả đều hỏng cả. Ở đây cần phân biệt chính ngộ với phản ngộ. Chính ngộ, tuy không phù hợp với ý đồ của tác giả, nhưng vẫn có căn cứ trong tác phẩm. Điều đó chí ít có thể giải thích bằng đặc trưng của nghệ thuật. Nghệ sĩ nói chung, nhà văn nói riêng, không chứng minh mà mô tả. Hình ảnh mà họ đan dệt nên sinh động, đa diện. Nhìn ỏ góc độ khác, người đọc có thể phát hiện ra những khía cạnh mà vốn tác giả không nghĩ đến. Nguyễn Du tuyên bố: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, nhưng người đọc qua Truyện Kiều lại thấy xã hội phong kiến chà đạp lên quyền sống con người. Sức mạnh của văn học nghệ thuật, còn chính là nhờ sự tiếp nhận mang tính sáng tạo này. Nguyễn Du chỉ mô tả một nàng Kiều nhưng có đến hàng triệu nàng Kiều không giống nhau trong bao thế hệ bạn đọc. Nói cho cùng, ý nghĩa xã hội của văn học nghệ thuật, tác dụng của nó đốỉ với nhiều thế hệ công chúng xét trên thực tế, chính là được diễn ra với sự ngộ nhận, nói đúng hơn là sự “chính ngộ” liên tục này. Về điểm này, cần cân nhắc lại một ý kiến của Mác: “Hình thức lý giải không chính xác, lại chính là hình thức phổ biến, hơn nữa là hình thức thích hợp với sự ứng dụng phổ biến trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội” (Thư gửi Látxan).
Vấn đề ở đây là bàn đến nhiều quan hệ khác nhau, nhưng một vế của những quan hệ đó lại là duy nhất, cố định. Tuy phát sinh nhiều quan hệ với B, C, D, v.v... và với vô cùng, nhưng A vẫn là A đấy thôi. Tác phẩm vẫn là tác phẩm đó. Nhân vật vẫn là con người này. Một ngàn chàng Hamlét, hiển nhiên là không hoàn toàn giống nhau, nhưng vẫn là Hamlét. Một triệu nàng Kiểu, vẫn là Kiềụ. Cảm thụ hình ảnh nàng thế nào mà ra Hoạn Thư, Tú Bà, thì như thế đã từ chính ngộ chuyển sang phản ngộ. Phản ngộ là sự tiếp nhận tùy tiện, thậm chí cắt xén, xuyên tạc, không có căn cứ trong tác phẩm
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
15
Và nếu biểu hiện của “chính ngộ” là muôn màu muôn vẻ, thì nguyên nhân của sự “phản ngộ” cũng hết sức phức tạp. Đó có thể là do động cơ, tâm thế, hoặc “tầm đón” kỳ quặc, hoặc quá ư cao siêu hay dưới mức tầm thường, v.v... Ở đây chỉ muốn lưu ý đến hai biên độ của nó. Đó là sự cố ý, hơn nữa là sự cố ý của những thế lực chính trị chuyên chế hà khắc. Biên độ thứ hai là sự vô tình. Nhưng vô tình cũng có nhiều loại. Nhưng loại “vô tình” phổ biến nhất là do thật tình không hiểu hết đặc trưng của văn học vốn là một lĩnh vực hết sức kỳ diệu và tinh tế của tâm hồn con người. Muốn tiếp cận nó phải từ nhiều bình diện, nhiều cấp độ, nhiều quan hệ, v.v... cho nên không có gì lạ ngay những người sành sỏi, cũng có khi vấp váp như thường.
1.2.1.3. Trạng thái thông thường mà tốt đẹp trong mối quan hệ giữa sáng
tác và tiếp nhận
Nói “thông thường” tức là chỉ được xét ở mức trung bình lý tưởng, nghĩa là ở trong trạng thái thông thường phổ biến, nhưng không bao giờ tự thỏa mãn, mà luôn luôn biết vươn lên cái tốt đẹp hơn. Cũng không bàn sáng tác và tiếp nhận một cách cô lập, mà là trong sự tương tác với nhau.
Nhìn thêm từ phía tiếp nhận, sẽ thấy rõ hơn sáng tác không thể chỉ viết cho mình, hoặc cầu kỳ, bí hiểm, tắc tị, hoặc quá cao siêu vượt quá “tầm đón” của công chúng. Sáng tác phải được hành chức như một lời tâm sự, một dịp tâm tình, một thông điệp thẩm mỹ, nó phải được công chúng tiếp nhận, mới trở thành một sản phẩm xã hội. Nếu không, nghĩa là người ta không muốn nghe, thậm chí rất muốn nghe, muốn xem nhưng không thể tiếp nhận được gì, thì tác phẩm chẳng qua chỉ là một bức thư không địa chỉ. Ngược lại, nhưng cũng bị liệt ra khỏi tầm đón của công chúng là những sáng tác rất dễ hiểu, vì cũ kỹ, nhàm chán, không ai thèm xem, rốt cục cũng bị ném trả về để rồi tự phong kín lại, trở thành một phế phẩm tinh thần, còn thua cả chất thải trong sản xuất vật chất. Như thế, để tạo tiền đề tốt đẹp cho sự tiếp nhận, thì sáng tác phải nói như Viên Mai: “Xuất nhân chi ý ngoại giả, nhưng tu tại nhân ý chi trung” (Cái nói ra phải hơi bất ngờ với người khác, nhưng rồi vẫn nằm trong ý của họ - Tùy Viên thi thoại). Nếu nói những điều ta hiểu ngay, mới lật trang đầu, mới liếc cảnh đầu, người ta đoán biết tất cả, lập tức sẽ gây nên cảm giác: “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Đọc Những người khốn khổ của Vícto Huygô, mấy ai có thể đoán trước được rằng tên tù khổ sai vượt ngục có thói ăn cắp kia lại có thể trở thành ông thị trưởng Mađơlen giàu đức độ vị tha, còn tên chó săn Giave, lương tâm bỗng trỗi dậy, nhảy xuống sông tự tử?
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
16
Tác phẩm phải nói những gì buộc công chúng phải ngẫm nghĩ mới hiểu, khi hiểu rồi mới cảm thấy mở mang, thú vị. Đây không hề mà cũng không nên là những thứ khó hiểu đến mức không thể nào hiểu được, hoặc cố hiểu ra rồi, thì thấy cầu kỳ, rỗng tuếch, vô vị. Hấp dẫn nhưng hiểu được. Hiểu được nhưng phải hấp dẫn. Đó là biện chứng trong phẩm chất của tác phẩm, nhìn từ phía tiếp nhận. Tương ứng với phẩm chất nói trên, trong sáng tác, công chúng phải làm sao cho động cơ, tâm thế, tựu trung lại là có một tầm đón tổng hợp trong từng trường hợp cụ thể, có thể không rơi vào tình trạng “phản ngộ”, hoặc thậm chí “vô cảm”. Nói theo ngôn ngữ của Giải thích học và Mỹ học tiếp nhận thì đứng trước một văn bản nghệ thuật, công chúng làm sao có cho được một sự “tiền lý giải” (lý giải thoạt tiên, sơ bộ) khả dĩ có thể “đối thoại” được với ý đồ của tác giả nhất là với hàm ý khách quan trong văn bản. Trong quá trình “đối thoại” đó, một mặt phải luôn luôn có ý thức mở rộng tầm đón để thấu hiểu cho hết hàm ý của văn bản. Điều này không hề mâu thuẫn mà còn đòi hỏi tính sáng tạo trong tiếp nhận, chí ít là không thể không phát huy óc tưởng tượng. Hơn nữa, hiểu đúng hàm ý của văn bản, nhất là với những tác phẩm ưu tú, chưa cần nói đến những kiệt tác, đâu phải dễ. Nó không hề là kết quả của những tầm đón xơ cứng, chai lỳ, mà phải là những tầm đón đầy tính chủ động sáng tạo.
Tóm lại, sự diễn biến thông thưòng mà tốt đẹp của sự tiếp nhận những tác phẩm đích thực là văn học, bao giờ cũng được mở đầu bằng một tầm đón không chứa đựng mầm mống của sự “phản ngộ” và kết thúc bằng sự mở rộng và nâng cao của chính tầm đón ấy.
1.2.2. Hiệu quả của tiếp nhận văn học Sự tiếp nhận của bạn đọc đốỉ với một tác phẩm văn học, dù hiệu quả cao nhất cũng có thể ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, đỉnh cao của sự tiếp nhận, có thể thấy theo những nấc thang như sau:
1.2.2.1. Đồng cảm Đồng cảm theo nghĩa rộng, chỉ những xúc động tương đồng hoặc gần gũi của bạn đọc ở những giai cấp, dân tộc, thời đại khác nhau đối với cùng một tác phẩm. Nhưng theo nghĩa trực diện ở đây, chỉ sự xúc động của bạn đọc đốỉ với những tư tưởng, tình cảm lý tưởng và nguyện vọng được bộc lộ qua số phận của nhân vật hay nhân tình thế thái nói chung trong tác phẩm, khiến cho họ yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
17
Đồng cảm cũng có thể mang những sắc thái nội dung khác nhau. Trước hết là sự đồng cảm về tư tưởng quan niệm.Ở đây có sự tương thông về tư tưởng quan niệm giữa tác phẩm và người đọc. Lại có sự đồng cảm trực tiếp ngay về tình cảm. Điều này thường xảy ra vì sự tương đồng về tình cảm giữa người đọc và nhân vật. Cũng có thể kể thêm theo chiều hướng liệt kê đó như đồng cảm về chí hướng, v.v... vì ở đây có sự giống nhau hoặc gần gũi giữa độc giả với tác giả hoặc nhân vật. Nhưng có thể có sự đồng cảm không do sự tương đồng hoặc tương cận như vậy. Chẳng hạn như sự đồng cảm không cùng về cảnh ngộ. Cảnh ngộ khác nhau, nhưng vẫn có sự đồng cảm như thường. Đọc đến cảnh bán con, bán chó trong Tắt đèn hoặc những câu trong Truyện Kiều như: “Xưa sao phong gấm rủ là - Giờ sao tan tác như hoa giữa đường” ai mà không đồng tình thương cảm, mặc dù chưa trải qua cảnh ngộ đó bao giờ. Dù với bất cứ sắc thái nào khi có được sự đồng cảm là đã mở đầu cho sự tiếp nhận đạt đến đỉnh cao.
1.2.2.2. Thanh lọc Khái niệm “thanh lọc” bắt nguồn từ Aristôt. Thanh lọc là kết quả của việc người đọc thâm nhập được vào thế giới tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, và từ trong xúc động, cảm thấy tâm hồn được điều tiết hài hòa và được mở rộng, nâng cao.
Như thế, nếu đồng cảm là người đọc đồng cảm với nội dung tác phẩm thì trong thanh lọc, người đọc chịu sự tác động trở lại đối với chính tâm hồn mình. Thanh lọc cũng có hai mặt tuy xuyên thấm vào nhau, nhưng cũng có thể tạm phân biệt như sau: Một là sự cân bằng hài hòa trở lại về mặt tâm lý do sức mạnh tình cảm thẩm mỹ của tác phẩm đem lại. Hai là sự mở rộng và nâng cao tâm hồn và nhân cách bởi những tình cảm đạo đức của tác phẩm.
1.2.2.3. Bừng tỉnh Trên cơ sở của sự đồng cảm và thanh lọc, nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp chân lý của tác phẩm, liên hệ với thế thái nhân tình, bỗng nhận ra thêm một khía cạnh nào đó về triết lý có ý vị nhân sinh, thì đó là bừng tỉnh.
Những kiệt tác văn học, sản phẩm của những đại văn hào kiêm tư tưởng gia, vốn ẩn tàng những chân lý sâu sắc về cuộc đời, chỉ cố công là phát hiện ra được. Ví dụ Phauxt của Gơt hàm chứa những lớp nghĩa rất đa dạng nhưng nếu ai nghiên cứu sâu, cũng đều phát hiện ra điều này: càng dấn thân vào cuộc sống, thì càng được bù đắp và hưởng thụ. Tuy nhiên, nói chung, bừng tỉnh thấm đượm tính tích cực sáng tạo rõ nhất trong hoạt động tiếp nhận. Chính ở đây thường bộc lộ
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
18
những điều mà chưa chắc vốn tác giả đã nghĩ như vậy, và cũng do đó sự “bừng tỉnh” vẫn rất khác nhau ở mỗi người, là điều dễ hiểu.
1.2.2.4. Ghi tạc Ghi tạc tức là ghi lòng tạc dạ, nhớ đời. Nhưng đây không hề là một cấp độ cao hơn, mà chỉ là chiều sâu hơn. Cũng có thể chỉ là đồng cảm thanh lọc và bừng tỉnh đó thôi, nhưng vì xúc động mãnh liệt, để lại ấn tượng sâu sắc mãi không phai mờ, thì đó là ghi tạc. Tất nhiên đã đồng cảm, thanh lọc, bừng tỉnh, thì cũng không thể chóng quên, nhưng ghi tạc thì lâu bền hơn. Cũng tất nhiên độ lâu bền của ghi tạc vẫn có thể khác nhau tùy trường hợp cụ thể, và “nhớ đòi” cũng chỉ là một cách nói, chứ trên cõi đời này, rất hiếm thấy những cái gì vĩnh viễn. Cũng không cần phải nói hiệu quả “ghi tạc” này chỉ có thể xảy ra trong việc đọc những kiệt tác. Để kết thúc vắn tắt, cần lưu ý rằng những hiện tượng như đồng cảm, thanh lọc, bừng tỉnh, ghi tạc ở đây, chỉ là vạch ra những trạng thái tâm lý trong tiếp nhận mang tính chất trung tính. Bởi vì người đọc vẫn có thể, chẳng hạn đồng cảm, thanh lọc, bừng tỉnh, ghi tạc bởi những tác phẩm bi lụy, phản nhân văn, phản tiến hóa. Cho nên đổi mới, thì phải đi sâu vào thế giới nghệ thuật, và càng đi sâu, thì càng thăm thẳm nhưng chớ bao giờ song hành với cái động cơ “giải trừ ý thức hệ”, “phi lý tưởng hóa”, “phi đạo đức hóa”.
1.3. Tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn học 1.3.1. Mối quan hệ giữa các thành tố trong quá trình tiếp nhận văn học Có sáng tạo văn học là có tiếp nhận văn học, dĩ nhiên là sáng tạo phải đi trước một bước để tạo thành văn bản. Sau đó, văn bản được chuyển đến người đọc, được người đọc tiếp nhận, bình giá thì nó mới trở thành tác phẩm. Cứ như vậy, tác phẩm văn học liên tục được làm đầy những giá trị chỉnh thể của chúng từ những tầm đón nhận và tầm đón đợi của nhiều thế hệ người đọc. Có nghĩa là người đọc đồng sáng tạo từ nhiều góc nhìn, nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau và từ bản chất tự trị vốn có của tác phẩm, họ có thể cung cấp nhiều ý nghĩa và giá trị mới khác cho tác phẩm. Những ý nghĩa và giá trị mới ấy, quả thật trong khi sáng tác, tác giả chưa nghĩ đến hoặc chưa tin rằng, chúng lại được người đọc phát hiện thú vị như vậy.
Nói như vậy, không phải lúc nào người đọc cũng có thể mãi làm đầy những giá trị mới cho tác phẩm. Nó chỉ đúng và có giá trị trong giới hạn cho phép mà tác phẩm gợi mở, vẫy gọi. Điều đó có nghĩa là những phát hiện chủ quan, võ đoán ngoài văn bản hay rất xa với nghĩa gốc của văn bản mà người tiếp nhận gán cho
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
19
sẽ không được thừa nhận. Từ mối quan hệ bản chất như trên của quá trình sáng tạo và thưởng thức văn học, đã làm xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau trong lịch sử tiếp nhận văn học. Quan niệm truyền thống đề cao vai trò của chủ thể sáng tạo, trao cho họ một khả năng và phạm vi rất rộng trong việc làm chủ tác phẩm, tạo nghĩa cho tác phẩm. Đến các nhà mỹ học tiếp nhận hiện đại, họ lại chuyển vai trò trên cho người đọc, xem người đọc là nhân tố quan trọng trong quá trình tạo nghĩa cho tác phẩm. Và khi ấy, tác giả xem như đã hết vai trò trọng yếu của mình. Và quan niệm này được nhiều nhà mỹ học và lý luận văn học phương Tây đồng tình. Nhưng qua thực tiễn của quá trình sáng tạo hiện nay, đặc biệt là với chủ nghĩa hậu hiện đại, thì những định vị trên có sự lung lay. Và có nhiều ý kiến cho rằng, với sự tìm tòi, thể nghiệm liên tục của văn học hậu hiện đại, người đọc không kịp hoặc không thể nhận ra những giá trị bản chất của tác phẩm. Chính vì thế, nên chăng, phải điều chỉnh lại mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận văn học. Và phải trao cho tác giả cái quyền định đoạt giá trị tác phẩm của mình ít nhất là ngang, nếu không muốn nói là cao hơn độc giả. Xem ra, ý kiến này trong tình hình văn học thế giới hiện nay, có thể điều hòa được hai quan niệm nói trên. Có nghĩa là tác giả và độc giả đều có vai trò cộng hưởng quan trọng của mình trong quá trình hoạt động văn học mà ở đây, tác phẩm văn học là đối tượng trung tâm của quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học.
Muốn xác định vai trò quan trọng đích thực của người đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận, thì cần phải có cách nhìn hệ thống theo quan điểm biện chứng. Muốn xác định vai trò quan trọng đích thực của người đọc trong tiếp nhận phải lấy vai trò của sáng tác làm biên độ. Trước hết chính sáng tác đã cung cấp những văn bản tác phẩm làm đối tượng cho sự tiếp nhận của người đọc. Văn bản, nếu nói chỉ trực quan thì chỉ thấy đó là một cấu trúc những ký hiệu chặt chẽ, liên tục, nhưng đằng sau đó là một thế giới nghệ thuật chan chứa tư tưởng, tình cảm của tác giả. Như thế văn bản tác phẩm là kết quả sự hình thức hóa, phù hiệu hóa, vật chất hóa những suy tư, chiêm nghiệm của nhà văn về nhân tâm thế sự,v.v...
Nhưng tác động của sáng tác đối với tiếp nhận không phải chỉ có thế. Sáng tác còn có thể tạo ra những nhu cầu mới cho bạn đọc, hoặc thậm chí cả bạn đọc mới. Mác nói: “Tác phẩm nghệ thuật mà mọi sản phẩm cũng thế có thể tạo ra công chúng sính nghệ thuật, biết thưởng thức cái đẹp. Cho nên, sản xuất không những sản xuất ra đối tượng cho chủ thể, mà còn sản xuất ra chủ thể chọ đối tượng” (Lời nói đầu Góp phần phê phán chính trị kinh tế học). Ví dụ truyện trinh
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
20
thám sẽ tạo ra một công chúng nghiện truyện trinh thám. Trong đám công chúng ấy, có thể có loại vốn chỉ biết say mê chuyện tình yêu, nhưng nay đã thêm một say mê mới, nghĩa là họ đã tự khác với mình trước đây. Cũng có loại vốn trước đây không hề thích đọc bất cứ loại tác phẩm nào cả, nay lại rất thích đọc truyện trinh thám. Dù trong trường hợp nào thì cũng góp phần chứng minh rằng sáng tác không những cung cấp những tác phẩm mới cho bạn đọc vốn có, mà còn tạo ra được những bạn đọc mới cho tác phẩm của mình. Mặt khác sáng tác còn quy định phương thức tiếp nhận. Nếu đó là “văn bản nói” (văn học truyền miệng) thì người tiếp nhận có thể là một tập thể cùng nghe. Nếu đó là hình thức “văn bản viết” thì người tiêu thụ có thể đọc cá nhân. Nếu đó là kịch bản sân khấu, điện ảnh hoăc truyền hình, truyền thanh, thì tùy loại mà sự tiếp nhận thiên về tập thể hoặc cá nhân, v.v... Nói đến vai trò chi phối của sáng tác đối với sự tiếp nhận như trên, không hề hạ thấp vai trò tiếp nhận của người đọc mà hoàn toàn ngược lại là nhằm tạo tiền đề để chứng minh tầm quan trọng đích thực của vai trò đó. Đối ứng được với một cái rất quan trọng, mới thực sự bộc lộ được hết vai trò của mình. Quả vậy, mặc dù không có sáng tác của nhà văn, thì lấy gì mà tiếp nhận, và người đọc, do đó cũng không tồn tại, nhưng nếu không có người đọc tiếp nhận, thì sáng tác để làm gì, và do đó nhà văn cũng mất lý do tồn tại.
Sự phản tác động của người đọc đối với lẽ tồn tại của người sáng tác, không phải chỉ diễn ra từ khi xuất hiện nhà in, nhà xuất bản, cơ quan phát hành, và sản phẩm văn học đã biến thành hàng hóa đặc biệt lưu thông trên thị trường. Thời cổ Hy Lạp, những nhà thơ thường phải đi ngâm thơ mình trên những sân khấu lộ thiên hình bán nguyệt cho công chúng nghe. Ở Nhật Bản thời tiền báo chí các nhà thơ, nhà tiểu thuyết khi viết xong tác phẩm, in thủ công được một ít, thường phải đem rao bán trước công chúng bằng cách tóm tắt nội dung nhấn mạnh những chi tiết hay, v.v... Qua đó đủ thấy, người sáng tác cần bạn đọc đến mức nào. Tất nhiên không phải lúc nào nhà văn cũng có thể và cần thiết tự truyền bá tác phẩm của mình, mà có khi thông qua “môi giới”. Thời trung đại, Âu cũng như Á, đều có những người hành nghề “thuyết thoại nhân” hoặc “người ngâm thơ lang thang”, v.v..., qua họ tác phẩm dứt khoát đã tìm đến được với công chúng, dù là gián tiếp. Dù không trực tiếp kiếm tiền, nhưng tác giả vẫn thực hiện được thiên chức xã hội của mình với tư cách là những người sản xuất tinh thần. Văn thơ tác động đến xã hội, đến cộng đồng gián tiếp qua việc bồi dưỡng và nâng cao tâm hồn con người. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi những điều tâm huyết mà nhà văn gửi
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
21
gắm trong tác phẩm được người đọc tiếp nhận. Những hình tượng tinh thần trong tác phẩm khi tham gia vào thế giới tinh thần của công chúng bạn đọc, mới biến thành một yếu tố trong đời sống ý thức xã hội.
Vai trò của người đọc không những chỉ thể hiện sau khi tác phẩm đã ra đời, mà thật ra đã bắt đầu ngay khi nhà văn thai nghén, và trong suốt quá trình hình thành tác phẩm. Quả vậy tác phẩm mới thai nghén đã làm gì có người đọc thực tế nhưng thật ra họ không hề vắng bóng trong tâm tưởng của nhà văn với những nhu cầu, thị hiếu, động cơ, tâm thế, tầm đón, điều kiện và hoàn cảnh thưởng thức của mình. Hồ Chủ tịch nêu vấn đề một cách giản dị mà xác đáng là “Viết cho ai?” (đối tượng của sáng tác đồng thời là chủ thể của tiếp nhận), và từ đó nảy ra hàng loạt vấn đề “Viết để làm gì?” (mục đích), “Viết cái gì?”(nội dung). Và cả vấn đề “Viết như thế nào?” (hình thức) nữa; tất nhiên là hình thức trong mối quan hệ biện chứng vối nội dung, nhưng tự nó cũng hàm chứa một nội dung phong phú và phức tạp. Ở đây chỉ muốn nói rằng, nếu quả sáng tác quy định phương thức tiếp nhận, thì tiếp nhận, cũng chi phối trở lại phương thức và hình thức sáng tác. Ví dụ trong nhịp sống siêu tốc của xã hội hậu công nghiệp, công chúng không có thì giờ và hứng thú đọc những tiểu thuyết trường giang, thì không thể không suy nghĩ đến những dạng tác phẩm với quy mô vừa và ngắn, và chuyển dịch các tác phẩm dài hơi sang hình tượng của nghệ thuật nghe nhìn, v.v...
Người đọc không những làm phong phú mà còn là người sàng lọc và bảo tồn tác phẩm văn học về mặt chất lượng. Người đọc tiếp nhận tác phẩm luôn luôn song hành với loại bỏ. Tất nhiên tiếp nhận và loại bỏ của người đọc là thiên hình vạn trạng. Có tiếp nhận và loại bỏ đồng đại - có tác phẩm trong cùng một lúc được số người này tiếp nhận, số người khác hờ hững. Có tiếp nhận và loại bỏ lịch đại: có tác phẩm lúc này được tiếp nhận, lúc khác bị lãng quên. Có tiếp nhận và loại bỏ hoặc thiên về nội dung, hoặc thiên về hình thức, v.v... Nhưng nhìn tổng quát nhất, có những dạng thái chính như sau: bảo tồn và đào thải, chọn lựa và cự tuyệt, hấp thụ có phê phán.
Qua những khâu sàng lọc nói trên của người đọc, những tác phẩm thật sự có chất lượng sẽ còn lại với thời gian. Tất nhiên việc sàng lọc này không xuôi chiều, không thể không nói đến số phận thăng trầm của những kiệt tác. Có tác phẩm mới ra đời, bị lạnh nhạt, nhưng càng về sau mới được khẳng định là kiệt tác, hoặc vốn cũng được chào đón ngay từ đầu, nhưng được đánh giá rất khác nhau của người đọc qua các thời đại. Những kiệt tác là vĩnh tồn, với thời gian,
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
22
nhưng chính là phải qua sự sàng lọc của người đọc. Chỉ có công chúng bạn đọc, mới thực sự chuyển hóa những giá trị tinh thần trong những tác phẩm ấy, trở thành những động lực tình cảm trong tiến trình lịch sử.
1.3.2. Động cơ của quá trình tiếp nhận văn học Không tách rời mà còn giao thoa với tầm đón nhận là động cơ tiếp nhận. Cuộc sống phong phú, văn học lại đa dạng, động cơ tiếp nhận của bạn đọc vốn đã không giống nhau, nhất là khi đứng trước tác phẩm cụ thể, lại càng khác biệt. Tuy vậy có thể khái quát vào các mặt sau:
- Muốn được hưởng thụ và bồi đắp những tình cảm thẩm mỹ: Đây là động cơ toàn diện và phổ biến nhất. Đến với tác phẩm văn học, con người muốn được qua cách nhìn cao đẹp trong tâm hồn của nhà văn, giúp mở rộng và nâng cao tâm hồn của mình, hướng về những cái cao đẹp hoàn thiện, biết rung động trước chân lý của thời đại, vận mệnh của đất nước, số phận của con người. Trong niềm xúc động và hưởng thụ đó, có sự thưởng ngoạn đối với cái đẹp của văn bản tác phẩm. Đó là sự chọn lựa và cấu trúc khéo léo những hình ảnh sinh động những ngôn từ giàu sắc thái tình cảm và nhạc điệu, v.v...
- Muốn được mở mang trí tuệ: Quả là không nhiều, nhưng cũng không ít người, nhất là trong những trường hợp nhất định, muốn qua tác phẩm văn học để hiểu biết thêm quy luật của lịch sử, bản chất của xã hội, các trạng thái đời sống của nhân loại, cùng tri thức trong nhiều lĩnh vực khác. Mác, Ăngghen, Lênin... thường chú ý những nội dung văn học liên quan đến đời sống chính trị, nhất là với công cuộc đấu tranh cách mạng. Cũng có nhiều bạn đọc, vì nghề nghiệp chuyên môn của mình, nhất là các nhà khoa học, muốn qua tác phẩm văn học để tìm hiểu thêm về phong tục tập quán, đặc sắc văn hóa của các quốc gia dân tộc trong những thời kỳ khác nhau, v.v...
- Muốn được bồi dưỡng thêm về tư tưởng, đạo đức, lý tưởng: Trong cuộc sống, nhất là thời trai trẻ, con người luôn luôn băn khoăn muốn xây dựng một lẽ sống, một thái độ nhân sinh, để mà kiên định suốt cuộc đời, hoặc là trong những lúc có những va động lớn lao và phức tạp trong xã hội, con người giằng xé trong nội tâm, như muốn tìm ra một lối thoát. Những lúc như vậy, con người thường muốn đến với tác phẩm văn học, nhất là những kiệt tác để tìm một lời giải đáp từ triết lý nhân sinh đến đạo đức đời thường, v.v...
- Muốn học hỏi kinh nghiệm: Điều này thường thấy ở chính các nhà văn, nhất là những nhà văn trẻ, khi mới bước vào nghề, họ thường có ýthức học hỏi
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
23
các bậc đàn anh, nhất là những nhà văn với những kiệt tác đã trở thành thần tượng một thời. Nhưng ngay những nhà văn đã có quá trình và thành tựu, không những họ chú ý học tập các kiệt tác, mà còn quan tâm đến từng mặt thành công của các bạn đồng nghiệp, thậm chí còn không quên rút kinh nghiệm cả những mặt thất bại nữa.
- Đọc để phân tích, nhận xét, đánh giá: Đây là mục đích đọc của các nhà nghiên cứu phê bình, mặc dù không có gì cản trỏ những động cơ của người đọc bình thường ở họ. Nhưng do nhiệm vụ chuyên nghiệp, họ đến với tác phẩm, trên cơ sở cảm thụ, thưởng thức, sẽ mổ xẻ phân tích cấu trúc về hai mặt nội dung và hình thức của nó, sẽ liên hệ với hiện thực và ý thức của thời đại cùng những truyền thống của dân tộc và nhân loại, rồi nhận xét đúc rút ra giá trị xã hội và thẩm mỹ, nhân sinh và văn hóa cùng vị trí của nó trong dòng chảy của văn học đương thời, cũng như trong cả lịch sử văn học dân tộc.
Thật ra các loại động cơ đọc nói trên không phải hoàn toàn biệt lập nhau, chỉ là những trọng điểm chú ý khác nhau mà thôi. Dù sao, vối những trọng điểm khác nhau như vậy, người đọc sẽ tìm đến với những loại tác phẩm không hoàn toàn giống nhau, hoặc ngay đối với cùng một tác phẩm cũng sẽ tiếp cận với những phương diện có phần khác nhau. Tuy nhiên, những tác phẩm ưu tú, nhất là những kiệt tác, đều có thể thỏa mãn tất cả những loại động cơ khai thác đó.
1.3.3. Vận dụng mĩ học tiếp nhận có sáng tạo vào việc dạy cảm thụ tác
phẩm văn học
Việc dạy - học văn hoàn toàn nằm trong quỹ đạo của tiếp nhận văn học. Nó tạo nên những chu trình tiếp nhận văn học gồm các vòng tròn giao tiếp với nhau thành một chuỗi. Tiếp nhận văn học trong nhà trường khác với tiếp nhận văn học ngoài xã hội. Ngoài xã hội, đối tượng của tiếp nhận văn học là tất cả các tác phẩm văn học được lưu hành không có tính định hướng. Trong nhà trường, đối tượng của tiếp nhận văn học là một số tác phẩm tiêu biểu đặc sắc được chọn lọc, tinh tuyển, có tính định hướng cao. Ngoài xã hội, chủ thể tiếp nhận gồm nhiều người thuộc nhiều giới, nhiều thế hệ rất phong phú, đa dạng. Trong nhà trường, chủ thể tiếp nhận là thầy và trò, khá thuần nhất. Ngoài xã hội, việc tiếp nhận diễn ra một cách trực tiếp từ tác phẩm đến người đọc. Trong nhà trường, việc tiếp nhận diễn ra qua ba khâu: khâu đầu tiên thuộc về người soạn sách tiếp nhận văn học trong việc lựa chọn, tinh tuyển tác phẩm, khâu thứ hai thuộc về người dạy văn tiếp nhận để dạy, khâu thứ ba thuộc về học sinh, sinh viên tiếp nhận văn học để
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
24
học. Ba khâu này là quá trình tiếp nhận văn học trong nhà trường. Mặc dù cùng tiếp nhận văn học, nhưng chủ thể tiếp nhận văn học ở từng khâu lại có phần khác nhau về trình độ, mức độ, về động cơ và mục đích tiếp nhận. Chủ thể tiếp nhận ở khâu thứ nhất có trình độ thẩm định giá trị văn chương ở mức độ khá cao mới tinh tuyển được tác phẩm đặc sắc. Chủ thể tiếp nhận ở khâu thứ hai phải có phương pháp tiếp nhận tốt và phương pháp truyền thụ sắc sảo thì mới dạy được. Điều mà lúc sinh thời, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần nói “thầy ra thầy, trò ra trò” chính là thầy phải có vốn tri thức chuyên môn (kể cả tri thức về phương pháp) là 10 thì mới dạy cho học sinh chỉ có vốn tri thức 1 hoặc 2 hay 3 được. Nếu tri thức của học sinh là 3 và tri thức của thầy cũng chỉ là 3 “bình thông” nhau thì không thể diễn ra hiện tượng dạy và học. Vì vậy, đối với người giáo viên dạy văn phải có vốn tri thức giỏi và không ngừng tìm tòi, đổi mới phương pháp để hiểu và vận dụng lý thuyết tiếp nhận văn học vào việc nâng cao chất lượng dạy - học. Người thầy dạy văn phải hiểu biết - khám phá - sáng tạo để gợi ra nhiều cách cho sự tiếp nhận đáng khích lệ của học sinh.
Muốn cho học sinh có được tính tích cực, chủ động, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo thì trước hết người thầy phải tích cực, chủ động trong việc tìm tòi, đổi mới phương pháp. Không thể dùng hàng trăm câu hỏi hay hàng chục tấm hình trong một tiết dạy - học văn để phát huy tính tích cực tiếp nhận văn học của học sinh. Nếu dùng hàng chục hay hàng trăm câu hỏi trong một tiết dạy văn dù câu hỏi hay đến bao nhiêu sẽ làm cho tác phẩm bị cắt xẻ, phá nát chỉnh thể tác phẩm. Nếu dùng hình ảnh quá nhiều trong một tiết dạy văn thì dễ gây cảm giác nhàm chán bởi trực quan của dạy- học văn chủ yếu bằng lời chứ không phải bằng hình họa. Điều quan trọng là phải đổi mới phương pháp nhằm tạo được sức gợi lớn. Các môn học khác, thầy dạy chỉ cần gợi hiểu, riêng môn văn, bên cạnh việc gợi hiểu, thầy dạy còn phải gợi cảm để cho học sinh cảm nhận, tiếp nhận cái hay - cái đẹp của văn chương. Từ đó khơi dậy trong lòng học sinh những tình cảm trong sáng, những khát vọng cao đẹp, những ước mơ chân chính. Như vậy, tiếp nhận văn học không đồng nghĩa hoàn toàn với sự thu nhận, sự nắm bắt, sự dung nạp thường mà nó là sự tiếp nhận bằng cả những rung cảm, khoái cảm thẩm mỹ để thưởng thức một cách chủ động và tự giác nhất của chủ thể tiếp nhận.
Mỹ học tiếp nhận đã khám phá ra hai quy luật: Quy luật tiếp nhận không đồng đều về một tác phẩm do tầm đón nhận khác nhau của người đọc. Quy luật tồn tại của những kiệt tác do những khoảng cách thẩm mỹ.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
25
Tiếp nhận văn học diễn ra như là một HOẠT ĐỘNG CỦA CẢM THỤ VÀ TRÍ TUỆ để “chiếm lĩnh” chỉnh thể tác phẩm trong tính toàn vẹn của nó. Nhưng chỉnh thể không phải là cái chung chung, trừu tượng. Chỉnh thể được tạo nên bởi hệ thống. Hệ thống được tạo nên bởi các yếu tố. Nên việc tiếp nhận văn học không thể bỏ qua MỐI QUAN HỆ giữa các yếu tố với chỉnh thể tác phẩm. Tác phẩm văn học luôn có sự QUY TỤ CỦA NHIỀU MỐI QUAN HỆ (quan hệ giữa chủ thể sáng tạo với chủ thể tiếp nhận, cái riêng và cái chung; cái cụ thể với cái khái quát, cảm xúc với lý trí, thực tại với ước mơ,…). Cái hay, cái đẹp của chỉnh thể tác phẩm văn chương được tạo nên bằng cái hay, cái đẹp của những yếu tố trong tác phẩm. Có khi một từ, một chữ cũng làm nên vẻ đẹp của một bài thơ:
“Hướng về anh MỘT phương” (“Sóng” của Xuân Quỳnh)
Tuy số từ “MỘT” không được tạo dựng bằng phép “thôi- xao”, nên không phải là “nhãn tự”- điểm sáng thẩm mỹ hay từ “đắc địa”, nhưng nó lại gợi được sự khám phá, sự phát hiện cho người tiếp nhận: số từ “một” như cái đinh “đóng” vào câu thơ, như cái neo để neo chặt chiếc “thuyền” chở đầy tình yêu và nỗi nhớ trên bến bờ của sự thủy chung.
Một câu thơ của Hoàng Cầm cũng đem đến cho người đọc một sự tiếp nhận
đầy sáng tạo:
“Sông Đuống trôi đi”
(“Bên kia sông Đuống”của Hoàng Cầm)
Câu thơ chỉ vẻn vẹn có bốn tiếng, rất NGẮN; nhưng nó lại diễn tả được một dòng sông rất DÀI. Đó là dòng sông chảy dài trong niềm hoài niệm của nhà thơ khi hướng lòng mình về quê hương. Nếu nhà thơ viết: “Sông Đuống đổ vào sông Hồng rồi chảy ra cửa Ba Lạt” chẳng hạn thì câu thơ DÀI mà dòng sông lại rất NGẮN bởi sông Đuống có điểm hợp lưu. Còn “Sông Đuống trôi đi” thì dài lắm bởi không có điểm “gặp” của dòng sông “trôi đi”. Mặt khác, câu thơ còn làm hiện lên hình ảnh của dòng sông Đuống ÊM ĐỀM - PHẲNG LẶNG - HIỀN HÒA chảy theo nhịp tháng ngày trong quá khứ thanh bình của quê hương.
Trong truyện ngắn “Đôi mắt” (1948), nhà văn Nam Cao (1915-1951) đã tạo dựng nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Có chi tiết nghệ thuật được gắn ngay vào, gài ngay vào ngôn ngữ của nhân vật. Tác giả để cho nhân vật nhà văn Hoàng nói về bao cái xấu của người nông dân kháng chiến ở vùng quê mà cả gia đình nhân vật nhà văn Hoàng tản cư về sống ngay nơi ấy. Một trong những cái xấu của
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
26
người nông dân mà nhân vật Hoàng vạch ra cho nhân vật nhà văn Độ thấy: “Anh tính có đời nào anh ruột tản cư về nhà em mà đến lúc vợ đẻ, em bắt ra một cái lều ngoài vườn mà đẻ”. Nói câu ấy, chứng tỏ nhân vật Hoàng chê bai, phê phán, dè bỉu, chỉ trích người em là: nông dân còn mê tín, lạc hậu, thủ cựu, CŨ KỸ. Muốn phê phán người khác CŨ KỸ thì bản thân phải có “đôi mắt” MỚI. Vậy mà “Đôi mắt” của nhân vật nhà văn Hoàng rất CŨ KỸ lại phê phán người nông dân kháng chiến là CŨ KỸ thì chẳng khác gì “Chuột chù chê khỉ rằng hôi - khỉ mới trả lời: Cả họ mày thơm” (ca dao) hay “Lươn ngắn lại chê chạch dài- thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm”. Từ đó, tiếng cười châm biếm rất kín đáo và sâu của Nam Cao mới hé lộ. Chất uymua nhẹ nhàng mà thâm thúy. Ngay việc nhà văn Nam Cao để cho nhân vật nhà văn Hoàng NÓI NHIỀU cũng tiềm ẩn chất uymua. Để nhân vật nhà văn Hoàng nói nhiều, Nam Cao đã khắc họa khá nổi bật chân dung của một loại - một dạng nhà văn “mồm miệng thay chân tay”- “nhàn cư vi bất thiện” chỉ biết nói mà không biết làm. Chất uymua kín đáo, sâu cay ở nghịch lý này: nhân vật Hoàng mang danh là một nhà văn, được nhân vật nhà văn Độ giới thiệu rằng: Hoàng là nhà văn viết từ trước cách mạng tháng Tám- 1945. Đã là nhà văn thì phải VIẾT, VIẾT, VIẾT! Không có một nhà văn nào là nhà văn NÓI cả! Tiếng cười trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn thật sự có tài Nam Cao rất thâm thúy, ý nhị. Tiếp nhận nhiều tác phẩm của Nam Cao, không thể bỏ qua các yếu tố nghệ thuật lắng đọng chất uymua rất sâu kín và thâm thúy này. Mỹ học tiếp nhận cần phải được tiếp nhận và vận dụng một cách sáng tạo trong nghiên cứu cũng như dạy-học văn chương.
Bài tập chương 1
1. Nêu cách hiểu một số khái niệm, thuật ngữ: Khoảng cách thẩm mĩ, Kết cấu vẫy gọi, Đồng nhất hóa, Tiếp nhận đồng đại và lịch đại, Tầm đón nhận, Động cơ tiếp nhận, Tâm thế tiếp nhận,
2. Phân tích vai trò của lí thuyết tiếp nhận trong nghiên cứu và giảng dạy văn
học.
3. Phân biệt giữa “chính ngộ” và “'phản ngộ” trong tiếp nhận văn học. 4. Chọn một vài tác phẩm văn học yêu thích, anh (chị) hãy phân tích diễn biến
của quá trình tiếp nhận.
5. Chọn một vài tác phẩm văn học yêu thích, anh (chị) hãy phân tích hiệu quả
của quá trình tiếp nhận.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
27
Chương 2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢM THỤ VĂN HỌC
12 tiết (LT: 6 tiết, TH: 6 tiết x 2)
Mục tiêu của chương 2: Chương này cung cấp cho sinh viên những nội dung kiến thức khái quát về cảm thụ văn học. Cụ thể: khái niệm về cảm thụ văn học (Cảm thụ văn học là gì?, cảm thụ và đọc hiểu tác phẩm văn học, các cấp độ của cảm thụ văn học); cảm thụ văn học ở tiểu học (một vài lưu ý khi cảm thụ văn học, một số biện pháp tu từ thường gặp ở tiểu học, các bước khi cảm thụ văn học); một số dạng bài tập về cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học. Từ đó, sinh viên biết vận dụng để nghiên cứu và thưc hành giảng dạy đối với các tác phẩm văn học cụ thể ở tiểu học.
Chuẩn đầu ra của chương 2: Trình bày được khái niệm về cảm thụ văn học. Phân tích được mối quan hệ giữa cảm thụ và đọc hiểu tác phẩm văn học, các cấp độ của cảm thụ văn học, một số biện pháp tu từ thường gặp ở tiểu học, các bước khi cảm thụ văn học. Xây dựng được một số dạng bài tập về cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học.
2.1. Khái niệm về cảm thụ văn học 2.1.1. Cảm thụ văn học là gì? Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (câu chuyện, bài văn, bài thơ...) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ...thậm chí một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ)
Cảm thụ văn học là quá trình tiếp nhận, hiểu, cảm được tác phẩm văn chương. Đây là một quá trình nhận thức tinh tế, phức tạp và mang tính chủ quan cá nhân rõ nét. Cảm thụ văn học càng sâu thì sẽ càng rút ra được những nhận xét, đánh giá tinh tế. Có thể nói, cơ sở của quá trình cảm thụ văn học là mối liên hệ giữa tác giả, tác phẩm và người đọc.
Như vậy, cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc (nghe) một câu chuyện, một bài thơ...ta không những hiểu mà còn phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc...Để có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế, cần có sư say mê, hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn; chịu khó tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học; nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt phục vụ cho cảm thụ văn học. Đúng như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: “ Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất xa, vẽ thêu ra lắm điều thú vị”.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
28
Năng lực cảm thụ văn học ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố qui định như: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, tình cảm và thái độ, sự nhạy cảm khi tiếp xúc với tác phẩm văn học…Ngay cả ở một người, sự cảm thụ văn học về một bài văn, bài thơ trong những thời điểm khác nhau cũng có nhiều biến đổi. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng nói: “Riêng bài ca dao “Con cò mà đi ăn đêm” thì ở mỗi độ tuổi của đời người, tôi lại cảm nhận một cái hay riêng của nó, và cho đến bây giờ, tôi cảm thấy rằng tôi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lòng thuở nhỏ ấy”. Những điều nói trên về cảm thụ văn học cho thấy: mỗi người đều có thể rèn luyện, trau dồi cách đọc để từng bước nâng cao trình độ cảm thụ văn học cho bản thân, từ đó cũng có thể có khả năng cảm nhận cuộc sống tốt hơn lên. Cảm thụ là quá trình người đọc nhập thân đầy cảm xúc vào tác phẩm, suy tư về một số các câu chữ, hình ảnh, lập luận và sống cùng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, nhân vật trữ tình hoặc của tác giả. Người cảm thụ đồng thời vừa là người tiếp nhận vừa là người phản hồi về tác phẩm. Điều này giải thích hiện tượng vì sao những người am hiểu tác phẩm luôn đọc diễn cảm nó thành công và có thể nêu được những nhận xét, suy nghĩ, cảm tưởng của mình về nó. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nông sâu khác nhau: Hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật (còn gọi là hiển ngôn), còn cảm thụ là việc hiểu sâu sắc với những xúc động, trước những gì mà ngôn từ gợi ra để nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản (còn gọi là hàm ngôn). Ví dụ (VD). Bài đọc Mùa xuân đến - Nguyễn Kiên - Sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 2, T2: “Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi, nảy lộc. Rồi vườn cây ra hoa. Hoa bưởi nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau thoảng qua. Vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khướu lắm điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm. Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong trí thơ ngây của chú còn mãi sáng ngời hình ảnh một cánh hoa mận trắng, biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới”. Để hiểu bài văn này, người đọc chỉ cần quan tâm tới các thông tin: dấu hiệu của mùa xuân, những thay đổi của bầu trời và mọi vật khi mùa xuân đến, hương vị của mỗi loài hoa xuân, vẻ riêng của mỗi loài chim…cuối cùng khái quát nội dung bài - mùa xuân làm cho cảnh vật thêm đẹp đẽ và sinh động.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
29
Nhưng để cảm thụ nó, người đọc phải có một thứ mẫn cảm riêng, có thể đó là sự nhạy cảm của tâm hồn, là sự thành tâm chú ý, là chút thắc mắc mang tính thẩm mỹ…miễn là không dễ dàng đi qua câu chữ của bài văn này. Người đọc có thể dừng lại ở đâu đó. Chỗ khiến người ta dễ chú ý ở bài văn này chính là câu văn đầu và câu văn cuối, bởi nó đã thông báo những điều khác thường. Câu đầu cho biết hoa mận có một cách thức rất khác lạ để báo hiệu mùa xuân: sự tàn lụi - hoa mận dùng cái chết của mình để báo hiệu sự bừng nở của sức sống mới, vì vậy, nó trở thành loài hoa hiếm hoi không có mặt trong mùa xuân. Câu cuối, miêu tả tâm trạng chú chim sâu (chim sâu là loài chim duy nhất trong bài được tác giả miêu tả tâm trạng). Một chữ nhưng đã đủ tạo ra sự khác biệt giữa loài chim này với các loài chim bạn: nó không vô tư, mà bị ám ảnh bởi hình ảnh cánh hoa mận trắng biết nở lúc cuối đông để báo trước mùa xuân tới. Nó biết nhớ tới một vẻ đẹp đã tàn phai, biết đánh giá ý nghĩa của vẻ đẹp ấy, đã coi vẻ đẹp ấy là bất tử. Vì vậy, có thể gọi chim sâu là tri âm của hoa mận, tuy không được góp mặt với mùa xuân, nhưng hoa mận không phải buồn tủi. Màu trắng mong manh mà chứa đựng sức sống mãnh liệt của nó sẽ được người ta trân trọng và tiếc nuối. Do vậy, mấy chữ còn mãi sáng ngời mà tác giả dùng có sức lay động sâu sắc. Đặc điểm nổi bật của quá trình cảm thụ văn học là đọc văn bản trong nhận biết và rung động. Người đọc không chỉ lĩnh hội đầy đủ các thông tin được truyền đạt mà còn sống đời sống của các nhân vật, của câu chữ, hình ảnh… Nghĩa là, nếu như tác giả sử dụng tư duy nghệ thuật để sáng tạo tác phẩm, thì người đọc cũng phải sử dụng cùng loại tư duy ấy để lĩnh hội tác phẩm. Đó chính là tư duy hình tượng, loại tư duy dựa trên cơ sở tiếp xúc cảm tính với đối tượng, làm sống dậy toàn vẹn đối tượng đó bằng nghe, nhìn, tưởng tượng, không sao chép đối tượng một cách bàng quan mà còn bao hàm thái độ của con người với chính đối tượng đó. Để đảm bảo yêu cầu của cảm thụ văn học, người đọc cũng phải thể nghiệm cùng với các nhân vật, tức là phải nhập thân bằng tưởng tượng vào các nhân vật để hình dung các biểu hiện của chúng, từ đó khái quát đặc điểm, tính cách… Người đọc cũng cần dùng tưởng tượng, trực giác để cảm nhận ý nghĩa biểu cảm của ngôn từ, từ đó chia sẻ, đồng sáng tạo với tác giả. Sở dĩ bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa được đánh giá cao là do tác giả đã biết chọn lọc từ ngữ khi miêu tả, tạo hình cho cây cối, cảnh vật ở góc sân và mảnh vườn nhà mình. Người đọc biết đánh giá là người mường tượng được các trạng thái ấy qua từ ngữ, hình ảnh. Chẳng hạn, trong hình ảnh Bụi tre
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
30
tần ngần gỡ tóc, từ tần ngần đã diễn tả tài tình dao động chậm chạp của cả búi tre trong mưa dông, thứ dao động “lừng khà lừng khừng” không giống với các loài cây khác do búi tre gồm nhiều thân cây tre tạo nên, mà Trần Đăng Khoa đã phát hiện ra. Khi sử dụng từ “tần ngần” với dụng ý nhân hóa, tác giả đã khiến cho bụi tre hiện ra như những cô gái đỏm dáng, thong thả chải từng lọn tóc dài của mình. Dùng tưởng tượng và trực giác, người cảm nhận sẽ thấm điều đó và, tất nhiên, nếu đọc thành tiếng, sẽ nhấn giọng và đọc thong thả từ tần ngần này. Quá trình cảm thụ văn học chính là việc đảm bảo hiệu quả nhất mối quan hệ giữa nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Đến với tác phẩm văn học, người đọc muốn được hưởng thụ và bồi đắp những tình cảm thẩm mỹ, muốn được mở mang trí tuệ, bồi dưỡng thêm về tư tưởng, đạo đức, lý tưởng, học hỏi kinh nghiệm sống hoặc nhận xét, đánh giá. Bằng việc cảm thụ, người đọc đã chuyển hóa văn bản thứ nhất của tác giả thành văn bản thứ hai của mình. Bởi vì, trong khi đọc tác phẩm văn học, người đọc vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng tới các hiện tượng ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lý giải của mình, mà hình dung, tưởng tượng ra các con người, sự vật, sự việc được miêu tả. Khi mối quan hệ nhà văn - tác -phẩm - bạn đọc được đảm bảo thì người đọc sẽ có được sự đồng cảm với với tác giả, khiến họ yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét. Trên cơ sở của sự đồng cảm, nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp với chân lý của tác phẩm, liên hệ với thực tế, với bản thân, sẽ đến được với những nhận thức mới. Chẳng hạn khi đọc bài ca dao cổ:
Trong đầm gì đẹp bằng Sen Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Người đọc rung động trước vẻ đẹp thanh khiết của Sen, đồng thời khi nghiền ngẫm kỹ ý nghĩa của câu cuối, sẽ nhận thức được một bài học triết lý: cây cỏ còn biết vươn lên khỏi bùn lầy, nở hoa thơm ngát, trắng trong, huống chi con người, sống trên cõi đời phức tạp này, nếu biết ý thức về phẩm giá, thì có thể bảo toàn khí tiết và nhân cách của mình trong mọi hoàn cảnh, không để “gần mực thì đen”... Cảm thụ văn học là bước cuối cùng của chặng đường đọc hiểu, là đọc hiểu ở mức độ cao nhất. Vì vậy, sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung một tác phẩm văn học hay, HS cần phát hiện tiếp các tín hiệu thẩm mỹ của văn bản nhằm tiếp cận
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
31
tác phẩm ở một mức độ cao hơn, tạo mối giao tiếp gần gũi hơn với tác giả. Các tín hiệu đó có thể rất nhỏ bé, nhưng có sức gợi tưởng tượng và liên tưởng sâu xa, đem lại những rung cảm thực sự cho người đọc. Sau khi phát hiện, bước tiếp theo là phân tích, bình giảng làm nổi bật vẻ đẹp đó để người khác có thể chia sẻ, thưởng thức. Muốn trở thành một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt, mỗi học sinh cần phải tự giác phấn đấu và rèn luyện về nhiều mặt. Kinh nghiệm của nhiều nhà văn, nhà thơ hồi nhỏ và của các bạn học sinh giỏi ở tiểu học từ trước đến nay đều cho thấy: để có được năng lực cảm thụ văn học sâu sắc và tinh tế cần có sự say mê, hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn; chịu khó tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học; nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt phục vụ cho việc cảm thụ văn học; kiên trì rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học. Đây chính là những yêu cầu nền tảng của quá trình cảm thụ văn học mà mỗi học sinh cần trang bị cho mình.
2.1.2. Cảm thụ và đọc hiểu tác phẩm văn học Đọc hiểu chính là đọc và nắm bắt thông tin. Hay nói cách khác là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Vì vậy, hiệu quả của đọc hiểu được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Muốn vậy, người đọc phải đọc văn bản một cách có ý thức, phải lĩnh hội được đích tác động của văn bản. Kết quả của đọc hiểu là: người đọc phải lĩnh hội được thông tin, hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu đoạn, bài… tức là toàn bộ những gì được đọc. Đọc hiểu là yêu cầu đặt ra cho mọi đối tượng đọc, với tất cả các kiểu loại văn bản đọc, trong đó có cả các văn bản nghệ thuật. Còn cảm thụ là yêu cầu đặt ra cho những ai đọc các văn bản nghệ thuật, đặc biệt là các văn bản hay, gây xúc động. Cảm thụ văn học (CTVH) là đọc hiểu các tác phẩm văn chương ở mức độ cao nhất, không chỉ nắm bắt thông tin mà còn phải thẩm thấu được thông tin, phân tích, đánh giá được khả năng sử dụng ngôn từ của tác giả, tạo được mối giao cảm đặc biệt giữa tác giả và bạn đọc và có thể truyền thụ cách hiểu đó cho người khác. Cảm thụ văn học có nghĩa là khi đọc (nghe) một câu chuyện, một bài thơ…người đọc không những hiểu mà còn phải có xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc… Đọc có suy ngẫm, tưởng tượng (hay liên tưởng) và rung cảm thực sự chính là người đọc biết cảm thụ văn học. Đúng như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: “Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
32
xa, vẽ thêu ra lắm điều thú vị”. Năng lực cảm thụ văn học ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố qui định như: vốn sống và hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, tình cảm và thái độ, sự nhạy cảm khi tiếp xúc với tác phẩm văn học…Ngay cả ở một người, sự cảm thụ văn học về một bài văn, bài thơ trong những thời điểm khác nhau cũng có nhiều biến đổi. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng nói: “Riêng bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm thì ở mỗi độ tuổi của đời người, tôi lại cảm nhận một cái hay riêng của nó, và cho đến bây giờ, tôi cảm thấy rằng tôi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lòng thuở nhỏ ấy”. Những điều nói trên về cảm thụ văn học cho thấy: mỗi người đều có thể rèn luyện, trau dồi cách đọc để từng bước nâng cao trình độ cảm thụ văn học cho bản thân, từ đó cũng có thể có khả năng cảm nhận cuộc sống tốt hơn lên. Đọc hiểu và cảm thụ có sự tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất nhưng không đồng nhất với nhau. Đầu tiên là đọc để nắm bắt được văn bản, làm cơ sở cho việc tìm hiểu văn bản. Hiểu nội dung tức là người đọc đã phát hiện ra các thông tin mà tác giả gửi gắm trong văn bản tác phẩm, kể cả việc nhận diện các yếu tố nghệ thuật đã được sử dụng nhằm chuyển tải thông tin tới người đọc một cách ấn tượng. Cảm thụ là quá trình người đọc nhập thân đầy cảm xúc vào tác phẩm, suy tư về một số các câu chữ, hình ảnh, lập luận và sống cùng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, nhân vật trữ tình hoặc của tác giả. Người cảm thụ đồng thời vừa là người tiếp nhận vừa là người phản hồi về tác phẩm. Điều này giải thích hiện tượng vì sao những người am hiểu tác phẩm luôn đọc diễn cảm nó thành công và có thể nêu được những nhận xét, suy nghĩ, cảm tưởng của mình về nó. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nông sâu khác nhau: chúng tôi gọi hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật (còn gọi là hiển ngôn), còn cảm thụ là việc hiểu sâu sắc với những xúc động, trước những gì mà ngôn từ gợi ra để nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản (còn gọi là hàm ngôn).
Ví dụ (VD). Bài đọc Mùa xuân đến - Nguyễn Kiên: “Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi, nảy lộc. Rồi vườn cây ra hoa. Hoa bưởi nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau thoảng qua. Vườn cây lại đầy tiếng chim và bóng chim bay nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khướu lắm điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
33
Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong trí thơ ngây của chú còn mãi sáng ngời hình ảnh một cánh hoa mận trắng, biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới”. Để hiểu bài văn này, người đọc chỉ cần quan tâm tới các thông tin: dấu hiệu của mùa xuân, những thay đổi của bầu trời và mọi vật khi mùa xuân đến, hương vị của mỗi loài hoa xuân, vẻ riêng của mỗi loài chim…cuối cùng khái quát nội dung bài - mùa xuân làm cho cảnh vật thêm đẹp đẽ và sinh động. Nhưng để cảm thụ nó, người đọc phải có một thứ mẫn cảm riêng, có thể đó là sự nhạy cảm của tâm hồn, là sự thành tâm chú ý, là chút thắc mắc mang tính thẩm mĩ…miễn là không dễ dàng đi qua câu chữ của bài văn này. Người đọc có thể dừng lại ở đâu đó. Chỗ khiến người ta dễ chú ý ở bài văn này chính là câu văn đầu và câu văn cuối, bởi nó đã thông báo những điều khác thường. Câu đầu cho biết hoa mận có một cách thức rất khác lạ để báo hiệu mùa xuân: sự tàn lụi - hoa mận dùng cái chết của mình để báo hiệu sự bừng nở của sức sống mới, vì vậy, nó trở thành loài hoa hiếm hoi không có mặt trong mùa xuân. Câu cuối, miêu tả tâm trạng chú chim sâu (chim sâu là loài chim duy nhất trong bài được tác giả miêu tả tâm trạng). Một chữ nhưng đã đủ tạo ra sự khác biệt giữa loài chim này với các loài chim bạn: nó không vô tư, mà bị ám ảnh bởi hình ảnh cánh hoa mận trắng biết nở lúc cuối đông để báo trước mùa xuân tới. Nó biết nhớ tới một vẻ đẹp đã tàn phai, biết đánh giá ý nghĩa của vẻ đẹp ấy, đã coi vẻ đẹp ấy là bất tử. Vì vậy, có thể gọi chim sâu là tri âm của hoa mận, tuy không được góp mặt với mùa xuân, nhưng hoa mận không phải buồn tủi. Màu trắng mong manh mà chứa đựng sức sống mãnh liệt của nó sẽ được người ta trân trọng và tiếc nuối. Do vậy, mấy chữ còn mãi sáng ngời mà tác giả dùng có sức lay động sâu sắc. Đặc điểm nổi bật của quá trình CTVH là đọc văn bản trong nhận biết và rung động. Người đọc không chỉ lĩnh hội đầy đủ các thông tin được truyền đạt mà còn sống đời sống của các nhân vật, của câu chữ, hình ảnh… Nghĩa là, nếu như tác giả sử dụng tư duy nghệ thuật để sáng tạo tác phẩm, thì người đọc cũng phải sử dụng cùng loại tư duy ấy để lĩnh hội tác phẩm. Đó chính là tư duy hình tượng, loại tư duy dựa trên cơ sở tiếp xúc cảm tính với đối tượng, làm sống dậy toàn vẹn đối tượng đó bằng nghe, nhìn, tưởng tượng, không sao chép đối tượng một cách bàng quan mà còn bao hàm thái độ của con người với chính đối tượng đó. Để đảm bảo yêu cầu của CTVH, người đọc cũng phải thể nghiệm cùng với các nhân vật, tức là phải nhập thân bằng tưởng tượng vào các nhân vật để
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
34
hình dung các biểu hiện của chúng, từ đó khái quát đặc điểm, tính cách… Người đọc cũng cần dùng tưởng tượng, trực giác để cảm nhận ý nghĩa biểu cảm của ngôn từ, từ đó chia sẻ, đồng sáng tạo với tác giả. Sở dĩ bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa được đánh giá cao là do tác giả đã biết chọn lọc từ ngữ khi miêu tả, tạo hình cho cây cối, cảnh vật ở góc sân và mảnh vườn nhà mình. Người đọc biết đánh giá là người mường tượng được các trạng thái ấy qua từ ngữ, hình ảnh. Chẳng hạn, trong hình ảnh Bụi tre tần ngần gỡ tóc, từ tần ngần đã diễn tả tài tình dao động chậm chạp của cả búi tre trong mưa dông, thứ dao động lừng khà lừng khừng không giống với các loài cây khác do búi tre gồm nhiều thân cây tre tạo nên, mà Trần Đăng Khoa đã phát hiện ra. Khi sử dụng từ tần ngần với dụng ý nhân hóa, tác giả đã khiến cho bụi tre hiện ra như những cô gái đỏm dáng, thong thả chải từng lọn tóc dài của mình. Dùng tưởng tượng và trực giác, người cảm nhận sẽ thấm điều đó và, tất nhiên, nếu đọc thành tiếng, sẽ nhấn giọng và đọc thong thả từ tần ngần này.
Quá trình CTVH chính là việc đảm bảo hiệu quả nhất mối quan hệ giữa nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Đến với tác phẩm văn học, người đọc muốn được hưởng thụ và bồi đắp những tình cảm thẩm mĩ, muốn được mở mang trí tuệ, bồi dưỡng thêm về tư tưởng, đạo đức, lí tưởng, học hỏi kinh nghiệm sống hoặc nhận xét, đánh giá. Bằng việc cảm thụ, người đọc đã chuyển hóa văn bản thứ nhất của tác giả thành văn bản thứ hai của mình. Bởi vì, trong khi đọc tác phẩm văn học, người đọc vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng tới các hiện tượng ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lí giải của mình, mà hình dung, tưởng tượng ra các con người, sự vật, sự việc được miêu tả. Khi mối quan hệ nhà văn - tác -phẩm - bạn đọc được đảm bảo thì người đọc sẽ có được sự đồng cảm với với tác giả, khiến họ yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét. Trên cơ sở của sự đồng cảm, nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp với chân lí của tác phẩm, liên hệ với thực tế, với bản thân, sẽ đến được với những nhận thức mới. Chẳng hạn khi đọc bài ca dao cổ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
35
Người đọc rung động trước vẻ đẹp thanh khiết của sen, đồng thời khi nghiền ngẫm kĩ ý nghĩa của câu cuối, sẽ nhận thức được một bài học triết lí: cây cỏ còn biết vươn lên khỏi bùn lầy, nở hoa thơm ngát, trắng trong, huống chi con người, sống trên cõi đời phức tạp này, nếu biết ý thức về phẩm giá, thì có thể bảo toàn khí tiết và nhân cách của mình trong mọi hoàn cảnh, không để “gần mực thì đen”...
Cảm thụ văn học là bước cuối cùng của chặng đường đọc hiểu, là đọc hiểu ở mức độ cao nhất. Vì vậy, sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung một tác phẩm văn học hay, HS cần phát hiện tiếp các tín hiệu thẩm mĩ của văn bản nhằm tiếp cận tác phẩm ở một mức độ cao hơn, tạo mối giao tiếp gần gũi hơn với tác giả. Các tín hiệu đó có thể rất nhỏ bé, nhưng có sức gợi tưởng tượng và liên tưởng sâu xa, đem lại những rung cảm thực sự cho người đọc. Sau khi phát hiện, bước tiếp theo là phân tích, bình giảng làm nổi bật vẻ đẹp đó để người khác có thể chia sẻ, thưởng thức.
2.1.3. Các cấp độ của cảm thụ văn học Đọc - hiểu và cảm thụ đều là những hoạt động thâm nhập vào tác phẩm văn chương. Chúng có sự tác động qua lại, thống nhất nhưng không đồng nhất. Có thể nói từ đọc - hiểu đến cảm thụ là một tiến trình chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật. Nếu coi đọc hiểu là bước khởi đầu, là nền móng thì cảm thụ văn học là bước cuối cùng hoàn thành quá trình thâm nhập một văn bản nghệ thuật. Đầu tiên là đọc để hiểu nội dung tác phẩm, nắm bắt các thông tin mà tác giả gửi gắm, nhận diện các yếu tố nghệ thuật đã được sử dụng nhằm chuyển tải thông tin tới người đọc một cách ấn tượng. Cảm thụ là quá trình người đọc nhập thân đầy cảm xúc vào tác phẩm, suy tư về câu chữ, hình ảnh, lập luận và sống cùng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nông sâu khác nhau: hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật, còn cảm thụ là việc nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản từ những gì mà ngôn từ gợi ra.
Có bốn cấp độ cảm thụ văn học: - Thứ nhất là cảm thụ ngôn từ: cảm thụ về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các
biện pháp tu từ;
- Thứ hai là cảm thụ hình tượng: hình tượng nhân vật, hình tượng tác giả,
chi tiết, hình ảnh, kết cấu, không gian, thời gian;
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
36
- Thứ ba là cảm thụ ý nghĩa tác phẩm: nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa tường
minh, nghĩa hàm ẩn, ý nghĩa lịch sử - xã hội, ý nghĩa nhân văn - thẩm mĩ;
- Thứ tư là cảm thụ tư tưởng của tác giả: tư tưởng, quan niệm, chính kiến
của nhà văn về con người, xã hội, đạo đức, nghệ thuật, thẩm mĩ.
- Cảm thụ ngôn từ:
Ví dụ: Các cấp độ cảm thụ bài thơ Cây dừa của Trần Đăng Khoa:
+ Dùng nhiều động từ: dang tay, gật đầu, đón, gọi, múa reo, đánh nhịp...
+ So sánh: tàu dừa - chiếc lược, quả dừa - đàn lợn con...
+ Nhân hóa: cây dừa - con người...
- Cảm thụ hình tượng: hình tượng cây dừa:
Miêu tả cây dừa chân thực, sống động mà tinh tế, ấn tượng.
+ Gắn bó chan hòa với thiên nhiên (gió, trăng, mây, nắng, đàn cò)
+ Làm công việc có ích, cao cả: canh giữ đất trời
+ Phong thái: vui tươi, chan hòa, từng trải, ung dung.
Cây dừa vừa như một người bạn hào phóng, vừa như một người lính trang
- Cảm thụ ý nghĩa tác phẩm:
nghiêm...
+ Nghĩa đen: miêu tả cây dừa
+ Nghĩa bóng: hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Nam.
+ Ý nghĩa nhân văn - thẩm mĩ: cây dừa - biểu tượng đẹp của đất nước và con
- Cảm thụ tư tưởng của tác giả:
người Việt Nam, vừa trẻ trung, vừa thâm trầm, bình thản.
Quan niệm về thiên nhiên: thân thương, bình dị, chan hòa, gần gũi với con
người.
Bộc lộ cái nhìn vừa trẻ thơ, vừa già dặn về thế giới xung quanh.
Nhìn chung, cảm thụ văn học là một quá trình tiếp nhận, hiểu, cảm được văn chương, tính hình tượng của văn chương, đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, đặc trưng phản ánh nghệ thuật của văn chương một cách sáng tạo. Đó là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm. Cảm thụ văn học là hoạt động thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học bằng nhiều năng lực tinh thần: tri giác, xúc cảm, liên tưởng,
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
37
tưởng tượng nhằm phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, tạo được mối giao cảm đặc biệt giữa tác giả và bạn đọc.
2.2. Cảm thụ văn học ở tiểu học 2.2.1. Một vài lưu ý khi cảm thụ văn học Muốn cảm thụ văn học tốt, học sinh cần phải được rèn luyện kỹ năng viết đoạn. Để cảm thụ được văn học, bộc lộ qua bài viết, học sinh cần chú ý những điểm chính sau đây:
- Khi phân tích một tác phẩm hay một đoạn, một câu phải chú ý đến ngữ âm. (Ngữ âm là cấp độ thấp nhất của ngôn ngữ, tự bản thân nó không có ý nghĩa, nhưng nhà văn sử dụng nó độc đáo có hiệu quả vì thế nó có ý nghĩa)
- Cảm thụ văn chương qua việc tìm hiểu cách dùng các từ ngữ, hình ảnh: Từ ngữ, hình ảnh là yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học. Trong tác phẩm không phải chữ nào, từ nào cũng hay. Muốn cảm thụ văn học tốt và tập trung (bài làm không bị loãng), cần chọn những từ ngữ hình ảnh chính để phân tích. Bên cạnh đó là kỹ năng cảm nhận văn chương thông qua nhịp điệu của câu văn câu thơ. Bởi nhịp điệu chính là nhạc thơ được tạo bởi thanh, vần, cách ngắt nhịp. Đi cùng với đó là cảm nhận văn chương qua việc phát hiện và tìm hiểu các biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ... (như phép so sánh, âne dụ, nhân hoá, điệp ngữ v.v…) Để học sinh có thể thao tác thành thạo những kỹ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học, giáo viên dạy văn cần tăng cường cho các em các bài tập luyện kỹ năng viết. Việc luyện tập kỹ năng thông qua các yêu cầu cụ thể trong bài tập về nhà, trên lớp sẽ giúp nâng cao năng lực cảm thụ văn học. Đây cũng nên được coi là một yêu cầu bắt buộc đối với học sinh Trung học cơ sở. Nó phục vụ thiết thực cho việc nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, từ đó nâng cao kết quả học tập bộ môn.
- Quá trình cảm thụ văn học: Quá trình CTVH là quá trình đi từ đọc - hiểu đến cảm thụ, thâm nhập vào
thế giới nghệ thuật, chiếm lĩnh bản chất thẩm mĩ của văn chương, đảm bảo mối
quan hệ giữa nhà văn - tác phẩm - bạn đọc.
Đặc điểm nổi bật của quá trình CTVH là đọc văn bản trong nhận biết và
rung động. Người đọc có thể tạo nên những liên tưởng thẩm mỹ giữa bản thân
mình với văn bản tác phẩm. Người đọc không chỉ lĩnh hội đầy đủ các thông tin
được truyền đạt mà còn sống đời sống của các nhân vật, của câu chữ, hình ảnh...
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
38
Nghĩa là, nếu tác giả sử dụng tư duy nghệ thuật để sáng tạo tác phẩm, thì người
đọc cũng phải sử dụng cùng loại tư duy ấy để lĩnh hội tác phẩm. Đó chính là tư
duy hình tượng, loại tư duy dựa trên cơ sở tiếp xúc cảm tính với đối tượng, làm
sống dậy toàn vẹn đối tượng đó bằng nghe, nhìn, tưởng tượng, không sao chép
đối tượng một cách bàng quan mà còn bao hàm thái độ của con người với chính
đối tượng đó.
Để đảm bảo yêu cầu của CTVH, người đọc cũng phải thể nghiệm cùng với
các nhân vật, tức là phải nhập thân bằng tưởng tượng vào các nhân vật để hình
dung các biểu hiện của chúng, từ đó khái quát đặc điểm, tính cách. Người đọc
cũng cần dùng tưởng tượng, trực giác để cảm nhận ý nghĩa biểu cảm của ngôn từ,
từ đó chia sẻ, đồng sáng tạo với tác giả.
Quá trình CTVH chính là việc đảm bảo hiệu quả nhất mối quan hệ giữa
nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Đến với tác phẩm văn học, người đọc muốn được
hưởng thụ và bồi đắp những tình cảm thẩm mĩ, muốn được mở mang trí tuệ, bồi
dưỡng thêm về tư tưởng, đạo đức, lí tưởng, học hỏi kinh nghiệm sống hoặc nhận
xét, đánh giá. Bằng việc cảm thụ, người đọc đã chuyển hóa văn bản thứ nhất của
tác giả thành văn bản thứ hai của mình. Bởi vì, trong khi đọc tác phẩm văn học,
người đọc vừa bám vào sự mô tả trong văn bản, vừa liên tưởng tới các hiện tượng
ngoài đời, đồng thời cũng dựa vào cảm nghĩ và lí giải của mình, mà hình dung,
tưởng tượng ra con người, sự vật, sự việc được miêu tả. Khi mối quan hệ nhà văn
- tác phẩm - bạn đọc được đảm bảo thì người đọc sẽ có được sự đồng cảm với với
tác giả, yêu ghét những gì mà chính tác giả yêu ghét. Trên cơ sở của sự đồng cảm,
nếu người đọc tiếp tục suy ngẫm, kết hợp với chân lí của tác phẩm, liên hệ với
thực tế, với bản thân, sẽ đưa đến những nhận thức mới.
Cảm thụ văn học là bước cuối cùng của chặng đường đọc hiểu, là đọc hiểu
ở mức độ cao nhất. Vì vậy, sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung một tác phẩm văn
học, người đọc cần tiếp tục phát hiện các tín hiệu thẩm mĩ của văn bản nhằm tiếp
cận tác phẩm ở một mức độ cao hơn, tạo mối giao tiếp gần gũi hơn với tác giả.
Các tín hiệu đó có thể rất nhỏ bé, nhưng có sức khơi gợi sâu xa, đem lại những
rung cảm thực sự cho người đọc. Sau khi phát hiện, bước tiếp theo là phân tích,
bình giảng làm nổi bật vẻ đẹp đó để người khác có thể chia sẻ, thưởng thức.
2.2.2. Một số biện pháp tu từ thường gặp ở tiểu học
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
39
Biện pháp tu từ là cách sử dụng ngôn ngữ theo cách đặc biệt ở một đơn vị ngôn ngữ ( về từ, câu , văn bản) trong một ngữ cảnh nhất định nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt và tạo ấn tượng với người đọc về một hình ảnh, một cảm xúc hay một câu chuyện.
Nhận biết Tác dụng Ví dụ
Biện pháp tu từ
So sánh tạo hình ảnh sống động, gợi cảm. Mặt trời xuống biển như hòn lửa. (Huy Cận) Đem đối chiếu sự vật, sự việc có nét tương đồng.
Nhân hóa Câu hát căng buồm cùng gió khơi (Huy Cận)
Gán cho các sự vật, sự việc những đặc điểm, tính cách của con người. Tạo cách diễn đạt sinh động, hấp dẫn, gần gũi, giàu cảm xúc
Ẩn dụ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ (Viễn Phương) Giấu đi sự vật miêu tả mà chỉ đưa ra hình ảnh so sánh Tạo cách diễn đạt sâu sắc, ý nhị, giàu cảm xúc.
Hoán dụ Tạo cho câu sinh động biểu cảm. Thay sự vật này bằng sự vật khác có quan hệ gần gũi. Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân (Viễn Phương)
Điệp từ, điệp ngữ Sử dụng nhiều lần một từ, một ngữ, câu, một cấu trúc ngữ pháp Nhấn mạnh ý, tạo nhạc điệu cho thơ, tính hùng biện cho văn. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. (Phạm Tiến Duật )
Hình thức Các cặp câu sóng đôi nhau Tạo sự nhịp nhàng, hài hòa Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao. (Thanh Hải)
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
40
sóng đôi
Đối ngữ Tạo sự cân đối hài hòa Là hình thức sóng đôi mà trong đó các cặp câu cân xứng nhau Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy, Mất ổ đàn chim dáo dác bay. (Nguyễn Đình Chiểu)
Liệt kê là em ruột,
Nêu ra nhiều sự vật sự việc theo quan hệ đẳng lập Này chồng này mẹ này cha, Này này là em dâu (Nguyễn Du) tả đầy đủ Diễn những khía cạnh, biểu hiện cảm xúc, tạo ấn tượng,
chở
Nói quá sự thật Thậm xưng Nhấn mạnh ý diễn đạt, tạo sự chú ý yên Thuyền hà nặng vạy then. (Nguyễn Trãi)
Câu hỏi tu từ Là câu hỏi nghệ thuật mà nội dung bao hàm ý trả lời
Xác nhận sự việc, tạo ấn tượng, kích thích tưởng trí tượng, khơi gợi sự suy tưởng Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ? (Nguyễn Du)
đác bên
Đổi trật cú tự pháp Nhấn mạnh nội dung diễn đạt, tạo sắc thái tình cảm Thay đổi trật tự thông thường của các thành phần trong câu, thành tố trong ngữ Lom khom dưới núi tiều vài chú, sông chợ Lác mấy nhà. (Bà Huyện Thanh Quan)
Điển cố, điển tích Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. (Nguyễn Du) Nâng cao khả năng diễn đạt ý tưởng, tạo tính hàm súc sâu sắc Sử dụng các câu chữ trong tác phẩm văn học cổ hoặc mượn những chuyện xưa tích cũ để diễn đạt
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
41
Tượng trưng tạo hình tượng văn học, giàu cảm xúc Mai cốt cách, tuyết tinh thần. (Nguyễn Du)
Là những hình ảnh có tính ước lệ, (thường xuất hiện trong văn học trung đại)
Những biện pháp tu từ thường gặp ở tiểu học: a. So sánh Khái niệm: So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng
có những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn. Cấu tạo: mô hình cấu tạo đầy đủ của một phép so sánh gồm:
Vế A: nêu tên sự vật, sự việc được so sánh. Vế B: nêu tên sự vật, sự việc được dùng để so sánh với sự vật, sự việc nói
ở vế A.
Từ ngữ chỉ phương diện so sánh. Từ ngữ chỉ ý so sánh ( gọi tắt là từ so sánh). Trong thực tế, mô hình cấu tạo nói trên có thể thay đổi ít nhiều: Các từ ngữ chỉ phương diện so sánh và chỉ ý so sánh có thể được lược bớt. Vế B có thể được đảo lên trước vế A cùng với từ so sánh.
Các kiểu so sánh:
+ So sánh ngang bằng: Ví dụ: Mẹ là ngọn gió của con suốt đời. + So sánh không ngang bằng: Ví dụ: Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. Vai trò: Tăng sức gợi hình, gợi cảm trong ca dao, trong thơ, trong miêu tả,
trong nghị luận.
b. Nhân hóa Khái niệm: Nhân hoá là tả hoặc gọi con vật, cây cối, đồ vật,… bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật,… trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người
Ví dụ về một đoạn văn sử dụng biện pháp nhân hóa:
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
42
Hè năm nào tôi cũng về nhà nội chơi, sau nhà có vườn cây do chính tay ông tôi trồng và chăm sóc. Trong vườn, gia đình nhà chuối tiêu chen chúc, tựa sát vào nhau trông thật thân thiết . Mấy cây bưởi già thưa thớt lá, sai trĩu những quả xanh ngắt, giống bưởi này ngon lắm, đây là thứ cây mà ông tôi tâm đắc nhất. Phía góc vườn là cây măng cụt rậm rạp, cao hơn hẳn những cây khác, ông tôi thường gọi nó là anh cả của cả vườn, nghe ông kể, anh măng cụt này cũng kiêu ngạo lắm, ông tôi phải vất vả chăm sóc suốt năm trời mới được đón lứa quả đầu tiên. Ngự trị giữa vườn là chị xoài , tán cây rộng lớn như những cánh tay treo đầy trái xoài mập mạp. Tôi thích khu vườn này lắm, một phần vì có nhiều thứ quả ngon, một phần vì nó chứa đựng biết bao tâm huyết của ông nội tôi.
+ Chuối tiêu – chen chúc, tựa sát + Măng cụt – kiêu ngạo + Trái xoài – mập mạp +….. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa chúng như con người qua đó thấy được hình ảnh khu vườn vô cùng thân thiết với con người và chúng có sự sống vô cùng mãnh liệt.
c. Ẩn dụ * Khái niệm: Ẩn dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
* Có bốn kiểu ẩn dụ thường gặp: + Ẩn dụ hình thức – tương đồng về hình thức “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” [Truyện Kiều – Nguyễn Du]
[hoa lựu màu đỏ như lửa]
+ Ẩn dụ cách thức – tương đồng về cách thức
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” [ca dao] [ăn quả – hưởng thụ, “trồng cây” – lao động]
“Về thăm quê Bác làng Sen,
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng” [Nguyễn Đức Mậu] [thắp: nở hoa, chỉ sự phát triển, tạo thành]
+ Ẩn dụ phẩm chất – tương đồng về phẩm chất “Thuyền về có nhớ bến chăng
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
43
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” [ca dao] [thuyền – người con trai; bến – người con gái]
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác – chuyển từ cảm giác này sang cảm
giác khác, cảm nhận bằng giác quan khác.
“Ngoài thêm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” [Đêm Côn Sơn – Trần Đăng Khoa] “Cha lại dắt con đi trên cát mịn Ánh nắng chảy đầy vai” [Những cánh buồm – Hoàng Trung Thông] “Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng” [Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải] “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” [Từ đêm Mười chín – Khương Hữu Dụng]
* Lưu ý: – Phân biệt ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng: + AD tu từ: có tính lâm thời, tính cá thể, phải đặt trong từng văn cảnh cụ
thể để khám phá ý nghĩa. d. Hoán dụ Thực chất Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng bằng tên của một sự vật, hiện tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm trong diễn đạt.
Có bốn kiểu hoán dụ thường gặp: + Lấy một bộ phận để chỉ toàn thể + Lấy vật chứa đựng chỉ vật bị chứa đựng + Lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật + Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng
Ví dụ :
Áo nâu cùng với áo xanh
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
44
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
+ Biện pháp hoán dụ + Các từ in đậm được dùng để biểu thị những đối tượng có mối quan hệ
gần gũi với nó.
– Áo nâu: chỉ người nông dân; áo xanh: chỉ người công nhân; – Nông thôn: chỉ những người ở nông thôn; thành thị: chỉ những người sống ở thành thị. + Để hiểu được tác dụng của biện pháp hoán dụ trong câu thơ này, các em có thể so sánh với câu văn sau đây : Tất cả những người nông dân và người công nhân, những người ở nông thôn và thành thị đều đứng lên ->> Cách diễn đạt rườm rà, không mang tính nghệ thuật.
Chú ý : Có khá nhiều bạn khi làm bài thường xuyên bị nhầm lẫn ẩn dụ và hoán dụ. Mình sẽ nêu rõ sự khác biệt của hai biện pháp tu từ đó để các bạn có thể đạt kết quả cao hơn.
+ Cơ sở liên tưởng khác nhau: Ẩn dụ dựa vào sự liên tưởng tương đồng, tức là giữa A và B có điểm gì đó giống nhau, nên người ta dùng A để thay cho tên gọi B. Do đó, trong trường hợp này sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi thường khác phạm trù hoàn toàn. Ví dụ : “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” [Truyện Kiều – Nguyễn Du] Ở đây hoa lựu màu đỏ như lửa, bởi vậy lửa ( A) được dùng làm ẩn dụ
chỉ hoa lựu (B)
Hoán dụ dựa vào sự liên tưởng tương cận ( gẫn gũi ) giữa các đối tượng.
Mối quan hệ giữa tên mới (A) và tên cũ (B) là mối quan hệ gần kề
Ví dụ :
Đầu xanh có tội tình gì Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi Đầu xanh : là bộ phận cơ thể người ( gần kề với người) , được lấy làm hoán dụ chỉ người còn trẻ ( ví dụ tương tự : đầu bạc- người già) Má hồng: chỉ người con gái đẹp
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
45
Như vậy, ẩn dụ và hoán dụ cùng chung cấu trúc nói A chỉ B nhưng khác
nhau:
– Ẩn dụ: A và B có quan hệ tương đồng [giống nhau] – Hoán dụ: A và B có quan hệ gần gũi, hay đi liền với nhau. e. Đảo ngữ Đảo ngữ (còn gọi là đảo trang) là một hình thức tu từ có đặc điểm : thay đổi vị trí thông thường của một từ, cụm từ trong câu nhưng không làm mất đi quan hệ cú pháp vốn có, nhằm mục đích nhấn mạnh, thể hiện cảm xúc của người viết hoặc tạo hình ảnh, đường nét, màu sắc.
Trật tự thông thường của kết cấu cú pháp trong câu thể hiện sắc thái trung
hoà. Thay đổi trật tự này với dụng ý nghệ thuật, sẽ tạo ra sắc thái tu từ.
Ví dụ : Trật tự thông thường :
Mái tóc người cha bạc phơ
Trật tự đảo :
Bạc phơ mái tóc người cha Ba mươi năm Đảng nở hoa tặng Người (Tố Hữu) Sắc thái tu từ thể hiện ở chỗ : nhấn mạnh vào những thành phần đảo. Trong ví dụ trên, bạc phơ khi đưa lên đầu câu, đã trở thành yếu tố tiếp nhận thứ nhất của chuỗi lời nói. Bên cạnh sắc thái nhấn mạnh, đảo ngữ còn thể hiện sắc thái biểu cảm :
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! (Tố Hữu) Đảo ngữ cũng đóng vai trò đặc biệt trong việc tạo hình ảnh, đường nét,
màu sắc :
Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà (Bà Huyện Thanh Quan) Các sắc thái này trong nhiều trường hợp được thể hiện đồng thời. Hình thức đảo ngữ khá phong phú. Có thể chia thành hai loại : đảo các
thành phần trong câu và đảo các thành tố trong cụm từ.
f. Điệp từ điệp ngữ
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
46
Là BPTT nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, cụm từ có dụng ý làm tăng cường hiệu quả diễn đạt: nhấm mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc… và tạo nhịp điệu cho câu/ đoạn văn bản.
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” [Cây tre Việt Nam – Thép Mới]
– Điệp ngữ có nhiều dạng: + Điệp ngữ cách quãng:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu ? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” [Truyện Kiều – Nguyễn Du]
+ Điệp nối tiếp:
“Mai sau Mai sau Mai sau Đất xanh, tre mãi xanh màu tre xanh” [Tre Việt Nam – Nguyễn Duy]
+ Điệp vòng tròn:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” [Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm]
f. Nói giảm nói tránh Nói giảm nói tránh là biện pháp tu từ dùng cách biểu đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá buồn đau, ghê sợ, nặng nề, tránh thô tục, thiếu văn hóa. Nói giảm là phương tiện tu từ làm nhẹ đi, yếu đi một đặc trưng nào đó được nói đến mà người nghe vẫn hiểu được nội dung nhưng không gây ra cảm
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
47
giác nặng nề, tiêu cực. Còn nói tránh là sự biểu đạt bằng một hình tượng khác, một phương thức khác, hoặc đề cập một đối tượng khác, tức là không đề cập trực tiếp đến yếu tố muốn nói, để không gây một sự bất ngờ tiêu cực hoặc tạo sự xúc phạm đến người nghe. Chẳng hạn, khi chê trách một điều gì, để người nghe dễ tiếp nhận, ta thường nói giảm nói tránh bằng cách phủ định điều ngược lại với nội dung đánh giá. Trong thực tế có nhiều thí dụ: Bạn đến chơi nhà đã quá lâu, chủ nhà rất phiền, vì còn bận việc khác thì có thể nói: “Cũng đã trưa lắm rồi, mời anh vào phòng nằm nghỉ”, hoặc “Hôm nay gặp chị rất vui, nhưng em lỡ có hẹn lúc 3 giờ chiều nay, hay là chị vào phòng em nghỉ để em đi một chút về chị em ta nói chuyện tiếp?”… Cách nói giảm nói tránh đó sẽ được người nghe hiểu rằng chủ nhà đang bận hoặc muốn kết thúc câu chuyện nhưng không gây phật ý người nghe.
Ý nghĩa và cách dùng: Dĩ nhiên, việc sử dụng cách nói giảm nói tránh là tùy thuộc vào tình huống giao tiếp. Nói giảm nói tránh phần nhiều trường hợp để tránh những tình huống tế nhị nhưng cũng không nên dùng cách nói giảm nói tránh trong trường hợp buộc phải nói đúng mức độ sự thật hoặc cần thiết phải nói thẳng.
g. Chơi chữ Chơi chữ là BPTT lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc
thái dí dỏm, hài hước,…. làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
“Bà già đi chợ cầu đông Xem một que bói lấy chồng lợi chăng Thầy bói gieo quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”
– Các lối chơi chữ thường gặp: + Dùng từ ngữ đồng âm + Dùng lối nói trại âm (gần âm) + Dùng cách điệp âm + Dùng lối nói lái. + Dùng từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa. – Chơi chữ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, thường trong văn
thơ, đặc biệt là trong văn thơ trào phúng, trong câu đối, câu đố,….
h. Liệt kê
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
48
Liệt kê là sắp xếp, nối tiếp nhau các từ hoặc cụm từ cùng loại với nhau nhằm diễn tả các khía cạnh hoặc tư tưởng, tình cảm được đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc hơn đến với người đọc, người nghe.
Như vậy, phép liệt kê có thể thấy trong nhiều văn bản khác nhau. Để nhận biết có phép liệt kê được sử dụng có thể thấy trong bài viết có nhiều từ hoặc cụm từ giống nhau, liên tiếp nhau và thông thường cách nhau bằng dấu phẩy “,” hoặc dấu chấm phẩy “;”.
* Các kiểu liệt kê – Dựa vào cấu tạo chia ra thành: + Liệt kê theo từng cặp. + Liệt kê không theo từng cặp. – Dựa vào ý nghĩa chia ra thành: + Liệt kê tăng tiến + Liệt kê không theo tăng tiến. * Ví dụ về biện pháp liệt kê Nhận biết phép liệt kê không khó nhưng phân loại chúng phải cần thêm kĩ
năng. Hãy xem thêm ví dụ để hiểu hơn biện phép này nhé.
– Ví dụ về liệt kê theo từng cặp: Khu vườn nhà em trồng rất nhiều loài hoa đẹp nào là hoa lan với hoa cúc,
hoa mai với hoa đào, hoa hồng và hoa ly.
Cũng với ví dụ trên ta sẽ liệt kê không theo từng cặp: Khu vườn nhà em trồng rất nhiều loài hoa đẹp nào là hoa lan, hoa cúc, hoa
mai, hoa đào, hoa hồng, hoa ly.
Dựa theo cấu tạo có thể tìm ra phép liệt kê đang sử dụng, rất dễ dàng. – Ví dụ về liệt kê tăng tiến Gia đình em gồm có nhiều thành viên gắn bó với nhau gồm có em gái, em,
anh trai, bố, mẹ và ông bà.
Đây là phép liệt kê tăng tiến, thứ tự trong phép liệt không thể đảo lộn. – Ví dụ về liệt kê không tăng tiến Trên con đường trung tâm có rất nhiều loại phương tiện khác nhau như xe
ô tô, xe đạp, xe tải, xe cứu thương đang chạy ngược xuôi.
Trong ví dụ các thứ tự các loại xe có thể thay đổi mà không làm thay đổi ý
nghĩa câu.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
49
i. Tương phản Nghệ thuật tương phản đối lập là tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật ý tưởng, một bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác giả
Ví dụ: Cách thể hiện thủ pháp nghệ thuật tương phản trong tác phẩm “
Sống chết mặc bay”
Tác dụng của thủ pháp tương phản đối lập: + Tố cáo sự vô trách nhiệm, tham lam khốn nạn của bọn quan lại – những
kẻ được xem là cha mẹ của nhân dân
+ Cảnh khốn cùng, tuyệt vọng của người dân trước cơn thịnh nộ của thiên
nhiên khi chống chọi với bão lũ
+ Khắc sâu hơn cảnh tượng trái ngược: Dân đằm mình, bỏ mạng khi nước
lũ chảy xiết khi vỡ đê >< quan sung sướng khi thắng ván bài to Ví dụ cụ thể về đoạn văn kết hợp những biện pháp tu từ Giờ ra chơi, trường ồn như vỡ chợ. Vài nhóm nữ sinh tụ tập dưới tán lá mát rượi của cụ bàng; từng cặp từng cặp bạn nam chơi đá cầu với nhau, trên vai ai nấy đều ướt đẫm ánh nắng; một đám học sinh khác lại ùa đến căn-tin ăn quà vặt;… Cảnh vui tươi, nhộn nhịp đó khó có người học trò nào quên được. Bởi sau mỗi giờ ra chơi lại khiến chúng tôi thấy tinh thần sáng khoái hơn, tràn trề sức lực để học tập tốt hơn.
* lại: phó từ chỉ sự tiếp diễn tương tự. * ồn như vỡ chợ: so sánh * cụ bàng: nhân hóa kiểu dùng những từ vốn dùng để gọi người để gọi sự
vật.
* ướt đẫm ánh nắng: ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. (thị giac – xúc giác) * trường: hoán dụ kiểu lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng. + gà trống – oai vệ : nhán hóa Ò ó o…o…” Tiếng gáy to vang vọng của chú gà trống nhà em đấy. Chú đánh thức mọi người dậy – một ngày mới bắt đầu. Chú gà trống trông thật oai vệ. Thân hình cường tráng như võ sĩ trên lễ đài. Chú khoác trên mình tấm áo lông sặc sỡ, nhiều màu, bóng mượt như bôi mỡ. Lông cườm ở cổ đỏ tía. Đầu chú tròn bằng nắm tay, trên đội một chiếc vương miện đỏ chót. Mỏ hơi khoằm xuống, cứng như thép. Mắt tròn long lanh như nước. Đôi cánh cứng cáp như hai mảnh vỏ trai úp lại. Hai chân vàng bóng, bới đất tìm giun
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
50
trống sắc. Chú gà cầu vồng bẩy
thóc mà sân mổ những tung hạt lia lịa bà
rất tài. Mỗi chân chú có một cái cựa dài nhọn hoắt chìa ra. Chùm lông đuôi vồng cong như thật đẹp mã. Hằng ngày vào sáng sớm tinh mơ, chú từ chuồng nhảy ra, phóng lên cành bưởi đứng gáy. Chú vươn cái cổ đủ màu sắc và xoà cánh ra vỗ phành phạch rồi chú gáy một tràng dài, vang xa làm các con vật phải im lặng. Nghe tiếng gáy của chú, cây cối tưng bừng xoè lá đón ánh nắng mặt trời. Chim ca lích rích trong vòm lá. Sau nhiệm vụ báo thức của mình, chú ta nhảy xuống chạy đi kiếm mồi. Chú đến ra. bên Chú gà trống làm việc rất cần mẫn và đúng giờ. Chính vì thế, chú được coi là chiếc đồng hồ báo thức. Cả nhà em đều yêu quí chú.
+ cứng như thép : so sánh + …. Cũng giống như những con sông khác, con sông quê em cũng uốn lượn như một con rồng. Nó mang hương vị mặn mòi của vùng quê em, vùng quê có di tích lịch sử (đền thờTiên La), vùng quê địa linh nhân kiệt. Chính cài hương vị ấy đã gắn bó với em đến từng thớ thịt. Tuy con sông không rộng lắm nhưng nó rất dài. Buổi sáng khi ông mặt trời nhô lên thì dòng sông mặc chiếc áo lụa đào tha thướt, trưa về chiếc áo lụa đào ấy được thay bằng chiếc áo xanh biếc mới may, chiều về chiếc áo lại được dát vàng long lanh. đêm đến, sông mặc chiếc áo đen cài một vầng trăng vào giữa ngực và những ngôi sao được gắn vào dải áo như những dải kim cương.
Nước sông như dòng sữa ngọt tưới tiêu cho đồng ruộng, dòng nước mát luôn dang tay đón chúng em tắm mát, bơi lội nô đùa trong những ngày hè oi bức. Con sông đã trở thành một phần máu thịt của quê hương em. Con sông đã chứng kiến bao kỷ niệm đẹp của tuổi thơ chúng em. Rồi mai ngày em sẽ lớn khôn, nhưng rồi có đi đâu xa chân trời góc biển em vẫn nhớ về quê em, những kỉ niệm với dòng sông sẽ vẫn còn mãi trong em.
+ Nước sông như dòng sữa ngọt : So sánh + uốn lượn như một on rồng :
so sánh + Sông – máu thịt của quê hương : nhân hóa
chớp mắt, thích quá quá đẹp đi!
+ …. Nhà tôi ở một làng chài ven biển. Chiều hè, tôi thường ra đây hóng mát. Tôi ngước nhìn lên trời và bỗng reo lên: “Biển trên trời!” Tôi ngắm nhìn biển đi! thú: Đẹp không Bầu trời cao, xanh vời vợi tựa như mặt biển xanh hiền hoà. Những đám mây đuổi
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
51
nhau, xô đẩy chẳng khác gì những con sóng lớn, xô mạnh vào bờ làm bọt biển văng tung toé. Gió cùng biển thổi rì rào tạo nên một bản nhạc không lời. Xa xa, những đàn chim hải âu bay dập dờn chẳng khác gì những cánh buồm trắng xoá trôi lửng lờ. Tôi như nghe thấy từ trên trời cao tiếng hót véo vón của những chú chim, tiếng xao động của lá cây, tiếng dạt dào của sóng biển. Tất cả như hoà cùng màu xanh dịu êm của biển. Một màu xanh bát ngát có lẽ chỉ có ở trời cao làm cho chị nắng như vẫn còn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp kì diệu đó! Cây cối cũng phải ghen tị, ước ao có được màu sắc đó! Mọi người vẫn thả lưới, giăng buồm ra khơi. Riêng tôi vẫn ngồi đây trầm ngâm với những bác dừa xanh mát cả một vùng để ngắm nhìn biển, thèm khát được chơi với biển, cưỡi lên những con sóng mạnh xô vào bờ. Những cánh diều no gió của đám trẻ làng chài thi nhau bay cao vút như chắp cách cho ước mơ của trẻ thơ bay cao, bay xa hơn nữa!. Những hòn đảo nhấp nhô tựa những cung điện dưới thuỷ cung bao la, bát ngát. Những đàn cá lội tung tăng, vẩy nước tung toé. Tôi nhìn biển mà tự hỏi: “Biển đẹp đến thể mà sao còn thua cả sắc trời?”. Hôm đó, một kỉ niệm ngọt ngào nhất mà tôi đã từng có, giờ đây vẫn còn in dấu theo thời gian. Nhìn biển đẹp đến thế, tôi mới cảm nhận được hết vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên! Biển chính là người mẹ thứ hai của tôi!… Biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa.
2.2.3. Các bước khi cảm thụ văn học 2.2.3.1. Cảm thụ văn học đối với phân môn Tập đọc:
a. Giới thiệu bài
Với các văn bản nghệ thuật, phần giới thiệu bài góp phần không nhỏ trong
việc tạo tâm thế tiếp nhận và ấn tượng thẩm mĩ ban đầu về tác phẩm, giúp học
sinh dễ dàng tiếp cận bài học.
Có hai cách giới thiệu bài: trực tiếp và gián tiếp. Thông thường cách vào bài
gián tiếp bao giờ cũng gợi tính tò mò, háo hức chờ đón tác phẩm, có hứng thú
tiếp nhận tác phẩm hơn.
- Một lời giới thiệu đầy hấp dẫn
- Hỏi - đáp một vấn đề
- Một câu đố - gợi tính tò mò
- Một trò chơi - tăng niềm hứng khởi
- Một câu chuyện nhỏ - nâng cánh trí tưởng tượng
Cách vào bài gián tiếp thường là:
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
52
- Một bức tranh - kết hợp ngắm nhìn và liên tưởng
b. Giải nghĩa từ
Giải nghĩa những từ mới, khó. Lưu ý những từ có ý nghĩa đặc sắc, khơi gợi
sự cảm nhận giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Cách giải thích cần gắn
với nội dung câu thơ, câu văn trong tác phẩm.
Ví dụ: Bài Người mẹ (Tiếng Việt 3, tập 1)
- Khẩn khoản: cố nói để người khác đồng ý với yêu cầu của mình.
Giải nghĩa các từ: khẩn khoản, lã chã
Trong câu văn: "Bà mẹ khẩn khoản cầu xin Thần chỉ đường cho mình đuổi
- Lã chã: (mồ hôi, nước mắt) chảy nhiều và kéo dài.
theo Thần Chết", từ khẩn khoản cho thấy quyết tâm tìm con của người mẹ.
Trong câu văn: "Bà mẹ khóc, nước mắt tuôn rơi lã chã, đến nỗi đôi mắt theo
dòng lệ rơi xuống hồ, hóa thành hai hòn ngọc", từ lã chã cho thấy người mẹ đã
khóc nhiều đến nỗi tuôn rơi đôi mắt, đó là sự hi sinh của bà.
c. Đọc diễn cảm
Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm, người dạy có thể thực hiện các
bước sau:
Bước 1: Giáo viên đọc mẫu và cho học sinh đọc thầm nhiều lượt để tìm hiểu
nội dung, cấu trúc tác phẩm và cách đọc.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh xác định cách đọc: quy ước các kí hiệu xác định
cách đọc các đoạn, lời nhân vật; cách ngắt nhịp, nghỉ hơi; độ to, nhỏ, cao thấp;
tốc độ nhanh, chậm, vừa phải; cảm xúc buồn, vui, tự hào, thất vọng… và chỉ dẫn
- Câu chuyện có những nhân vật nào?
- Thể hiện lời thoại của từng nhân vật trong bài như thế nào?
- Giọng điệu của các nhân vật có giống nhau không?
- Giọng điệu của nhân vật có thay đỏi không? Thay đổi như thế nào? Vì sao?
- Đọc các đoạn bài thơ với giọng như thế nào?
- Nhấn mạnh vào từ ngữ, hình ảnh nào? Ngắt nhịp ở đâu?...
cách đọc, giọng đọc cụ thể. Có thể sử dụng các câu hỏi gợi mở như:
Bước 3: Luyện đọc lần lượt các đoạn và cả bài.
Bước 4: Thực hiện bài tập giải thích. Yêu cầu học sinh lí giải vì sao các em
đọc như thế. Đây là dạng bài tập nâng cao để giúp học sinh ý thức được cách đọc
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
53
diễn cảm tác phẩm, tránh tình trạng đọc theo cảm tính. Bài tập này cũng giúp học
sinh khắc sâu nội dung bài học trong quá trình vận dụng để tìm ra cách đọc phù
hợp.
Bước 5: Cho học sinh thực hiện đọc diễn cảm tác phẩm nhiều lần. Đánh giá,
nhận xét và chỉnh sửa cho học sinh sau mỗi lần đọc.
d. Hướng dẫn tìm hiểu bài
Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài cần có những câu hỏi khơi
gợi sự cảm thụ văn học, khám phá chất nhân văn, thẩm mĩ của tác phẩm. Những
câu hỏi này phải đề cập đến nội dung cơ bản của bài đọc, phải là những câu hỏi
“chìa khóa” kích thích học sinh tò mò, hứng thú suy nghĩ về tác phẩm. Có thể
chia chúng thành những loại như sau:
- Câu hỏi nhắc lại nội dung (chi tiết, từ ngữ, hình ảnh…) quan trọng.
- Câu hỏi gợi liên tưởng, tưởng tượng, sáng tạo (so sánh các hình ảnh, nhân
vật; đặt tên cho nhân vật, cho tác phẩm; dự đoán kết thúc chuyện, viết tiếp câu
chuyện...).
- Câu hỏi về ý nghĩa hình tượng và tác phẩm. Loại câu hỏi này giúp học sinh
hiểu được chiều sâu văn bản.
- Câu hỏi bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ về một hình ảnh, nhân vật và tác phẩm.
- Câu hỏi phát hiện và cảm thụ các biện pháp nghệ thuật.
Thông thường, giáo viên dựa vào câu hỏi trong sách giáo khoa để hướng dẫn
học sinh tìm hiểu bài. Nếu hệ thống câu hỏi này không đáp ứng được yêu cầu
khơi gợi sự CTVH của các em thì giáo viên có thể thiết kế lại cho phù hợp.
2.3.3.2. Cảm thụ văn học ở tiểu học đối với phân môn Kể chuyện:
Giờ Kể chuyện không chỉ giúp học sinh nhớ và kể lại câu chuyện một cách
suôn sẻ mà quan trọng hơn là giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác
phẩm cũng như những rung động, cảm xúc của bản thân và chuyển tải nó đến
người nghe qua cách kể diễn cảm, sáng tạo, có cá tính. Cảm thụ văn học ở tiểu
học đối với phân môn Kể chuyện được tiến hành như sau:
a. Giới thiệu bài
Phần giới thiệu bài ở giờ Kể chuyện cũng cần tạo tâm thế tiếp nhận và ấn
tượng thẩm mĩ ban đầu về tác phẩm cho học sinh, giúp các em có hứng thú nghe
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
54
kể chuyện và muốn được kể chuyện. Cách giới thiệu bài gián tiếp có hiệu quả
hơn trong việc tạo tâm thế hứng khởi cho học sinh.
b. Hướng dẫn học sinh kể
- Hệ thống câu hỏi giúp học sinh nhớ, tái hiện tác phẩm:
Một yêu cầu để học sinh kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn là các em phải hiểu nội
dung, ý nghĩa câu chuyện, hiểu tính cách, hành động của nhân vật... Do vậy, cần
có hệ thống câu hỏi giúp các em tìm hiểu câu chuyện, hay củng cố, nhớ lại những
điều đã biết về tác phẩm, nhân vật. Hệ thống câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Giúp học sinh nhớ được những từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, sự kiện, nhân vật
quan trọng, diễn biến câu chuyện.
+ Giúp học sinh hình dung đầy đủ về hình tượng nhân vật: hình dáng, hành
động, lời nói, tính cách, cuộc đời, kết cục của nhân vật...
+ Giúp học sinh liên tưởng, nhận xét về lời người kể chuyện, lời nhân vật,
tình cảm, thái độ của nhân vật...
Ví dụ:
+ Câu chuyện có mấy nhân vật? Là những nhân vật nào?
+ Câu chuyện có hình ảnh, chi tiết gì đáng nhớ?
+ Câu chuyện diễn biến ra sao?
+ Nhân vật có hình dáng như thế nào? Có những hành động gì?
+ Chuyện gì đã xảy ra với nhân vật? Kết cục ra sao?
+ Giọng nói của các nhân vật có khác nhau không? Khác nhau như thế nào?
...
- Hướng dẫn cách kể:
+ Hướng dẫn những nội dung diễn cảm trong giọng kể (giọng điệu, ngữ điệu,
tốc độ, cường độ...) đối với từng đoạn, từng nhân vật...
+ Hướng dẫn tư thế, tinh thần thái độ khi kể: Giúp học sinh ý thức được đang
kể chuyện cho ai, đang làm cho ai bị cuốn hút bởi câu chuyện em kể. Các em phải
giao cảm với người nghe bằng ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ; tư thế tự nhiên, thoải mái,
bình tĩnh, tự tin, phải kể sao cho to, rõ để các bạn trong lớp ai cũng nghe thấy...
+ Hướng dẫn cách thức diễn đạt: giúp các em diễn đạt gãy gọn, mạch lạc cho
lời kể trong sáng, dễ hiểu. Muốn thế, các em phải nhớ câu chuyện, phải vừa kể
vừa suy nghĩ, liên kết các chi tiết, sự kiện, hành động, lời nói...
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
55
c. Kết thúc bài
Cần khắc sâu ấn tượng thẩm mĩ, giúp học sinh nhớ lâu nội dung, ý nghĩa câu
chuyện. Giáo viên có thể mở rộng liên hệ những vấn đề đặt ra trong tác phẩm với
những mối quan hệ, cách hành xử trong cuộc sống...
* Lưu ý:
- Phải tạo được bầu không khí học tập thân mật, cởi mở, khuyến khích, động
viên để các em kể chuyện một cách hồn nhiên, tự nhiên.
- Nên nhắc nhẹ nhàng hay gợi ý đúng lúc khi các em lúng túng vì quên các
tình tiết, chi tiết của truyện.
- Nếu học sinh kể thiếu chính xác, không nên ngắt lời thô bạo mà chỉ nên nhận
xét khi các em đã kể xong.
- Cần quan niệm đúng mức về kể sáng tạo: Kể chuyện sáng tạo không phải là
kể khác nguyên văn mà là kể tự nhiên như đang sống với câu chuyện, tạo được
dấu ấn riêng bằng ngôn ngữ, giọng điệu của mình, thể hiện được cảm nhận của
mình về câu chuyện.
2.3.3.3. Cảm thụ văn học ở tiểu học đối với phân môn Tập làm văn:
a. Xây dựng bài tập:
Đề tài, nội dung các bài tập phải gắn với vốn sống, vốn hiểu biết của các em,
vừa đảm bảo rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn, vừa khơi gợi những cảm nhận
thẩm mĩ và nhu cầu bộc lộ bản thân.
b. Hướng dẫn học sinh làm bài tập
- Giúp học sinh biết thu nhận những biểu tượng, cảm xúc, ý nghĩ nhờ quan
sát và cảm thụ một cách chính xác, tinh tế về thế giới thiên nhiên, con người, xã
hội… trong văn học và cuộc sống và thể hiện thành văn bản một cách chân thật,
tình cảm, hấp dẫn….
- Hướng dẫn các em biết dùng vẻ đẹp ngôn từ để diễn đạt những hiểu biết và
cảm nhận về văn chương, cuộc sống theo một hệ thống bài tập từ đơn giản đến
cao hơn là nói, viết một văn bản trọn vẹn.
- Khuyến khích sự tự do, sáng tạo của cá nhân học sinh trong quá trình làm
văn, động viên các em viết ra suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình, giúp các em
tránh tình trạng rập khuôn, công thức.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
56
Ví dụ: Muốn kể chuyện hấp dẫn phải kể đúng, kể lại bằng lời của chính mình,
biết kể xoáy, kể lướt, kể có sáng tạo nhờ sự “thêm thắt” một vài chi tiết phụ. Sự
“thêm thắt” này không được vi phạm cốt truyện, không được làm người nghe hiểu
lầm hoặc hiểu sai ý nghĩa câu chuyện.
c. Đánh giá kết quả học tập
- Cần có tiêu chí đánh giá cho mỗi bài nói, viết của học sinh. Có thể cho các
em biết trước những tiêu chí này để định hướng làm bài.
Ví dụ: với những sản phẩm của kiểu bài kể lại sáng tạo từ lời một nhân vật
của câu chuyện kể thì tiêu chí đánh giá như sau:
+ Phải nhất quán từ đầu đến cuối truyện nhân vật đã nhập vai;
+ Sử dụng càng nhiều càng tốt những từ ngữ, chi tiết quan trọng, những hình
ảnh gây ấn tượng có trong văn bản làm cho câu chuyện sinh động, hấp dẫn mà
vẫn là kể lại truyện theo lời văn của mình, theo lối diễn đạt của mình chứ không
phải là sao chép văn bản một cách máy móc;
+ Câu chuyện được kể lại phải có mạch cảm xúc và tâm trạng, phải phản ánh
được năng lực ngôn ngữ, khả năng cảm thụ, tính tình, lối nói, lối viết riêng.
- Tiêu chí đánh giá bài văn của các em cần đề cao tính văn chương, thẩm mĩ;
tôn trọng sự tự do sáng tạo, thể hiện cá tính; tránh áp đặt chủ quan.
* Cách viết một đoạn bài cảm thụ văn học: - Đọc kỹ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập (phải trả lời được điều gì?
Cần nêu bật được ý gì?…)
- Đọc và tìm hiểu về câu thơ (câu văn ) hay đoạn trích được nêu trong bài (Dựa vào yêu cầu cụ thê của bài tập để tìm hiểu, ví dụ: cách dùng từ đặt câu; cách dùng hình ảnh, chi tiết; cách sử dụng biện pháp nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, điệp ngữ…đã giúp em cảm nhận được nội dung, ý nghĩa gì đẹp đẽ, sâu sắc).
- Viết đoạn văn về cảm thụ văn học (khoảng 5-7 dòng) hướng vào yêu cầu của đề bài. (Đoạn văn có thể bắt đầu bằng một câu “mở đoạn” để dẫn dắt người đọc hoặc trả lời thẳng vào câu hỏi chính; tiếp đó, cầnnêu rõ các ý theo yêu cầu của đề bài; cuối cùng, có htể “kết đoạn” bằng một câu ngắn gọn để “gói” lại nội dung cảm thụ)
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
57
Nắm vững yêu cầu về cảm thụ văn học ở tiẻu học, kiên trì tập luyện từng bước (từ dễ đến khó), nhất định học sinh sẽ viết được những đoạn văn hay về cảm thụ văn học, sẽ có được năng lực cảm thụ văn học tốt để phát hiện biết bao điều đáng quý trong văn học và cuộc sống của chúng ta.
* Các bước làm một đoạn bài cảm thụ văn học: Trước hết, cảm thụ văn học chính là đi tìm vẻ đẹp, cái hay của những bài thơ, bài văn.. Để biết cách cảm thụ một đoạn thơ, đoạn văn và viết được đoạn văn cảm thụ vừa đúng vừa hay, cần làm theo các gợi ý (lập dàn ý) dưới đây:
+ Bước 1: Đọc kĩ đoạn văn, đoạn thơ cần tìm hiểu + Bước 2: Nội dung đoạn văn, đoạn thơ nói lên điều gì? + Bước 3: Tìm hiểu về nghệ thuật có trong bài (cách dùng từ, đặt câu, biện
pháp tu từ: so sánh, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ,..)
+ Bước 4: Những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân và rút ra bài học (nếu
có) khi đọc đoạn văn, đoạn thơ đó.
+ Bước 5: Sắp xếp các nội dung trên thành một đoạn văn ngắn, có câu mở
đầu, câu kết đoạn.
2.3. Một số dạng bài tập về cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học 2.3.1. Bài tập tìm hiểu tác dụng của cách dùng từ, câu sinh động
Bài tập 1: Đoạn thơ dưới đây có những từ nào là từ láy? Hãy nêu rõ tác dụng gợi tả của các từ láy đó:
Quýt nhà ai chín đỏ cây, Hỡi em đi học hây hây má tròn
Trường em mấy tổ trong thôn
Ríu ra ríu rít chim non đầu mùa.
(Tố Hữu)
*Đáp án tham khảo:
- Các từ láy có trong đoạn thơ trên là: hây hây, ríu ra ríu rít. - Tác dụng gợi tả: + hây hây: (Chỉ màu da đỏ phơn phớt trên má) gợi màu sắc tươi tắn, đầy
sức sống tươi trẻ.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
58
+ ríu ra ríu rít: (Chỉ tiếng chim hoặc tiếng cười nói ) gợi âm thanh trong
và cao,vang lên liên tiếp và vui vẻ.
Bài tập 2: Đoạn văn dưới đây có thành công gì nổi bật trong cách dùng từ? Điều đó đã góp phần miêu tả nội dung sinh động như thế nào?
Vai kĩu kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà chíp chíp, tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói léo xéo. Thỉnh thoảng lại điểm những tiếng ăng ẳng của con chó bị lôi sau sợi dây xích sắt, mặt buòn rầu, sợ sệt,... (Ngô Tất Tố)
*Đáp án than khảo:
Đoạn văn có thành công nổi bật trong cách dùng các từ tượng thanh (eng éc, chíp chíp, cạc cạc, léo xéo, ăng ẳng) và các từ tượng hình (kĩu kịt, vung vẩy, thoăn thoắt). Điều đó đã góp phần miêu tả sinh động một bức tranh buổi sớm thường gặp ở những vùng quê với những hình ảnh quen thuộc của các bà, các chị đang gồng gánh hàng họ đi chợ trong một không khí thật nhộn nhịp và khẩn trương.
2.3.2. Bài tập phát hiện những chi tiết, hình ảnh có giá trị gợi tả
Bài tập 3: (Câu 15-Luyện tập về CTVH -Trần Mạnh Hưởng) Kết thúc bài: “Đàn gà mới nở”, nhà thơ Phạm Hổ viết: Vườn trưa gió mát Bướm bay rập rờn Quanh đôi chân mẹ Một rừng chân con.
Em thích hình ảnh nào trong khổ thơ trên? Vì sao?
*Đáp án tham khảo:
Trong đoạn thơ trên, em thích nhất hình ảnh “Một rừng chân con” đang vây “quanh đôi chân mẹ”, bởi qua hình ảnh ấy, em cảm nhận được sự vĩ đại của gà mẹ. Giữa một rừng chân bé xíu, non nớt (qua cách nói phóng đại của tác giả),
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
59
đôi chân của gà mẹ giống như một cây đại thụ vững chắc, sẵn sàng che chở, chống chọi với mọi hiểm nguy để bảo vệ cho đàn con thơ dại của mình .
Bài tập 4: (Câu 16-Luyện tập về CTVH -Trần Mạnh Hưởng)
Câu thơ sau có những hình ảnh nào đối lập nhau? Sự đối lập đó gợi cho
người đọc cảm nhận được điều gì?
Mồ hôi xuống, cây mọc lên Ăn no, đánh thắng, dân yên, nước giàu.
(Thanh Tịnh)
*Đáp án tham khảo:
Câu thơ có những hình ảnh đối lập nhau là: “Mồ hôi xuống” >< “ Cây mọc
lên”. ` Sự đối lập đó gợi cho người đọc cảm nhận rõ nét hơn những thành quả lao động do sức lực của con người tạo ra, giúp người đọc càng thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn do lao động mang lại: Nhờ có lao động, con người mới có lương thực để “ ăn no”, có sức lực để “đánh thắng”, để cho “dân yên”, từ đó đất nước mới giàu mạnh.
2.3.3. Bài tập tìm hiểu và vận dụng một số biện pháp tu từ thường gặp ở
tiểu học Bài tập 5: Trong khổ thơ sau, hình ảnh so sánh đã góp phần diễn tả nội dung thêm sinh, gợi cảm như thế nào?
Mùa thu của em Là vàng hoa cúc Như nghìn con mắt Mở nhìn trời êm.
(Quang Huy)
*Đáp án tham khảo:
Trong đoạn thơ trên, tác giả đã ví những bông hoa cúc giống như hàng nghìn con mắt đang ngước mắt nhìn lên bầu trời êm dịu. Cách so sánh đó đã làm cho bức tranh mùa thu càng thêm quyến rũ: Dưới khung trời rộng mở, tràn ngập một màu vàng tươi tắn và dịu mát của những bông hoa cúc mảnh mai. Cái màu
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
60
vàng thanh khiết ấy như một nét nhấn vào lòng người đọc, khiến cho bất kì ai dẫu muốn dồn nén tâm tư cũng phải nao lòng. Màu vàng tươi mát đó còn gợi cho ta liên tưởng tới vẻ đẹp dịu dàng của mùa thu, khiến cho ta càng thêm yêu mến và gắn bó với mùa thu.
Nhân hoá
Bài tập 6: Viết đoạn văn (khoảng 4-5 câu) có sử dụng biện pháp nhân hoá theo từng cách khác nhau:
a) Dùng từ xưng hô của người để gọi sự vật. b) Dùng từ ngữ chỉ đặc điểm của người để tả sự vật. c) Dùng các câu hội thoại để diễn tả sự trao đổi của sự vật.
*Đáp án tham khảo:
a) Nhà chị Dế Mèn ở bụi tre. Tối nào chị dế cũng ngồi kéo đàn tren bãi cỏ trước nhà. Mấy bác đom đóm đi gác về rất muộn vẫn thấy chị dế say sưa kéo đàn. Một bác đom đóm liền dừng chân trên bãi cỏ và soi đèn cho chị dế biểu diễn bài “Tâm tình quê hương”.
b) Chiếc bảng đen là người bạn thân thiết của cả lớp. Bảng đen rất vui khi chúng em học giỏi. Bảng đen buồn khi chúng em đến lớp chưa thuộc bài. Hôm bạn Hải trực nhật lau vội khăn ướt, bảng đen rơm rớm nước mắt nhìn chúng em, trông thương quá!...
c) Châu Chấu nói với Giun Đất: “Trời nắng ráo chính là một ngày tuyệt đẹp!”. Giun Đất cãi lại: “Không! Trời mưa bụi và ẩm ướt mới là một ngày tuyệt đẹp!”. Chúng kéo nhau đi tìm đến Kiến Đen nhờ phân xử. Sau một ngày làm việc, Kiến Đen nói với chúng: “Hôm nay tôi đã làm được rất nhiều việc. Ngày tuyệt đẹp của tôi chính là hôm nay đó!”.
Điệp ngữ
Bài tập 7: Chỉ rõ từng điệp ngữ (từ ngữ được lặp lại) trong đoạn văn dưới đây và cho biết tác dụng của nó (nhằm nhấn mạnh ý gì hoặc gợi cảm xúc gì cho người đọc?)
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
61
Thoắt cái, lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.
(Nguyễn Phan Hách)
*Đáp án tham khảo:
Bằng cách sử dụng điệp ngữ “Thoắt cái...”, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được sự thay đổi bất ngờ của cảnh vật. Qua sự thay đổi bất ngờ đó, không gian cũng thoắt ẩn, thoắt hiện, thời gian cũng vì thế mà thoắt đến, thoắt đi... Sự thay đổi đó còn gợi cho người đọc những cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng và vỡ oà theo từng khoảnh khắc thay đổi của nhịp thu.
Đảo ngữ
Bài tập 8:
Đọc câu văn sau: “Trắng tròn như hạt nếp hạt tẻ đầu mùa, hoa sấu kéo dài con đường hoa
nhiều quãng cộm hẳn lên như cót gạo nào của khu phố bung vãi ra.”
(Nguyễn Tuân)
Nhận xét:
a) Những từ ngữ in đậm được hiểu là bộ phận làm rõ nghĩa cho danh từ nào
trong câu văn trên?
b) Cách viết câu văn theo lối đảo ngữ như trên giúp nhà văn diễn tả được
điều gì? *Đáp án tham khảo:
a) Những từ ngữ in đậm có thể coi là bộ phận định ngữ của danh từ “hoa
sấu”.
b) Tác giả đã viết câu văn theo lối đảo ngữ nhằm diễn tả vẻ đẹp tinh khôi, độc đáo, gợi cảm và giàu ý nghĩa của hoa sấu, nhằm làm cơ sở cho sự xuất hiện hình ảnh so sánh độc đáo ở cuối câu: Hoa sấu như cót gạo nào của khu phố bung vãi ra.
2.3.4. Bài tập về đọc diễn cảm có sáng tạo
(Xem: Luyện tập về CTVH -Trần Mạnh Hưởng / Tr.43àTr.62)
Bài tập 9: Đọc diễn cảm bài thơ:
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
62
TIẾNG ĐÀN BA-LA-LAI-CA TRÊN SÔNG ĐÀ
Trên sông Đà Một đêm trăng chơi vơi Tôi đã nghe tiếng ba-la-lai-ca Một cô gái Nga mái tóc màu hạt dẻ Ngón tay đan trên những sợi dây đồng. Lúc ấy Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ Chỉ còn tiếng đàn ngân nga Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà. Ngày mai Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả Từ công trình thuỷ điện lớn đầu tiên.
Quang Huy
a) Đọc thầm nhiều lượt để tìm hiểu nội dung và cách đọc: Đoạn 1 (“Trên sông Đà… sợi dây đồng”) tả đêm trăng và hình ảnh cô gái
Nga có những nét gì đẹp? cần đọc nhấn giọng những từ ngữ nào để diễn cảm?
Đoạn 2 (“Lúc ấy… lấp loáng sông Đà”) có những từ ngữ gợi tả nào cần đọc nhấn giọng? Những tiếng nào cần đọc hơi kéo dài để diễn tả rõ nội dung? Nên ngắt nhịp các câu thơ và đọc với giọng điệu thế nào cho phù hợp (nhẹ nhàng chậm rãi hay mạnh mẽ dồn dập; vui hay buồn…)?
Đoạn 3 (“Ngày mai… đầu tiên”) cần lưu ý những điểm gì về cách đọc (ngắt hơi, nhấn giọng, biểu lộ cảm xúc…) để diễn tả rõ sự đổi thay của sông Đà trong tương lai?
b) Ghi kí hiệu và lời chỉ dẫn đọc diễn cảm bài thơ; sau đó tiến hành luyện
đọc. (Tương tự Bài tập 61.)
GIẢI: Gợi ý nội dung và cách đọc diễn cảm bài Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông
Đà:
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
63
– Đoạn 1: Tả đêm trăng và hình ảnh cô gái Nga có những nét đẹp: “Một đêm trăng chơi vơi”- trăng trôi nhẹ trên khoảng không gian mênh mông, gợi cảm giác như thấy trăng bay lơ lửng, ánh trăng bồng bềnh ; (cô gái Nga) “mái tóc màu hạt dẻ “, “Ngón tay đan trên những sợi dây đồng” – có cảm giác như ngón tay và những sợi dây đàn quyện gắn với nhau, hài hoà, nhuần nhuỵ); đọc nhấn giọng những từ ngữ gợi tả in nghiêng ở trên.
– Đoạn 2: Chú ý những từ ngữ gợi tả: say ngủ, nhô, ngẫm nghĩ, sóng vai nhau nằm nghỉ, ngân nga, dòng trăng lấp loáng. Những tiếng cần đọc hơi kéo dài: ngủ, nghĩ, nghỉ, ngân – nga, lấp – loáng. Chú ý ngắt nhịp hợp lí ở những dòng thơ ngắn (ví dụ: “Trên sông Đà / Một đêm trăng chơi vơi /… Lúc ấy /…), xen kẽ với những dòng thơ dài (ví dụ : cả công trường / say ngủ cạnh dòng sông/ Những tháp khoan / nhô lên trời ngẫm nghĩ…); đọc với giọng điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, vui.
– Đoạn 3: Giọng đọc biểu lộ cảm xúc vui và tự hào, diễn tả sự đổi thay có
ý nghĩa quan trọng của sông Đà; chú ý về cách đọc cụ thể:
Ngày mai /Chiếc đập lớn / nối liền hai khối núi / Biển sẽ nằm bỡ ngỡ / giữa cao nguyên / Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả / Từ công trình thuỷ điện lớn đầu tiên. //
2.3.5. Bài tập về bộc lộ cảm thụ văn học qua một đoạn viết ngắn
Bài tập 10:
Trong bài thơ “Con cò”, nhà thơ Chế Lan Viên có viết: Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
*Đáp án tham khảo:
Tình Mẫu tử - Tình mẹ con, xưa nay vẫn được coi là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. “Con dù lớn vẫn là con của mẹ / Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.” Chỉ bằng 2 câu thơ ngắn (gói gọn trong 16 tiếng), nhà thơ Chế Lan Viên đã giúp ta hiểu rõ hơn sự cao cả của tình mẹ. Vâng, con dù đã lớn, đã trưởng thành nhưng con mãi mãi “vẫn là con của mẹ”. Tình thương yêu của mẹ dành cho con vẫn luôn tràn đầy, không bao giờ vơi cạn. Và dù có “đi hết đời” (sống trọn cả cuộc đời) thì tình thương của mẹ với con vẫn còn sống mãi, “vẫn theo con” để quan
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
64
tâm, lo lắng, giúp đỡ con, dẫn đường chỉ lối và tiếp cho con thêm sức mạnh, giúp con chống chọi và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
Thế mới biết, tình mẹ bao la như biển Thái Bình...Thế mới biết, tình mẹ dành cho con thật là to lớn, thật là vĩ đại. Có thể nói, đó là một tình yêu thương mãnh liệt, vô bờ bến, một tình yêu thương bất tử, trường tồn mãi mãi cùng thời gian.
Bài tập 11: Trong bài thơ: “Vàm Cỏ Đông”, nhà thơ Hoài Vũ có viết:
Đây con sông như dòng sữa mẹ Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây Và ăm ắp như lòng người mẹ Chở tình thơng trang trải đêm ngày.
Đọc đoạn thơ trên, em cảm nhận được vẻ đẹp đáng quý của dòng sông quê hương như thế nào? *Đáp án tham khảo:
Xưa nay, dòng sông luôn gắn bó mật thiết với mỗi đồng quê. Sông đưa nước về đồng, nó làm “xanh ruộng lúa, vườn cây”. Nhờ có dòng sông mà bãi lúa, nương dâu tràn đầy sức sống. Vì vậy, dòng sông được ví như “dòng sữa mẹ” nuôi dưỡng các con khôn lớn. Cũng như tấm lòng người mẹ tràn đầy yêu thương, dòng sông lúc nào cũng “ăm ắp” đầy nước, ngày đêm sẻ chia tình tình yêu thương (dòng nước mát lành) cho những cánh đồng. Tình yêu cao cả và vẻ đẹp ấm áp tình người đó càng làm cho ta thêm yêu quý và gắn bó với dòng sông quê hương. Bài tập 12: Trong bài “Mùa thu mới”, nhà thơ Tố Hữu viết:
Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non Yêu biết mấy, những con đường ca hát Qua công trường mới dựng mái nhà son! Theo em, khổ thơ trên đã bộc lộ cảm xúc cảu tác giả trước vẻ đẹp gì trên đất nước của chúng ta? *Đáp án tham khảo:
Bằng cách sử dụng điệp ngữ “Yêu biết mấy”, tác giả muốn nhấn mạnh tình yêu của mình với những vẻ đẹp quê hương đất nước. Đó chính là tình yêu với vẻ đẹp của “những dòng sông bát ngát” đang chảy “giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
65
non”. Đó chính là tình yêu với vẻ đẹp của những con đường rộn rã tiếng cười, tiếng hát chạy qua những công trường đang xây lên những ngôi nhà mới. Qua đó, tác giả muốn bộc lộ niềm xúc động của mình trước sự thay da đổi thịt, sự trù phú của cảnh sắc quê hương và niềm vui trước cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người.
Bài tập 13:
Quê hương là cánh diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông.
(Quê hương- Đỗ Trung Quân)
Đọc đoạn thơ trên, em thấy được ý nghĩ và tình cảm của nhà thơ đối với quê hương như thế nào? *Đáp án tham khảo:
Vâng, nói đến quê hương là nói đến những gì gần gũi, thân quen nhất. Quê hương chính là mảnh đất nuôi dưỡng ta từ thuở ấu thơ và cũng là nơi để lại những dấu ấn đẹp đẽ nhất trong tâm hồn ta. Đối với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương không chỉ là cha, là mẹ, là họ hàng làng xóm, mà quê hương còn là những “cánh diều biếc” từng in đậm dấu ấn tuổi thơ đẹp đẽ của tác giả trên những cánh đồng, là “con đò nhỏ” khua nước ven sông với âm thanh nhẹ nhàng, êm đềm mà lắng đọng. Có thể nói, những sự vật đơn sơ, giản dị trên quê hương luôn có sự gắn bó mật thiết với nhà thơ và đã trở thành những kỉ niệm không thể nào quên.
Nghĩ về quê hương, hướng về quê hương, hướng về cội nguồn với những hình ảnh thân quen, gần gũi, với một tâm hồn mộc mạc và giản dị như vậy chứng tỏ tình cảm của nhà thơ đối với quê hương thật là đẹp đẽ và sâu sắc. Bài tập 14: Hãy ghi lại vài dòng cảm nhận của em về vẻ đẹp của rừng mơ Hương Sơn được gợi tả qua đoạn thơ sau:
Rừng mơ ôm lấy núi Mây trắng đọng thành hoa Gió chiều đông gờn gợn Hương bay gần bay xa...
(Rừng mơ - Trần Lê Văn)
*Đáp án tham khảo1:
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
66
“Hương Sơn” là “núi thơm”. Tả cảnh Hương Sơn, tác giả tả cảnh rừng mơ, vì trái mơ, hoa mơ đem hương cho núi.
Bốn câu thơ đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp và thơ mộng. Núi và hoa gắn bó, đan quện vào nhau (Rừng mơ ôm lấy núi). Hoa mơ trắng hay mây trắng đang lượn lờ quanh núi? (Mây trắng đọng thành hoa). Một thoáng “gió chiều đông gờn gợn” cũng đủ đưa hương hoa bay lảng bảng xa gần, ủ ấp cho núi thêm thơm. Bức tranh thiên nhiên có đủ cả núi, cả hoa, cả mây, cả gió được miêu tả ở trạng thái động mà rất tĩnh lặng, rất êm đềm, sự êm đềm cần thiết để hoa ủ hương cho núi.
Nếu không có vẻ đẹp của “rừng mơ”, mấy ai biết đến vẻ đẹp của Hương
Sơn?...
*Đáp án tham khảo 2:
Đoạn thơ đã khắc hoạ một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp của rừng mơ Hương Sơn: Rừng mơ bao quanh núi được tác giả nhân hoá thông qua từ “ôm” cho ta thấy sự gắn bó gần gũi, thân thiết và thắm đượm tình cảm của cảnh vật thiên nhiên. Những chùm hoa mơ nở trắng cả một vùng trông như những vầng mây trắng trên trời đọng lại. Những cơn gió buổi chiều đông nhẹ nhàng thổi (gờn gợn) đưa hương hoa lan toả đi khắp nơi.
Có thể nói, đoạn thơ đã vẽ lên một bức tranh mang vẻ đẹp hữu tình của đất
trời hoà quện trong rừng mơ Hương Sơn.
Bài tập 15: Trong bài thơ “Tiếng ru”, nhà thơ Tố Hữu có viết:
Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một thân lúa chín chẳng lên mùa vàng Một người đâu phải nhân gian? Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi !
Từ cách diễn đạt giàu hình ảnh trong đượn thơ trên, em hiểu được nhà thơ muốn nói với chúng ta điều gì?
*Đáp án tham khảo:
Ở đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng cách diễn đạt mang tính chất tương phản giữa các hình ảnh: Một “ngôi sao” với một màn đêm (một ngôi sao thì chỉ
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
67
có ánh sáng yếu ớt, không làm sáng được cả màn đêm); “Một thân lúa chín” với “mùa vàng” (một bông lúa thì thật nhỏ bé, không thể làm nên cả một vụ mùa bội thu); “Một người” với cả “nhân gian” (một người lẻ loi thì không thể tạo nên cả cõi đời, nơi cả loài người sinh sống, vì vậy, nếu có tồn tại thì cũng chỉ như một đốm lửa nhỏ nhoi sắp tàn lụi).
Qua cách diễn đạt giàu hình ảnh trên, tác giả muốn gửi gắm tới người đọc một triết lí sâu sắc: Con người chỉ thực sự trở nên hữu ích khi biết sống trong mối quan hệ gắn bó đoàn kết với tập thể, với cộng đồng. Nếu sống mà tách rời khỏi tập thể, cộng đồng, chỉ nghĩ đến riêng mình và sống cho riêng mình thì cuộc sống đó trở nên vô vị, chẳng có ý nghĩa gì cả.
Bài tập 16:
BÓNG MÂY
Hôm nay trời nắng như nung
Mẹ em đi cấy phơi lưng cả ngày Ước gì em hoá đám mây Em che cho mẹ suốt ngày bóng râm
(Thanh Hào)
Đọc bài thơ trên, em thấy được những nét gì đẹp đẽ vè tình cảm của người con đối với mẹ? *Đáp án tham khảo:
Qua bài thơ “Bóng mây”, tác giả Thanh Hào đã khắc hoạ hình ảnh một người mẹ thật lam lũ, thật vất vả. Mẹ phải “phơi lưng” đi cấy cả ngày dưới bầu trời “nắng như nung” (cái nắng nóng như có lửa nung). Thấu hiểu được nỗi vất vả của mẹ, người con thầm ước mình hoá thành mây để suốt ngày che mát cho mẹ. Quả thật, một bóng mây xuất hiện giữa một bầu trời nắng nóng vô cùng có giá trị với một người mẹ đang phải phơi nắng để làm việc ngoài đồng. Điều ước nhỏ nhoi mà thật là ý nghĩa, thật là cảm động. Nó thể hiện một tình yêu thương vừa sâu sắc lại vừa cụ thể, vừa thiết thực của người con đối với mẹ.
Bài tập 17: Kết thúc bài “Tre Việt Nam”, nhà thơ Nguyễn Duy viết:
Mai sau, Mai sau, Mai sau,
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
68
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
Em hãy cho biết, những câu thơ trên nhằm khẳng định điều gì ? Cách diễn đạt của nhà thơ có gì độc đáo, góp phần khẳng định điều đó? *Đáp án tham khảo:
Những câu thơ trong phần kết của bài “Tre Việt Nam” nhằm khẳng định một màu xanh vĩnh cửu của tre Việt Nam, qua đó khẳng định sức sống bất diệt của con người Việt Nam, truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam.
Bằng cách thay đổi cách ngắt nhịp và ngắt dòng (Mai sau/ Mai sau/ Mai sau/ ), với biện pháp sử dụng điệp ngữ “Mai sau”, tác giả đã khiến cho người đọc có cảm giác như thời gian và không gian được mở ra vô tận, khiến cho ý thơ âm vang, bay bổng và đem đến cho người đọc những liên tưởng phong phú. Với việc sử dụng từ “xanh” 3 lần trong dòng thơ với những sự kết hợp khác nhau (xanh tre, xanh màu, tre xanh), tác giả đã tạo ra những nét nghĩa đa dạng, phong phú và khẳng định sự trường tồn của màu sắc, của sức sống của tre cũng như của dân tộc Việt Nam.
Bài tập 18: Trong bài “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy có viết:
Bão bùng thân bọc lấy thân Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.
Hãy nêu lên vẻ đẹp của đoạn thơ trên? *Đáp án tham khảo:
Cây tre là một loài cây gắn bó mật thiết với đời sống của con người Việt Nam. Tre không chỉ có sức sống mạnh mẽ mà còn có thói quen sống thành luỹ, thành hàng. Họ hàng nhà tre luôn sống bao bọc, che chở, quấn quýt quây quần bên nhau. Bằng cách sử dụng biện pháp nhân hoá thông qua các từ “ôm”, “níu”, “thương nhau”,..., nhà thơ Nguyễn Duy không chỉ giúp ta hiểu rõ phẩm chất tốt đẹp của cây tre Việt Nam, mà qua đó còn giúp ta hiểu hơn những phẩm chất, những truyền thống cao đẹp của con người Vịêt Nam, dân tộc Việt Nam.
Bài tập 19: Trong bài “Về thăm nhà Bác”, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu viết:
Ngôi nhà thuở Bác thiếu thời
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
69
Nghiêng nghiêng mái lợp bao đời nắng mưa
Chiếc giường tre quá đơn sơ
Võng gai ru mát những trưa nắng hè.
Em hãy cho biết: Đoạn thơ trên giúp ta cảm nhận được điều gì đẹp đẽ, thân thương? *Đáp án tham khảo:
Đoạn thơ đã giúp ta cảm nhận được sự đơn sơ, giản dị của ngôi nhà Bác Hồ đã sống thuở niên thiếu. Cũng như bao ngôi nhà khác của các làng quê Việt Nam, ngôi nhà của Bác cũng “nghiêng nghiêng mái lợp” (Mái được lợp bằng lá), cũng dãi nắng dầm mưa, cũng mộc mạc với chiếc giường tre, chiếc “võng gai ru mát những trưa nắng hè”. Song trong ngôi nhà đó, Bác Hồ đã được lớn lên trong tình cảm yêu thương tràn đầy của gia đình. Có thể nói, ngôi nhà đơn sơ mà đầy tình yêu thương đó chính là chiếc nôi ấm áp nuôi dưỡng tâm hồn, nuôi dưỡng tuổi thơ của Bác. Chính ngôi nhà đó đã góp phần tạo nên con người Bác, một vị lãnh tụ có tấm lòng nhân ái bao la.
Bài tập chương 2
1. Trình bày cách hiểu về cảm thụ và đọc hiểu tác phẩm văn học. 2. Phân tích các cấp độ của cảm thụ văn học. Cho ví dụ minh họa. 3. Nêu một vài lưu ý khi cảm thụ văn học. 4. Chọn một số tác phẩm trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, anh (chị)
hãy thưc hành xác định các bước khi cảm thụ văn học.
5. Chọn một số tác phẩm trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, anh (chị) hãy thực hành xây dựng một số dạng bài tập về cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
70
Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
10 tiết (LT: 5 tiết, TH: 5 tiết x 2) Mục tiêu của chương 3: Chương này cung cấp cho sinh viên những nội dung kiến thức về một số biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học. Cụ thể: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học; Thực hành thiết kế bài tập nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học (Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí, Thơ Trần Đăng Khoa, Thơ Phạm Hổ, Một số tác phẩm tiêu biểu trong chương trình Tiếng Việt tiểu học). Từ đó, sinh viên biết vận dụng để nghiên cứu và thực hành giảng dạy đối với các tác phẩm văn học trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học.
Chuẩn đầu ra của chương 3: Sinh viên trình bày và phân tích được một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học; Thực hành thiết kế bài tập nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học qua một số tác phẩm văn học tiêu biểu trong chương trình Tiếng Việt tiểu học hiện hành. Vận dụng để nghiên cứu và thực hành giảng dạy đối với các tác phẩm văn học trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học.
3.1. Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh
tiểu học
Việc rèn luyện để nâng cao năng lực cảm thụ văn học là một nhiệm vụ rất cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt sẽ cảm nhận được các giá trị nhân văn, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của các em. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học nhằm giúp các em có những nhận thức ban đầu về văn học và cuộc sống, biết cách đọc các tác phẩm nghệ thuật, nhận biết nhanh nhạy và chính xác các tín hiệu nghệ thuật, hình thành một số kỷ năng đơn giản trong phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Ngữ liệu dạy học các phân môn tiếng Việt đa phần là các văn bản có giá trị nghệ thuật, cần được khám phá cả nội dung tư tưởng và vẻ đẹp ngôn từ. Việc rèn luyện, trau dồi để nâng cao trình độ cảm thụ văn học không những giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương mà còn giúp các em học tốt môn Tiếng Việt, nói và viết Tiếng Việt ngày càng trong sáng, sinh động hơn.
3.1.1. Cảm thụ văn học qua khai thác các biên pháp nghệ thuật
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
71
Một trong những biện pháp để học sinh có năng lực cảm thụ văn tốt là giúp các em nhận biết được biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong tác phẩm. Những biện pháp nghệ thuật thường gặp trong các bài văn, bài thơ ở bậc
tiểu học là: So sánh, nhân hóa, điệp từ và đảo ngữ.
Để cảm thụ tác phẩm văn học thông qua khai thác các biện pháp nghệ thuật,
học sinh cần thực hiện tốt các yêu câu sau đây:
Hiểu được thế nào là biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, điệp từ và
đảo ngữ..., (thông qua phân môn Luyện từ và câu);
Xác định đúng biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ (thông qua môn
tập đọc);
Xác định đúng những từ, cụm từ, hình ảnh thể hiện biện pháp nghệ thuật và cảm nhận được giá trị nghệ thuật làm tăng giá trị nội dung, ý nghĩa của bài văn, bài thơ.
3.1.2. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với văn, thơ Trau dồi khi tiếp xúc với văn thơ chính là tự rèn luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác, say mê. Đây là yếu tố quan trọng của cảm thụ văn học.
Đối với giáo viên: Cần có giọng đọc diễn cảm và luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học để lôi cuốn học sinh; dùng những từ ngữ không chỉ đúng mà phải hay, nói - viết thành câu cho rõ ý, sinh động và gợi cảm, ...
Đối với học sinh: Có giọng đọc diễn cảm tốt, có hứng thú trong các giờ tập
đọc, biết lắng nghe và vận dụng, từ đó đến với văn học một cách say mê.
3.1.3. Tích lũy vốn hiểu biết về cuộc sống và văn học Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có ảnh hưởng bởi vốn sống của mỗi người. Cảm thụ văn học diễn ra ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố như: Vốn sống, vốn hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức yếu tố di truyền. Tình cảm và thái độ khi tiếp xúc với văn học được thể hiện qua hoạt động và quan sát cuộc sống hàng ngày.
Trong các giờ học Tiếng Việt, giáo viên luôn luôn chú ý đến liên hệ thực tế cuộc sống với văn học để các em hình thành được kĩ năng vận dụng thực tế, cuộc sống với văn học, đồng thời qua đó giúp các em tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống với văn học.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
72
Quan sát kĩ chẳng những giúp học sinh viết được bài văn hay mà còn tạo điều kiện để các em cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc.
Bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, học sinh còn cần tích lũy cả vốn hiểu biết về văn học thông qua đọc sách thường xuyên, từ đó, mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học.
3.1.4. Cung cấp những kiến thức cơ bản khi cảm thụ văn học Những kiến thức cơ bản giáo viên cần cung cấp cho học sinh như: Kiến
thức về ngữ âm và chữ viết tiếng Việt; kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp…
Qua các giờ tập đọc, kể chuyện, tập làm văn, học sinh sẽ được làm quen và cảm nhận bước đầu về một số kiến thức liên quan đến cảm thụ văn học như: Hình ảnh (là toàn bộ đường nét, màu sắc, đặc điểm của người, vật, cảnh bên ngoài được ghi trong tác phẩm nhờ đó ta có thể tưởng tượng ra); chi tiết (là điểm nhỏ, ý nhỏ trong nội dung); bố cục (là sự xếp đặt, trình bày các phần để tạo nên một nội dung hoàn chỉnh) .
Giáo viên giúp học sinh phát huy trí tưởng tượng, phân tích văn học..., từ đó yêu thích môn Tập đọc, yêu Tiếng Việt hơn. Qua cảm thụ, học sinh tăng cường vốn từ ngữ, biết sử dụng các phương pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng, hoán dụ, ẩn dụ ... trong bài tập làm văn của mình.
3.1.5. Rèn kĩ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn học Để làm tốt cảm thụ văn học, học sinh cần: Đọc kỹ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập, biết đặt ra những câu hỏi như: Bài này yêu cầu gì? Cần nêu bật được cái gì?
Với giáo viên, khi đưa câu hỏi phải gợi được cảm xúc, gợi liên tưởng, phát huy trí tưởng tượng của học sinh. Giáo viên cần thoát khỏi các câu hỏi tìm hiểu bài trong sách giáo khoa, phải chủ động sáng tạo, tìm tòi để đặt ra những câu hỏi khơi gợi học sinh tìm hiểu về vần điệu, từ ngữ, hình ảnh, nhân vật, hành động... trong bài tập đọc.
Giáo viên giúp học sinh đọc và hiểu về câu thơ, câu văn hoặc đoạn trích được nêu trong đề bài dựa vào yêu cầu cụ thể của bài tập để tìm hiểu; giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn, thơ thông qua nội dung nghệ thuật; nắm bắt được tư tưởng chủ đạo của tác giả. Từ đó, biết bộc lộ suy nghĩ của bản
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
73
thân, biết viết thành một đoạn văn cảm thụ sinh động ở mức độ đơn giản, phù hợp với lứa tuổi tiểu học.
Giáo viên có thể rèn kỹ năng viết đoạn văn theo các bước sau: Bước 1: Đọc kĩ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập (yêu cầu phải trả lời
được điều gì? Cần nêu bật được ý gì?...)
Bước 2: Đọc và tìm hiểu về câu thơ (câu văn) hay đoạn trích được nêu
trong đề bài.
Đọc diễn cảm, đúng ngữ điệu (có thể đọc thành tiếng hoặc đọc thầm). Việc đọc đúng, đọc diễn cảm sẽ giúp mạch thơ, mạch văn thấm vào tâm hồn các em một cách tự nhiên, gây cho các em những cảm xúc, ấn tượng trước những tín hiệu nghệ thuật xuất hiện trong đoạn văn, đoạn thơ.
Dựa vào yêu cầu cụ thể của bài tập như cách dùng từ, đặt câu, cách dùng hình ảnh, chi tiết, cách sử dụng biện pháp nghệ thuật quen thuộc cùng cảm nhận ban đầu qua cách đọc sẽ giúp học sinh cảm nhận được nội dung, ý nghĩa đẹp đẽ, sâu sắc toát ra từ câu thơ (câu văn).
Bước 3: Viết đoạn văn về cảm thụ văn học (khoảng 5 - 7 dòng) hướng vào yêu cầu của đề bài. Đoạn văn có thể bắt đầu bằng một câu “mở đoạn” để dẫn dắt người đọc hoặc trả lời thẳng vào câu hỏi chính.
Tiếp đó, cần nêu rõ các ý theo yêu cầu của đề bài. Cuối cùng, có thể “kết
đoạn” bằng một câu ngắn gọn để “gói” lại nội dung cảm thụ.
Đoạn văn có nội dung về cảm thụ văn học ở tiểu học cần được diễn đạt một cách hồn nhiên, trong sáng và bộc lộ cảm xúc; cần tránh mắc các lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu; tránh diễn giải dài dòng hoặc sa vào phân tích quá kĩ.
3.1.6. Các bước viết đoạn văn cảm thụ văn học Để làm được một bài tập về cảm thụ văn đạt kết quả tốt, học sinh cần thực
hiện đầy đủ các bước theo 2 cách:
Cách 1: Mở đầu bằng một câu khái quát (như nêu ý chính của một đoạn thơ hoặc đoạn văn trong bài tập đọc). Những câu tiếp theo diễn giải nhằm làm sáng tỏ ý mà câu khái quát (câu mở đoạn) đã nêu ra.
Trong quá trình diễn giải, kết hợp nêu các tín hiệu, các biện pháp nghệ
thuật được tác giả sử dụng để tạo nên cái hay, cái đẹp của đoạn thơ (đoạn văn).
Cách 2: Mở đầu bằng cách trả lời thẳng vào câu hỏi chính (nêu các tín hiệu, các biện pháp nghệ thuật góp phần nhiều nhất tạo nên cái hay, cái đẹp của đoạn thơ hoặc đoạn văn).
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
74
Sau đó, diễn giải cái hay, cái đẹp về nội dung. Cuối cùng, kết thúc là một câu khái quát, tóm lại những điều đã diễn giải ở trên (như kiểu nêu ý chính của đoạn thơ hoặc đoạn văn) trong bài tập đọc.
3.2. Thực hành thiết kế bài tập nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho
học sinh tiểu học
Bài tập 1: Phân biệt ẩn dụ, hoán dụ từ vựng học và ẩn dụ, hoán dụ tu từ
học?
Gợi ý: Trả lời: - Ẩn dụ, hoán dụ từ vựng học là phép chuyển nghĩa tạo nên nghĩa mới thực
sự của từ, các nghĩa này được ghi trong từ điển.
- Ẩn dụ, hoán dụ tu từ học là các ẩn dụ, hoán dụ tạo ra ý nghĩa lâm thời (nghĩa ngữ cảnh) không tạo ra ý nghĩa mới cho từ. Đây là cách diễn đạt bằng hình ảnh, hình tượng mang tính biểu cảm cho câu nói; Không phải là phương thức chuyển nghĩa tạo nên sự phát triển nghĩa của từ ngữ.
Bài 2: Hãy tìm phép so sánh trong những câu ca dao sau :
A. Qua cầu ngả nón trông cầu Cầu bao nhiêu dịp dạ em sầu bấy nhiêu. B. Qua đình nghả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói ta thương mình bấy nhiêu.
Bài 3: So sánh ở đây thực hiện nhờ những từ so sánh nào ? A, Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn (So sánh không ngang bằng- sử
dụng từ so sánh “hơn”.)
B, Cờ như mắt mở thức thâu canh Như lửa đốt hoài trên chót đỉnh.
(So sánh ngang bằng, sử dụng từ so sánh “ như”) C,
Rắn như thép, vững như đồng Đội ngũ ta trùng trùng, điệp điệp Cao như núi , dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt.(So sánh ngang bằng sử dụng từ so sánh “như”)
D, Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép.(vừa có so sánh ngang bằng sử dụng từ so sánh “như”, vừa có so sánh không ngang bằng sử dụng từ so sánh “ hơn”).
Bài tập 4: Tìm 5 thành ngữ có sử dụng so sánh và đặt câu với chúng
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
75
Bài tập 5:
Cầu bao nhiêu dịp dạ em sầu bấy nhiêu. Đình bao nhiêu ngói ta thương mình bấy nhiêu.
*Từ so sánh : Bao nhiêu- Bấy nhiêu. Bài tập 6: Phân tích hiệu quả của phép tu từ so sánh trong bài thơ sau:
Sau làn mưa bụi tháng ba Lá tre bỗng đỏ như là lửa thiêu Bầu trời rừng rực ráng treo Tưởng như ngựa sắt sớm chiều vẫn bay.
=> Không khí của buổi chiều tháng ba – gợi hồi ức về 1 quá khứ lịch sử oai hùng: chiến công của Thánh Gióng: có lá tre đỏ vì ngựa phun lửa, có hình ảnh ngựa sắt bay... Nền trời trở thành 1 bức tranh, biểu lộ trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ TĐK và niềm tự hào về quá khứ hào hùng oanh liệt trong không khí của thời đại chống Mĩ.
Phân tích hiệu quả của phép tu từ so sánh trong bài ca dao sau
Cổ tay em trắng như ngà Con mắt em liếc như là dao cau Miệng cười như thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Bài tập 7: xác định các biệp pháp tu từ từ vựng trong các ví dụ sau: - Sen tàn, cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân - Me non cong vắt lưỡi liềm Lá xanh như dải lụa mềm lửng lơ - Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối - Đêm qua ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao dời Trông mây, mây kéo ngang trời Trông trăng trăng khuyết, trông người, người xa. - Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non - Làm trai cho đáng nên trai
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
76
Khom lưng uốn gối gánh hai ...hạt vừng. - Bác đã đi rồi sao Bác ơi Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời Miền Nam đang thắng mơ ngày hội Đón Bác vào thăm, thấy Bác cười.
Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ cú pháp trong bài ca dao:
Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Bài tập 8: Viết 4 câu, sử dụng 4 biện pháp tu từ Chỉ ra tác dụng và biện pháp tu từ của nó :
1. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhềm mắt cháu Nhớ lại đến giờ sông mũi còn cay. ( Bếp lửa – Bằng Việt ) 2. Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. ( Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải ) 3. Đến đây mận mới hỏi đào Vườn hồng có lối ai vào hay chưa Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
c. Sưu tập một số ca dao có các biện pháp tu từ đã học ( ít nhất là 5 bài ). Bài tập 10: Tìm hiểu ý nghĩa của từ Miền Nam trong các câu thơ sau. Chỉ
rõ trường hợp nào là ẩn dụ và thuộc kiểu ẩn dụ nào ?
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
77
a. Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát. ( Viễn Phương ) Gửi miền Bắc long miền Nam chung thuỷ Đang xông lên chống Mĩ tuyến đầu. ( Lê Anh Xuân)
Miền Nam (a) : Là tên gọi địa lý, chỉ một vùng. Miền Nam (b) : chỉ những người sống ở vùng đó- Trường hợp này là hoán
dụ ( Quan hệ giữa vật chứa đựng và vật bị chứa đựng)
Bài tập 11: Chỉ ra các hoán dụ trong những câu sau và cho biết chúng thuộc
kiểu hoán dụ nào ?
Câu 1: a.Họ là hai chục tay sào, tay chèo,làm ruộng cũng giỏi mà làm thuyền cũng
giỏi.
Tay sào, tay chèo : Kiểu hoán dụ có quan hệ dấu hiệu của sự vật với sự vật
có dấu hiệu đó.
b.Tự nhiên, Xa Phủ rút cây sáo. Tiếng sáo thoát ra từ ống trúc, véo von…
Tiếng sáo theo chân hai người tới lối rẽ. * Chân : Kiểu hoán dụ có quan hệ bộ phận và toàn thể.
Câu 2 a.Nhận của quá khứ những con đê vỡ, những nạn đói, ta đã làm nên những
mùa vàng năm tấn, bảy tấn.
* “ Mùa vàng” : ẩn dụ b. Bóng hồng nhác thấy nẻo xa Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai
“ Bóng hồng” : Hoán dụ có quan hệ sở hữu và vật bị sở hữu. Bài tập 12: Các từ Kim cương, Ngôi sao sáng trong các câu thơ sau có phải
là ẩn dụ không ? Phân tích các ẩn dụ đó ?
Nghe dào dạt bốn mươi triệu miền Nam đang tỉnh thức Không!Ba mươi triệu Kim Cương của thiên hà Tổ quốc Không! Hàng triệu Ngôi Sao Sáng anh em đang chiếm lĩnh bầu trời Hứa một mùa gặt lớn ngày mai. ( Chế Lan Viên )
Bài tập 13: Tìm và phân tích các ẩn dụ trong đoạn trích sau :
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
78
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Bài tập 15: Trong lời ăn tiếng nói hàng ngày chung ta thường nói : Nói ngọt lọt đến xương. Nói nặng quá. *Đây là những ẩn dụ chuyển đổi cảm giác - Lấy những từ ngữ chỉ cảm giác
của giác quan này để chỉ cảm giác của giác quan khác: Ngọt : Vị giác sang Thính giác
Bài tập 16. Trong câu ca dao: Nhớ ai bồi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than a) Từ bồi hổi bồi hồi là từ gì? b) Gải nghĩa từ bồi hổi bồi hồic) Phân tích cái hay của câu thơ do phép so
sánh đem lại.
Gợi ý: a) Đây là từ láy chỉ mức độ cao. b) Giải nghĩa : trạng thái có những cảm xúc, ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong
cơ thể con người.
c) Trạng thái mơ hồ, trừu tượng chỉ được bộc lộ bằng cách đưa ra hình ảnh cụ thể: đứng đống lửa, ngồi đống than để người khác hiểu được cái mình muốn nói một cách dễ dàng. Hình ảnh so sánh có tính chất phóng đại nên cảm. gợi rất Bài tập 17: Phép so sánh sau đây có gì đặc biệt:
Mẹ già như chuối và hương Như xôi nếp một, như đường mía lau.
(Ca dao) Gợi ý: Chú ý những chỗ đặc biệt sau đây: - Từ ngữ chỉ phương diện so sánh bị lược bỏ. Vế (B) là chuẩn so sánh không phải có một mà có ba: chuối và hương – xôi nếp mật - đường mía lau là nhằm mục đích ca ngợi người mẹ về nhiều mặt, mặt nào cũng có nhiều ưu điểm đáng quý.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
79
Bài tập 18. Tìm và phân tích phép so sánh (theo mô hình của so sánh) trong
các câu thơ sau:
a) Ngoài thềm rơi chiếc la đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
(Trần Đăng Khoa)
b) Quê hương là chùm khế ngot Cho con chèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay. (Đỗ Trung Quân) Gợi ý: Chú ý đến các so sánh a) Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng b) Quê hương là chùm khế ngọt Quê hương là đường đi học
Bài tập 19: Hai câu thơ sau sử dụng những biện pháp tu từ nào ?
Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa
A. Nhân hoá và so sánh B. Nói quá và liệt kê. C. Ẩn dụ và hoán dụ. D. Chơi chữ và điệp từ.
Gợi ý: A Bài tập 20. Trong câu ca dao sau đây:
Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta Cách trò chuyện với trâu trong bài ca dao trên cho em cảm nhận gì ? Gợi ý: - Chú ý cách xưng hô của người đối với trâu. Cách xưng hô như vậy thể hiện thái độ tình cảm gì ? Tầm quan trọng của con trâu đối với nhà nông như thế nào ? Theo đó em sẽ trả lời được câu hỏi. Bài tập 21. Tìm phép nhân hoá và nêu tác dụng của chúng trong những câu thơ sau:
Trong gió trong mưa Ngọn đèn đứng gác Cho thắng lợi, nối theo nhau
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
80
Đang hành quân đi lên phía trước.
(Ngọn đèn đứng gác- Chính Hữu)
Gợi ý: Chú ý cách dùng các từ vốn chỉ hoạt động của người như: - Đứng gác, nối theo nhau, hành quân, đi lên phía trước.
Bài tập 22:
Phân tích nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ sau:
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn" (Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)
* Gợi ý: - Nghĩa đen: Bánh trôi nước về màu sắc và hình dáng - Nghĩa bóng : Hình ảnh về vẻ đẹp người phụ nữ có làn da trắng và thân
hình đầy đặn .
Khi phân tích ta làm như sau : Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh cái bánh nhà thơ đã gợi cho người đọc hình dung được một hình ảnh khác thật sâu săc kín đáo đó là hình ảnh ... (nghĩa bóng) - từ đó gợi cảm xúc cho người đọc về người phụ nữ xưa ...
Bài tập 23:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
(Viễn Phương - Viếng lăng Bác)
- Chỉ ra biện pháp tu từ trong hai câu thơ ? - Phân tích giá trị biểu cảm ?
* Gợi ý: - Phép tu từ ẩn dụ: Mượn hình ảnh mặt trời để chỉ Bác Hồ - Cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ của nhà thơ thật tài tình vì qua hình ảnh “mặt trời” là một vầng thái dương “nghĩa đen”, tác giả tạo ra một hình ảnh so sánh ngầm sâu sắc, tế nhị làm cho người đoc suy nghĩ và hình dung ra được hình ảnh của Bác Hồ (nghĩa bóng) một con người rực rỡ và ấm áp như mặt trời dẫn dắt dân tộc ta trên con đường giành tự do và độc lập xây dựng tổ quốc công bằng dân chủ văn minh từ đó tạo cho người đọc một tình cảm yêu mến khâm phục vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc chúng ta.
Bài tập 24
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
81
Tìm và phân tích các hoán dụ trong các ví dụ sau:
a. Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người. (Ca dao)
b. Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân (Nguyễn Du)
c. Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá...
(Chể Lan Viên)
Gợi ý: * a. “ áo rách” là hoán dụ lấy quần áo (áo rách) để thay cho con người
(người nghèo khổ).
“áo gấm” cũng là hoán dụ lấy quần áo (áo gấm) để thay cho con người(
người giàu sang, quyền quí).
* b. “ Sen” là hoán dụ lấy loài hoa đặc trưng ( hoa sen) để chỉ mùa (mùa
hạ).
Cúc” là hoán dụ lấy loài hoa đặc trưng ( hoa cúc) để chỉ mùa (mùa thu). - Chỉ với hai câu thơ nhưng Nguyễn Du đã diễn đạt được bốn mùa chuyển tiếp trong một năm, mùa hạ đi qua mùa thu lại đến rồi mùa thu kết thúc, đông bước sang, đông tàn, xuân lại ngự trị.
* c. “Viên gạch hồng” là hoán dụ lấy đồ vật (viên gạch hồng) để biểu trưng
cho nghị lực thép, ý chí thép của con người. (Bác Hồ vĩ đại).
- “ Băng giá” là hoán dụ lấy hiện tượng tiêu biểu (cái lạnh ở Pa-ri) để gọi
thay cho mùa (mùa đông)
Bài tập: Xac định các loại điệp ngữ: Ví dụ:
Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm ngát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa
- Các loại điệp ngữ: + Điệp ngữ cách quãng. + Điệp ngữ nối tiếp.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
82
+ Điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng) Ví dụ:
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
= ĐN cách quãng
Chuyện kể từ những nỗi nhớ sâu xa Thương em, thương em, thương em biết mấy
= ĐN nối tiếp ( Phạm Tiến Duật)
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
= ĐN vòng tròn (Chinh phụ ngâm)
Bài tập 25: Một số kiểu chơi chữ thường gặp: * Dùng từ gần nghĩa, đồng nghĩa để chơi chữ... Nửa đêm, giờ tí, canh ba Vợ tôi, con gái, đàn bà, nữ nhi
* Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.
* Dùng lối nói lái:
Mang theo một cái phong bì Trong đựng cái gì, đựng cái đầu tiên.
Hay: Con gái là cái bòn... * Dùng từ đồng âm:
Bà già đi chợ Cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói xem quẻ nói rằng Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!
Hoặc:
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
83
Hỡi cô cắt cỏ bên sông
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây
(Ca dao)
- Từ tên một loại nhãn nổi tiếng ngon, ngọt, mát bổ (nhãn lồng) thế mà chàng trai lém lỉnh nọ đã khéo léo vận dụng để trêu chọc cô bạn gái rằng hãy chạy tế sang đây (lồng sang sông!) anh mới cho ăn nhãn... Ca dao xưa hóm thật!
Bài 26: Trong khổ thơ sau hình ảnh so sánh đã góp phần diễn tả nội dung
thêm sinh động, gợi cảm như thế nào?
Mùa thu của em Lá vàng hoa cúc Như nghìn con mắt Mở nhìn trời êm (Quang Huy)
Đáp án (tham khảo) Trong đoạn thơ trên, tác giả đã ví những bông hoa cúc giống như hàng nghìn con mắt đang ngước nhìn lên bầu trời đêm êm dịu, cách so sánh đó làm cho bức tranh mùa thu thêm quyến rũ. Dưới khung trời rộng mở, tràn ngập tràn ngập một màu vàng tươi tắn và dịu mát của những bông hoa cúc mảnh mai.
Cái màu vàng thanh khiết ấy như một điểm nhấn vào lòng người đọc, khiến cho bất kỳ ai muốn dồn nén tâm tư cũng phải nao lòng. Màu vàng tươi mát đó khiến cho bất kỳ ai dẫu muốn dồn nén tâm tư cũng phải nao lòng. Màu vang tươi mát đó gợi cho ta liên tưởng tới vẻ đẹp dịu dàng của mùa thu, khiến ta càng thêm yêu mến và gắn bó với mùa thu.
Bài 27: Viết đoạn văn khoảng 5 – 6 câu có sử dụng biện pháp nhân hóa
theo từng cách sau
Dùng từ xưng hô của người để gọi vật Dùng từ ngữ chỉ đặc điểm của người để tả sự vật Dùng các câu hội thoại để diễn tả sự trao đổi của vật Bài làm (tham khảo) Nhà chị Dế Mèn ở bụi tre. Tối nào chị Dế cũng ngồi kéo đàn trên bãi có trước nhà. Mấy bác Đom Đóm đi gác đêm về rất muộn vẫn thấy chị Dế say sưa kéo đàn. Một bác đom đóm liền dừng chân trên bãi cỏ và soi đèn cho chị Dế biểu diễn bài “ Tâm tình quê hương”
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
84
Châu Chấu nói với Giun Đất: “ Trời nắng ráo chính là một ngày tuyệt đẹp!” Giun Đất cãi lại: “ Không! trời mưa bụi và ẩm ướt mới chính là một ngày tuyệt đẹp!” Chúng kéo nhau đi tìm Kiến Đen nhờ phân xử. Sau một ngày làm việc, Kiến Đen nói với chúng: “ Hôm nay tôi đã làm được rất nhiều việc. Ngày tuyệt đẹp của tôi chính là ngày hôm nay đó.”
Bài 28: Chỉ rõ biện pháp điệp ngữ được dùng trong đoạn văn dưới đây và
nêu tác dụng của nó.
– “ Thoắt cái lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái gió xuân hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung quý hiếm”.
Đáp án (Tham khảo) – Bằng cách sử dụng điệp từ “ Thoắt cái” tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được sự thay đổi bất ngờ của cảnh vật. Qua sự thay đổi bất ngờ đó, không gian cũng thoắt ẩn, thoắt hiện, thời gian cũng vì thế mà thoắt đến thoắt đi … Sự thay đổi đó còn gợi cho người đọc những cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng và vỡ òa theo từng khoảnh khắc thay đổi của nhịp thu.
Bài 29: Trong bài thơ “Con cò” nhà thơ Chế Lan Viên có viết
Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con…
Em hãy viết đoạn văn trình bày cảm nghĩ của em. Đáp án Tình mẫu tử – Tình mẹ con xưa nay vẫn được coi là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. “ Con dù lớn vẫn là con của mẹ/ Đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con…” Chỉ bằng hai câu thơ ngắn ( 16 tiếng) nhà thơ Chế Lan Viên đã giúp ta hiểu hơn sự cao cả của tình mẹ. Vâng, con dù đã lớn, đã trưởng thành nhưng con mãi mãi vẫn là con của mẹ, tình thương yêu của mẹ dành cho con vẫn luôn tràn đầy không bao giờ vơi cạn. Và dù có đi hết đời( sống trọn cả cuộc đời) thì tình của của mẹ với con vẫn còn sống mãi. “ Vẫn theo con” để quan tâm, lo lắng cho con, giúp đỡ con, dẫn đường chỉ lối và tiếp cho con thêm sức mạnh giúp con vượt qua mọi thử thách của cuộc đời. Thế mới biết tình mẹ bao la như biển Thái Bình …. Thế mới biết tình mẹ dánh cho con thật to lớn, thật vĩ đại. Có thể nói, đó là một tình yêu thương mãnh liệt, vô bờ bến, một tình yêu thương bất tử, trường tồn mãi cùng thời gian.
Bài 30: Trong bài “Mùa thu mới” nhà thơ Tố Hữu viết
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
85
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non Yêu biết mấy những con đường ca hát Qua công trường mới dựng nhà son
Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp gì của đất nước chúng ta. Đoạn văn tham khảo – Bằng cánh sử dụng điệp ngữ “Yêu biết mấy” tác giả muốn nhấn mạnh tình yêu của mình với những vẻ đẹp của quê hương đất nước. Đó chính là tình yêu với vẻ đẹp của những con đường rộn rã tiếng cười, tiếng hát chạy qua những công trường đang xây lên những ngôi nhà mới. Qua đó, tác giả muốn bộc lộ niềm xúc động của mình trước sự thay da đổi thịt, sự trù phú của cảnh sắc quê hương và niềm vui trước cuộc sống ấm no, hành phúc của con người.
Bài 31: Trong bài thơ “Quê hương” nhà thơ Đỗ Trung Quân viết:
Quê hương là cánh diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông
Em cảm nhận được điều gì về tình cảm của nhà thơ với quê hương? Bài làm Vâng! Nói đến quê hương là nói đến những gì gần gũi, thân quen nhất. Quê hương chính là mảnh đất nuôi dưỡng ta từ thuả ấu thơ và cũng là nơi để lại những dấu ấn đẹp đẽ nhất trong tâm hồn ta. Đối với nhà thơ Đỗ Trung Quân, quê hương không chỉ là cha mẹ, là họ hàng, làng xóm mà quê hương còn là những “ Cánh diều biếc”từng in đậm dấu ấn tuổi thơ đẹp đẽ của tác giả trên những cánh đồng “ Là con đò nhỏ” khua nước ven sông với âm thanh nhẹ nhàng, êm đềm mà lắng đọng. Có thể nói những vật đơn sơ mà giản dị như vậy chứng tỏ tình cảm của nhà thơ đối với quê hương thật là đẹp đẽ, sâu sắc.
Bài 32: Trong bài thơ “Tiếng ru” nhà thơ Tố Hữu viết: Một ngôi sao chẳng sáng đêm Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng Một người đâu phải nhân gian Sống chăng một đống lửa tàn mà thôi!
Từ cách diễn đạt giàu hình ảnh trong đoạn thơ trên, em hiểu nhà thơ muốn
nói với chúng ta điều gì?
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
86
Đoạn văn tham khảo Ở đoạn thơ trên, tác giả sử dụng cách diễn đạt mang ý nghĩa tương phản giữa các hình ảnh: Một “ngôi sao” với một “màn đêm” ( một ngôi sao thì chỉ có ánh sáng yếu ớt, không làm sáng được một bầu trời đêm) “ Một thân lúa chín” với “ Mùa vàng” ( Một bông lúa chín thật nhỏ bé, không thể làm lên một vụ mùa bội thu), “ Một người” và cả “ Nhân gian”( một người lẻ loi thì không thể tạo nên cả cõi đời, nơi cả loài người sinh sống. Vì vậy nếu có tồn tại thì cũng chỉ như một đốm lửa tàn sắp lụi tắt mà thôi.
Qua cách diễn đạt giầu hình ảnh trên, tác giả muốn gửi gắm tới người đọc một triết lý sâu sắc. Con người chỉ thực sự trở lên hữu ích khi biết sống trong mối quan hệ gắn bó đoàn kết với tập thể, với cộng đồng.Nếu sống mà tách rời khỏi tập thể, cộng đồng, chỉ nghĩ đến riêng mình và sống cho riêng mình thì cuộc sống đó trở lên vô vị.
Bài 33: Trong bài “ Về thăm nhà Bác” nhà thơ Nguyễn Đức Mậu viết:
Ngôi nhà thủa Bác thiếu thời Nghiêng nghiêng mái lợp bao đời nắng mưa Chiếc giường tre quá đơn sơ Võng gai ru mát những trưa nắng hè Đoạn thơ trên giúp ra cảm nhận được sự đơn sơ, giản dị của ngôi nhà Bác Hồ đã sống thủa niên thiếu. Cũng như bao ngôi nhà khác của làng quê Việt Nam, ngôi nhà của Bác cũng nghiêng nghiêng mái lợp ( mái được lợp bằng lá) cũng dãi nắng dầm mưa, cũng mộc mạc với chiếc giường tre, chiếc võng gai ru mát những trưa hè. Song trong ngôi nhà đó, Bác Hồ đã lớn lên trong tình cảm yêu thương tràn đầy của gia đình. Có thể nói ngôi nhà đơn sơ mà đầy ắp tình yêu thương đó chính là chiếc nôi ấm áp nuôi dưỡng tâm hồn nuôi dưỡng tuổi thơ của Bác. Chính ngôi nhà đó đã góp phần tạo nên con người Bác. Một vị lãnh tụ có tấm lòng nhân ái bao la.
Bài 34: Trong đoạn thơ tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Em
hãy nêu hiệu quả biểu đạt của biện pháp nghệ thuật ấy.
Mầm non mắt lim dim Cố nhìn qua kẽ lá Thấy mây bay hối hả Thấy lất phất mưa phùn ( Mầm non – Võ Quảng)
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
87
Bài làm ( tham khảo) Nghệ thuật được sử dụng – Đoạn thơ được sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa – Hình ảnh nhân hóa “Mầm non mắt lim dim” nằm ép lặng im Mầm non “Mắt lim dim”, “cố nhìn qua kẽ lá” Hiệu quả – Đoạn thơ trên được trích trong bài “Mầm non” của Võ Quảng. Tác giả đã rất thành công khi sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa để miêu tả cảnh mùa xuân tươi đẹp qua cái nhìn của cô bé mầm non. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã giúp ta hình dung và cảm nhận được thiên nhiên đất trời khi vào xuân với những hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, tràn đầy sức sống và vô cùng sinh động. Mầm non y như một đứa trẻ mới chào đời, còn rụt rè, bỡ ngỡ, e thẹn lấp sau chiếc lá bàng đỏ rồi tò mò thích thú chiêm ngưỡng, ngắm nhìn cảnh vật trong khung cảnh mùa xuân. Mầm non cố nhìn những hình ảnh vô cùng đẹp đẽ “Thấy mây bay hối hả, thấy lất phất mưa phùn” Với sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên pha lẫn niêm sung sướng. Thật tài tình khi sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Tác giả đã làm cho thế giới sự vật trở lên vô cùng ngộ nghĩnh, đáng yêu, những vật vô tri vô giác trở lên có tình người, hồn người. Qua nghệ thuật nhân hóa này đã thể hiện được tài quan sát và miêu tả cảnh vật thiên nhiên một cách hồn nhiên, tinh tế và độc đáo của tác giả.
Bài 35: Chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ sau và
nêu lên tác dụng của nó.
Gió nâng tiếng hát chói chang Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời (Tiếng hát mùa gặt – Nguyễn Duy)
Bài làm (tham khảo) Biện pháp nghệ thuật được sử dụng Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Hình ảnh nhân hóa là “Gió
nâng tiếng hát” , lưới hái “ Liếm ngang chân trời.
Tác dụng Hai câu thơ trên được trích trong bài thơ “Tiếng hát mùa gặt” của tác giả Nguyễn Duy. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa thật tài tình và tinh tế “Gió nâng tiếng hát chói chang” ,“Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời” Nhờ nghệ thuật nhân hóa mà chỉ với hai câu thơ, nhà thơ đã làm nổi bật cảnh mùa gặt ở
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
88
nông thôn Việt Nam được mở ra thật tươi vui, náo nức. Cảnh cánh đồng lúa tốt mênh mông hứa hẹn một mùa bội thu và một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tất cả hình ảnh mà nhà thơ đã đưa vào thơ đã tạo nên một bầu không khí ấm áp thanh bình nơi chốn thôn quê khi mùa gặt đến. Với hiệu quả của biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Nguyễn Duy đã khắc họa được một bức tranh tươi vui náo nhiệt và rất lên thơ nơi chốn đồng quê vào mùa gặt mới.
Bài 36: Hãy chỉ rõ biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong những câu thơ
sau và nêu tác dụng của chúng.
a. Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ b. Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền Bài làm a. Nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ trên là nghệ thuật ẩn dụ. Mặt
trời (trong lăng) là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ.
Tác dụng: Hai câu thơ trên trích trong bài thơ “ Viếng lăng Bác” của nhà thơ “ Viễn Phương. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để ca ngợi công lao của Bác Hồ. Hình ảnh trong lăng chính là hình ảnh ẩn dụng chỉ Bác Hồ. Nếu mặt trời thực ở câu thơ thứ nhất đem lại ánh sáng, đem lại sự sống cho vạn vật thì Bác là người soi đường chỉ lối cho dân tộc ta thoát khỏi đêm đen nô lệ để có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng cho ta thấy được sự vĩ đại của Bác, công lao to lớn của Bác đối với non sông đất nước ta, đồng thời qua hình ảnh ẩn dụ đó cũng cho ta thấy niềm tôn kính, lòng biết ơn.
b. Biện pháp nghệ thuật được sử dụng là nghệ thuật ẩn dụ: Thuyền (chỉ người con trai) bến (chỉ người con gái) và nghệ thuật nhân
hóa (thuyền nhớ bến, bến đợi thuyền)
Tác dụng: Các biện pháp tu từ ẩn dụ và so sánh trong câu ca dao trên đã tạo nên hình ảnh đẹp gợi cảm nói về tình thương nhớ đợi chờ của lứa đôi. Với từ “ ơi” với cự cổng hưởng của các vần thơ “ chăng” “ khăng” âm điệu của câu ca dao vang lên ngọt ngào tình yêu thắm thiết thủy chung của người con gái được diễn tả một cách sâu sắc cảm động. Thuyền và bến là hình ảnh tuyệt đẹp nói về tình yêu đôi lứa ta thường bắt gặp trong ca dao, dân ca.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
89
Bài 37: Chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong ví dụ sau và nêu
tác dụng của chúng.
a. Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng
b. Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
3.2. Thực hành thiết kế bài tập nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho
học sinh tiểu học qua một số tác phẩm sau: 3.2.1. Tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí 3.2.2. Thơ Trần Đăng Khoa 3.2.3. Thơ Phạm Hổ 3.2.4. Một số tác phẩm tiêu biểu trong chương trình Tiếng Việt tiểu học
Bài tập chương 3
1. Phân tích một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học
sinh tiểu học. Cho ví dụ minh họa.
2. Chọn một vài tác phẩm văn học trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, anh (chị) hãy thực hành thiết kế bài tập nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học.
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách: Dương Thị Hương. (2008). Cảm thụ văn học. Hà Nội: NXB ĐHSP Hà Nội, 180 trang. Trần Mạnh Hưởng. (2004). Luyện tập về cảm thụ văn học ở tiểu học. Hà Nội: NXB Giáo dục, 202 trang. Bài giảng: Dương Thị Ánh Minh. (2023). Bài giảng Cảm thụ văn học ở tiểu học. Lưu hành nội bộ, 89 trang Tài liệu từ website: Tài liệu về tiếp nhận văn học, cảm thụ văn học. https://tailieu.vn Sách tham khảo, sách văn học, học liệu mở về tiếp nhận và cảm thụ văn học. https://dhsphue.tailieu.vn, https://google.vn
Quảng Nam, ngày 20 tháng 9 năm 2023
Trưởng khoa/Ngành Người biên soạn
PGS.TS. Huỳnh Trọng Dương Dương Thị Ánh Minh
Cảm thụ văn học ở tiểu học – ThS. Dương Thị Ánh Minh
91