Bài giảng Ngân hàng phát triển – Bài 1: Dự án phát triển
lượt xem 1
download
"Bài giảng Ngân hàng phát triển – Bài 1: Dự án phát triển" được biên soạn nhằm cung cấp đến người học các kiến thức về tổng quan về dự án phát triển; khác nhau giữa dự án phát triển và dự án thương mại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Ngân hàng phát triển – Bài 1: Dự án phát triển
- Bài 1: Dự án phát triển BÀI 1 DỰ ÁN PHÁT TRIỂN Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn. Đọc tài liệu: 1. Giáo trình “Ngân hàng Phát triển” (PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, NXB Lao động – Xã hội); 2. Sách “Kinh tế và tài chính công” (Ths. Vũ Cương, trường ĐH Kinh tế Quốc dân) 3. Giáo trình “Kinh tế đầu tư” (PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt và Từ Quang Phương, trường ĐH Kinh tế Quốc dân); 4. Sách “Thẩm định tài chính dự án” (PGS.TS. Lưu Thị Hương, NXB Tài chính, Hà Nội). Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. Nội dung Bài Dự án phát triển nghiên cứu những vấn đề tổng quan về dự án phát triển bao gồm khái niệm, đặc điểm, quy trình, nguồn tài trợ và các rủi ro thường gặp đối với dự án phát triển. Mặc dù nhằm mục tiêu để sinh viên thấy được những điểm giống và khác nhau giữa dự án phát triển và dự án thương mại, song, sinh viên cũng cần hiểu được sự khác biệt này chỉ là tương đối vì chẳng hạn nếu có sự thay đổi về chủ đầu tư hoặc về các hình thức ưu đãi đối với dự án… thì một dự án phát triển có thể trở thành dự án thương mại và ngược lại. Mục tiêu Sau khi học xong bài này, sinh viên cần nắm được các nội dung sau: Sinh viên nêu được 3 đặc điểm của Dự án phát triển. Sinh viên so sánh được Dự án phát triển và Dự án thương mại. Sinh viên phân tích được những ưu điểm và nhược điểm của 5 nguồn vốn phù hợp với Dự án phát triển. Sinh viên phân tích được các rủi ro thường gặp phải đối với Dự án phát triển và đề xuất giải pháp hạn chế những rủi ro đó. TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 1
- Bài 1: Dự án phát triển Tình huống dẫn nhập Dự án xây dựng cầu treo dân sinh và dự án khu tổ hợp Goldmark City 1. Dự án xây dựng cầu treo dân sinh. Tổng vốn đầu tư: 400 tỷ đồng. Nguồn tài trợ cho dự án: Ngân sách Trung ương. Chủ đầu tư: Bộ Giao thông vận tải. Mục tiêu của dự án: Xây dựng 188 cầu treo dân sinh đảm bảo an toàn giao thông ở 28 tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên trong năm 2014 – 2015. 2. Dự án khu tổ hợp Goldmark City. Tổng vốn đầu tư: 10.000 tỷ đồng. Nguồn tài trợ cho dự án: vốn của chủ đầu tư và vốn vay Ngân hàng thương mại. Chủ đầu tư: Công ty TNHH Thương mại – Quảng cáo – Xây dựng – Địa ốc Việt Hân. Mục tiêu của dự án: Tổ hợp nhà ở, văn phòng thương mại với tổng số 9 tòa chung cư cao 40 tầng, quy mô 5.000 căn hộ, được đầu tư xây dựng trên khu đất trên 12ha. Hãy nêu những khác biệt cơ bản của 2 dự án trên. 2 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của dự án phát triển kinh tế 1.1.1. Khái niệm Các dự án phát triển kinh tế (dự án phát triển) là dự án trực tiếp tạo ra các sản phẩm chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế các ngành, vùng; thúc đẩy quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu nhập của nhiều bộ phận dân cư. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chỉ dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (trí thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu: Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Thời gian đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có tời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thưc hiện đầu tư, nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ kế hoạch tiến độ đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ động vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời gian sử dụng và đào thải công trình. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế. 1.1.2. Đặc điểm của dự án phát triển Dự án phát triển là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia. Dự án phát triển là thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia như chiến lược công nghiệp hóa (phát triển các ngành công nghiệp, khu công nghiệp, đường giao thông); phát triển nông nghiệp và nông thôn (phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn); TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 3
- Bài 1: Dự án phát triển chiến lược xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu (phát triển các ngành kinh tế có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế); chiến lược giảm đói nghèo, bảo vệ môi trường… Khuyến khích xuất khẩu: Nhà nước thường hỗ trợ hoặc thực hiện các dự án xuất khẩu lớn (hoặc hỗ trợ xuất khẩu): Xây dựng các cơ sở chế biến xuất khẩu; Xây dựng các cơ sở nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho xuất khẩu (nghiên cứu và bán các loại giống mới có năng suất cao, nghiên cứu biến đổi gien của cây trồng vật nuôi; nghiên cứu và sản xuất sản phẩm phần mềm…). Thay thế nhập khẩu: Phát triển ngành sản xuất thay thế nhập khẩu bằng cách sử dụng tối đa lợi thế của đất nước, giảm chi ngoại tệ, tạo công ăn việc làm…Việc phát triển ngành công nghiệp non trẻ trong giai đoạn đầu phải có sự hỗ trợ của Nhà nước để cạnh tranh được với các hãng nước ngoài. Ngành công nghiệp chiến lược: Tạo nguyên liệu đầu vào quan trọng cho nhiều ngành kinh tế khác, hạn chế sự phụ thuộc vào nước ngoài đối với nguyên liệu chiến lược. Ngành sản xuất sản phẩm liên quan trực tiếp tới an ninh xã hội và quốc gia, ví dụ điện nguyên tử, hàng không, thủy điện lớn, viển thông, cung cấp nước sạch... Dự án phát triển nông thôn: Ngành chế tạo máy, cơ khí để phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đường giao thông, kênh tưới tiêu… Dự án phát triển nhằm tới 2 mục tiêu: Hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Khác với dự án thương mại, dự án phát triển phải thực hiện các mục tiêu xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế… Chủ đầu tư thường là Nhà nước (hoặc các cơ quan phát triển) nên việc thực hiện đa mục tiêu là tất yếu đối với sự án phát triển. Các mục tiêu trong một số trường hợp lại mâu thuẫn với nhau. Chủ đầu tư vì vậy phải xác định nhóm mục tiêu cơ bản, có tính thống nhất cao. Dự án phát triển nhận được các ưu đãi từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Do tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế, dự án phát triển thường nhận hỗ trợ trưc tiếp từ Nhà nước như được Ngân sách cấp vốn, vay ưu đãi, vay không cần tài sản đảm bảo, được Chính phủ bảo lãnh (miễn phí) khi vay vốn, được đảm bảo vị thế độc quyền trong thời gian nhất định. Những hệ quả từ đặc điểm này là: Thứ nhất, sản phẩm của dự án áp dụng giá độc quyền (có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường) đê đảm bảo dự án có lãi, hoặc để doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của dự án có chi phí đầu vào thấp. Ví dụ dự án phát triển giống mía năng suất cao được ưu đãi của Nhà nước có thể tạo nên chi phí tấp hơn cho người nông dân trồng mía. Thứ hai, được sử dụng nguồn tài nguyên quý hiếm của quốc gia mà nhiều dự án thông thường khác không được phép sử dụng. Những mỏ khoáng sản lớn, nguồn nước cho thủy điện lớn, khai thác ở thềm lục địa, khai thác nước ngầm trê quy mô lớn, khai thác tần số vô tuyến điện, khoảng không… những tài nguyên quý hiếm do Nhà nước (Trung ương hoặc địa phương) quản lý và khai thác vì lợi ích chung thông qua dự án phát triển. 4 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển Thứ ba, vay vốn với lãi suất thấp và thời gia dài, có thể ân hạn. Đầu tư theo dự án phát triển có quy mô lớn, Nhà nước chỉ cấp vốn một lần phần còn lại là vay các tổ chức tài chính phát triển. Lãi suất cho vay thể hiện sự hỗ trợ của Nhà nước cho các dự án phát triển. Thứ tư, áp dụng tỷ giá chính thức khác với tỷ giá phản ánh sư thiếu hụt ngoại tệ. Tỷ giá chính thức (do các cơ quan quản lý tiền tệ công bố) thường thấp hơn tỷ giá trên thị trường (áp dụng cho các dự án thương mại). Chính sách trên cho thấy ưu đãi của Nhà nước đối với dự án phát triển, thường phải sử dụng nhiều ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị hoặc công nghệ. Thứ năm, được miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế thấp. Những trợ cấp trên đã chuyển giá thị trường thành giá ngầm (bù lỗ, kiểm soát giá, lãi suất và tỷ giá, xác định tiền lương, trợ cấp). Giá ngầm là các chi phí theo tình thế làm cho thị trường có thể hoạt động một cách lý tưởng. Chính phủ làm điều này để thúc đẩy sự phát triển thông qua thực hiện các mục tiêu: tạo nhiều công ăn việc làm, bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ… hay khắc phục những sơ hở về chính sách. Những điều kiện này làm cho các dự án phát triển có lợi thể so sánh với các dự án khác, cho phép thực hiện các mục tiêu xã hội (mà sẽ làm giảm hiệu quả tài chính), hoặc chống đỡ rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên những ưu đãi này đã gây khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả tài chính cũng như xã hội của dự án. 1.1.3. Chu trình của dự án 1.1.3.1. Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư Dự án phát triển nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế của quốc gia, ngành, vùng. Chuẩn bị đầu tư là công viêc của nhiều cấp, ngành và là giai đoạn quyết định thành công hay thất bại của công cuộc đầu tư. Hộp 1.1: Một số ý tưởng về các dự án tại việt nam đã không được chấp nhận Câu chuyện ầm ĩ về dự án Tượng đài mẹ Việt Nam anh hùng lên tới 410 tỷ đồng ở Quảng Ngãi vào năm 2011 và chuyện ASIAD 18 được đăng cai tại Việt Nam là hai ví dụ điển hình của các ý tưởng về dự án đã không được chấp nhận. Nếu phân tích một số thông số cơ bản sẽ thấy rằng 410 tỷ đồng bằng 5,1% chi ngân sách và 10,7% thu ngân sách năm 2010 của tỉnh Quảng Ngãi. Tỉnh cũng đánh giá rằng “Hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở các tuyến đường khu vực miền núi; ven biển; các khu; cụm công nghiệp; cơ sở y tế; giáo dục và đào tạo có nơi quá tải, xuống cấp nghiêm trọng, chất lượng dịch vụ chưa đảm bảo yêu cầu”. Việc tôn vinh hoặc có chính sách hợp lý đối với những người có công với đất nước nói chung và các bà mẹ Việt Nam anh hung nói riêng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, liệu có bất hợp lý khi quyết định bỏ ra chừng đó tiền để xây dựng một công trình tuy có những ý nghĩa nhất định nhưng không giải quyết được bất kỳ một nhu cầu cấp bách nào? Liệu các mẹ có cảm thấy vui khi mình được tôn vinh theo cách tốn kém như vậy trong khi đất nước chưa thực sự khả giá và còn bao nhiêu nhu cầu cấp bách hơn? Liệu có bất hợp lý khi tổ chức ASIAD 18 trong khi kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hết sức khó khăn và sự lãng phí từ Seagame 22 cũng như rất nhiều công trinh gần như là vô bổ từ sự kiện 1000 năm Thăng Long – Hà Nội đang còn ở ngay trước mắt? Các khoản chi tiêu trên xét về bối cảnh Việt Nam hiện nay thực sự là không hợp lý, nhưng do cấu trúc phân chia ngân sách mà không ít người vẫn muốn thực hiện những dự án vô bổ như vậy. Cuối cùng rất may là Chính phủ đã rất tỉnh táo khi quyết định không đăng cai ASIAD 18… Nguồn: Đầu tư công và vấn đề Ngân sách “tôm hùm” của Huỳnh Thế Du và Đỗ Thiên Anh Tuấn thuộc Chương trình Fulbright. TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 5
- Bài 1: Dự án phát triển Nghiên cứu cơ hội đầu tư: Các báo cáo kinh tế, kỹ thuật về các cơ hội đầu tư sẽ giúp hình thành các ý tưởng về dự án. Thông thường, các ý tưởng có được từ 2 cơ sở là (i) nhu cầu và (2) các dự án cũ. Dù chỉ là các ý tưởng nhưng cần có cơ sở chắc chắn để đảm bảo tính khả thi của các dự án sau này. Nghiên cứu dự án: Trên cơ sở dự án được lựa chọn, các chuyên gia tiến hành phân tích: Phương diện thị trường, phương diện kỹ thuật, phương diện tổ chức, phương diện tài chính, phương diện xã hội, môi trường theo nhiều phương án để lựa chọn phương án có hiệu quả nhất. Tùy thuộc vào tính chất và quy mô của dự án, các dự án có thể trải qua giai đoạn Nghiên cứu khả thi hoặc giai đoạn Nghiên cứu tiền khả thi và giai đoạn Nghiên cứu khả thi. Mục tiêu chính là đánh giá tính vững mạnh của dự án (mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí phát sinh từ dự án). Tiền khả thi Khả thi Bước đầu tiên trong việc Sau khi nhận thấy dự án đủ đánh giá tính vững mạnh hấp dẫn để tiến hành nghiên tổng quan của dự án. cứu chi tiết hơn. Cần lưu ý: Cần lưu ý: Đưa ra quyết định o Sử dụng thông tin thứ cấp. o Cải thiện độ chính xác của sau khi nghiên cứu các biến chủ yếu. khả thi: tiếp tục, o Đối với lợi ích nên sử điều chỉnh, hoãn dụng ước lượng bị thiên o Tiến hành các điều tra, hoặc hủy bỏ dự án. lệch xuống; đối với chi phí khảo sát để tính toán lại nên sử dụng ước lượng bị các phân tích thị trường, thiên lệch lên. tài chính. o Phân tích chi tiết về rủi ro và các biện pháp hạn chế. Thẩm định dự án: Trên cơ sở dự án được lựa chọn, chủ đầu tư quyết định tổ chức thẩm định. Các bộ phận thẩm định độc lập tiến hành xem xét lại nội dung của dự án đã được lưa chọn. Các kết luận thẩm định trên tất cả các nội dung của dự án. Thẩm định dự án là khâu quan trọng quyết định sự thành công của công cuộc đầu tư. Đối với các dự án được tài trợ bởi các Ngân hàng thương mại, các nhà tài trợ nước ngoài thì việc này thường được kiểm soát chặt chẽ, song, đối với các dự án phát triển được tài trợ bằng nguồn Ngân sách nhà nước thông qua chi tiêu của Chính phủ (gọi là đầu tư công) thì khâu thẩm định còn nhiều hạn chế. Minh họa trong Hộp 1.2 dưới đây phần nào làm rõ thực trạng này. Phê duyệt dự án: Các dự án phát triển đều phải thông qua khâu phê duyệt dự án của cơ quan có thẩm quyền để được cấp vốn, hoặc có được các nguồn tài trợ ưu đãi, hoặc được sử dụng các nguồn tài nguyên. Cơ quan Nhà nước (Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) tổ chức phê duyệt theo một quy trình định sẵn. Tổ chức đàm phán sơ bộ với các bên hữu quan có liên quan tới quá trình đầu tư để dự tính các yếu tố của dự án (ví dụ, các tổ chức tài chính, cơ quan quản lý khu công nghiệp, các đơn vị thiết kế, các đầu mối cung cấp thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm…). Ký các biên bản ghi nhớ đối với các yếu tố quan trọng, thay đối các yếu tố của dự án nếu thấy cần thiết. 6 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển Hộp 1.2: Một số bất cập trong thẩm định dự án đầu tư công Thứ nhất, trong rất nhiều trường hợp, tồn tại xung đột lợi ích trong hoạt động thẩm định dự án. Chẳng hạn như cơ quan thẩm định dự án đồng thời là cơ quan quyết định hoặc là cấp dưới của cơ quan quyết định chủ trương đầu tư. Thậm chí, trong một số trường hợp, cơ quan thẩm định trước đó lại đóng vai trò tư vấn cho chủ đầu tư trong việc xây dựng dự án. Trong trường hợp này, hoạt động thẩm định dự án chỉ có tính chất hình thức và chiếu lệ. Thứ hai, năng lực của các cơ quan thẩm định dự án hiện rất hạn chế, thể hiện rõ nhất qua việc thẩm định các dự đầu tư quy mô lớn và phức tạp. Vì thiếu năng lực thẩm định nên các cơ quan thẩm định thường không đưa ra được những đánh giá thuyết phục về hiệu quả tài chính, kinh tế, và xã hội của dự án, và vì vậy không đủ luận cứ để loại bỏ hay thông qua dự án. Trong trường hợp này, giải pháp thông thường là yêu cầu chủ đầu tư điều chỉnh lại dự án sao cho phù hợp với các quy định hiện hành để tránh những rủi ro về trách nhiệm và pháp lý sau này. Thứ ba, trong không ít trường hợp, việc thẩm định dự án chỉ mang tính minh họa cho các quyết định đầu tư có tính chính trị, và vì vậy không đảm bảo tính khách quan. Một ví dụ điển hình là dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam (ĐSCT). Theo Báo cáo đầu tư đường sắt cao tốc Hà Nội – Hồ Chí Minh (gọi tắt là Báo cáo) của Bộ Giao thông – Vận tải trong kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa II, thì trong tình huống cơ sở, tỷ lệ nội hoàn kinh tế cao nhất cũng chỉ đạt 10,6%, thấp hơn mức yêu cầu tối thiểu (hay chi phí cơ hội của vốn) là 12%, và do vậy dự án không hiệu quả về mặt kinh tế. Tuy nhiên, khi tìm cách đánh giá lại để củng cố tính khả thi về mặt kinh tế của ĐSCT, Báo cáo đã thay đổi một số giả định trong mô hình tính toán, cụ thể là (i) chi phí khai thác và duy tu bảo dưỡng thấp hơn; (ii) tỷ lệ đô thị hóa cao hơn ở các tỉnh, thành phố dọc trên tuyến ĐSCT; và (iii) giá nhiên liệu của vận tải đường bộ và đường hàng không cao hơn. Với những giả định mới này, mà thực chất là ước lượng chi phí thấp đi và lợi ích cao lên, tỷ lệ nội hoàn kinh tế trong tất cả các phương án đều được nâng lên trên 14%. Như vậy, bằng cách thay đổi một số giả định hạ thấp chi phí và phóng đại ích của dự án đầu tư, người ta có thể dễ dàng biến một kết quả không khả quan trở thành khả quan, ít nhất là trên giấy tờ. Thứ tư, sức ép về thời gian cũng ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng của thẩm định dự án. Theo quy định hiện nay, thời gian thẩm định dự án phụ thuộc vào quy mô và tầm quan trọng của dự án. Chẳng hạn như đối với những dự án xây dựng công trình, thời gian thẩm định của các dự án quan trọng quốc gia là không quá 90 ngày làm việc từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; còn thời gian thẩm định đối với dự án nhóm A, B, C lần lượt là không quá 40, 30, và 20 ngày làm việc. Mặc dù quy định chính thức là như vậy, song trên thực tế, thời gian thẩm định phải được rút ngắn hơn rất nhiều thì mới có thể giải quyết được một khối lượng dự án đồ sộ cần phải thẩm định. Điều này mâu thuẫn trực tiếp với thực trạng năng lực của đội ngũ thẩm định hạn chế, thiếu động cơ khuyến khích làm việc, nguồn dữ liệu và thông tin chuyên môn khan hiếm. Kết quả là trong nhiều trường hợp, việc thẩm định dự án hoặc rất tốn thời gian, hoặc chỉ được làm sơ sài chiếu lệ. Thứ năm, đối với các dự án ODA, những mâu thuẫn về quy trình và quy chuẩn thẩm định dự án của Việt Nam với đối tác quốc tế luôn là một nguyên nhân quan trọng khiến việc thẩm định dự án bị chậm trễ. Nguồn: Quản lý và phân cấp quản lý đầu tư công – thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, TS. Vũ Thành Tự Anh. 1.1.3.2. Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư Tập trung vốn cho đầu tư: cũng giống các dự án thương mại khác, vốn của dự án phát triển đến từ 2 nguồn là vốn vay và vốn chủ sở hữu. Tổ chức đấu thầu thiết kế, đấu thầu thi công các hạng mục công trình và kiểm soát. Doanh nghiệp thắng thầu sẽ tiến hành ký kết các hợp đồng thương mại và nhân sự, như mua (nhập thiết bị, tuyển nhân công, thuê đất đai, xây dựng nhà xưởng…). Tiến hành đầu tư: Giải phóng mặt bằng, tổ chức xây lắp hình thành tài sản cố định; giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Chủ đầu tư có thể thanh toán từng phần theo tiến độ công việc. Bàn giao giữa nhà đầu tư và chủ đầu tư, kiểm tra, vận hành, chạy thử… TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 7
- Bài 1: Dự án phát triển 1.1.3.3. Giai đoạn 3: Vận hành kết quả đầu tư Kết quả của giai đoạn 2 là tạo nên nhà máy, khu công nghiệp, một công trình hoặc chương trình… Đây là quá trình tạo ra sản phẩm tiêu thụ, thu hồi vốn, trả nợ, xử lý rủi ro, đánh giá dự án, thanh lý… Chủ đầu tư có thể tiếp tục quản lý công trình hoạt động hoặc bàn giao cho người sử dụng. Chẳng hạn như trường hợp của tuyến đường cao tốc Hồ Chí Minh – Trung Lương. Chủ đầu tư của dự án này là PMU Mỹ Thuận, thực hiện theo phương thức chìa khóa trao tay. Sau khi hoàn thành dự án, PMU Mỹ Thuận tiến hành bàn giao dự án cho Công ty Cổ phần phát triển đường cao tốc BIDV (BEDC), và kết thúc trách nhiệm của mình ở đó. BEDC sau đó chịu trách nhiệm thanh toán tiền đầu tư cho chính phủ, quản lý tuyến cao tốc (bao gồm cả thu phí, thực hiện bảo trì, bảo dưỡng). 1.2. Nguồn tài trợ cho dự án phát triển 1.2.1. Nguồn Ngân sách Nhà nước Vốn ngân sách được sử dụng lâu dài, không phải trả lãi. Vốn ngân sách cho đầu tư sẽ được ưu tiên cho những dự án không có khả năng hoàn trả (giao thông miền núi, thủy lợi, trồng rừng phòng hộ…), hoặc có khả năng hoàn trả song sức sinh lời thấp, rủi ro cao thời gian hoàn vốn dài. Nguồn ngân sách cho dự án phát triển gồm: Chi Ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Để mở rộng đầu tư phát triển, Chính phủ phải phát hành trái phiếu trung và dài hạn (trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị…). Chính phủ phải trả gốc và lãi trong thời hạn xác định. Đây là nguồn vốn đắt đỏ và khả năng gia tăng có giới hạn, cấp 100% cho các dự án không có khả năng hoàn trả, hoặc cấp một phần cho những dự án có khả năng sinh lời thấp. Từ sau cuộc khủng hoảng Đông Á 1997 – 1998, tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ Việt Nam so với GDP ngày càng tăng lên từ mức khoảng 21,6% năm 1998 lên 33,4% năm 2009 và 32,15% năm 2010. Tỷ lệ chi tiêu so với GDP tăng lên cũng đồng nghĩ với việc nhu cầu chi tiêu của Chính phủ tăng nhanh hơn mức tăng của GDP. Nói cách khác nhu cầu chi tiêu của Chính phủ đang có khuynh hướng tăng nhanh hơn lượng của cải mà nền kinh tế có khả năng tạo ra. Trong khi đó, các khoản thu hàng năm của Chính phủ luôn chiếm tỷ lệ thấp hơn trong GDP so với chi tiêu. Điều này cũng có nghĩa là Chính phủ Việt Nam luôn phải gánh chịu bội chi ngân sách triền miên, ít nhất là từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á đến nay. Tỷ lệ bội chi ngân sách đỉnh điểm gần 8,9% GDP năm 2009 khi Việt Nam đối mặt với tình trạng suy giảm kinh tế. Tình trạng bội chi ngân sách cao và kéo dài trong nhiều năm trong khi tăng trưởng bình quân nhìn chung không cao đã dẫn đến hệ quả tất yếu là tỷ lệ nợ trên GDP của Chính phủ cũng tiếp tục tăng lên. Năm 2010, tỷ lệ nợ công gộp trên GDP bình quân của thế giới là 46,7%, của các nước đang phát triển và mới nổi là 35,9%, của các nước đang phát triển ở Châu Á là 31,03% thì của Việt Nam là 52,85% (theo IMF). 8 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển Trong cơ cấu nợ công của Việt nam thì nợ nước ngoài chiến tỷ trọng lớn, đây là nguy cơ dẫn đến rủi ro tỷ giá. Nguồn: IMF Đồ thị 1.1. Nợ công của Việt Nam so với các nước từ năm 2001 đến năm 2012 1.2.2. Nguồn tài trợ phát triển của các Chính phủ, các Tổ chức tài chính quốc tế (ODA, Viện trợ song phương, tài trợ của WB,…) Đây là nguồn vốn có lãi suất thấp, thời gian sử dụng dài, rất thích hợp cho các dự án phát triển. Tuy nhiên, các nguồn này thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định. Một cách khái quát có 3 loại ràng buộc gồm: (i) điều kiện đối ứng tức là các bên tài trợ yêu cầu bên nhận tài trợ phải đảm bảo được một số điều kiện tối thiểu về vốn, nhân lực hay cơ sở hạ tầng…; (ii) điều kiện chỉ định trước xuất phát từ lý do các nhà tài trợ luôn có mục tiêu tài trợ nhất định và gắn với đối tượng cụ thể như người nghèo, phụ nữ, doanh nghiệp vừa và nhỏ… và do vậy họ yêu cầu vốn nhận về cũng phải được chuyển cho đúng các đối tượng đó; (iii) điều kiện chính trị. 1.2.3. Vay Ngân hàng phát triển Ngân hàng phát triển là Tổ chức tài chính của Chính phủ, có nhiệm vụ tổ chức nguồn vốn cho dự án phát triển. Để đáp ứng mục tiêu tài trợ cho dự án phát triển, các Ngân hàng phát triển này cần nỗ lực huy động các nguồn vốn trung và dài hạn phù hợp với các dự án. Song, tại các nước đang hoặc kém phát triển thì việc huy động được đủ lượng vốn này là rất khó, thường phải dựa vào nguồn từ Ngân sách nhà nước hay bảo lãnh của Chính phủ để phát hành trái phiếu. 1.2.4. Vay Ngân hàng thương mại Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại có nhiều đặc điểm không tương thích hoàn toàn với dự án phát triển như thời gian sử dụng tương đối ngắn, lãi suất cao. Tuy nhiên, Ngân hàng thương mại tài trợ một phần, kết hợp với các nguồn vốn khác là TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 9
- Bài 1: Dự án phát triển biện pháp hiệu quả đối với nhiều dự án phát triển có tính chất sinh lời cao, an toàn. Tài trợ của Ngân hàng thương mại sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước, cũng như hạn chế gánh nặng nợ nần của quốc gia, hạn chế tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác thường phát sinh gắn liền với tài trợ của nhà nước. 1.2.5. Nguồn khác Người hưởng lợi sẽ đóng góp cho dự án. Nguồn tài trợ này có ý nghĩa quan trọng đối với thành công của dự án phát triển, bởi vì nó gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm của người hưởng lợi, của chính quyền địa phương với dự án. 1.3. Rủi ro của dự án phát triển a) Rất khó điều chỉnh, chuyển hướng sản xuất kinh doanh Sản phẩm của dự án phát triển thường được thiết kế cho hàng chục năm, nhiều khi có tính chuyên biệt cao. Do vậy, trong quá trình họat động, nếu thấy không thể thực hiện được hoặc sản phẩm dự án sản xuất ra kém hiệu quả thì rất khó có thể nhanh chóng chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân cơ bản gồm (i) bị ảnh hưởng bởi thiên tai như động đất, bão, lũ, lụt, sóng thần, địch họa hoặc các sự kiện bất khả kháng khác; (ii) xuất hiện các yếu tố đem lại hiệu quả cao hơn cho dự án; (iii) khi quy hoạch xây dựng thay đổi trực tiếp ảnh hưởng đến địa điểm, quy mô, tính chất, mục tiêu của dự án; (iv) do biến động bất thường của giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, tỷ giá hối đoái đối với phần vốn có sử dụng ngoại tệ hoặc do Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách mới có quy định được thay đổi mặt bằng giá đầu tư xây dựng công trình thì việc điều chỉnh dự án là cần thiết. Điều này dẫn đến tình thế “tiến thoái lưỡng nan” đối với các tài trợ và chủ đầu tư. Nếu không cho phép điều chỉnh chi phí đầu tư thì các dự án đang triển khai có thể không bao giờ được hoàn thành, và lãng phí trong đầu tư là hệ quả chắc chắn. Mặt khác, nếu cho phép điều chỉnh thì hiển nhiên là sẽ làm tăng gánh nặng về vốn. b) Nhiều mục tiêu Trong trường hợp mục tiêu sinh lời bị đe doa, các hoạt động thương mại có thể thu hẹp sản xuất, chuyển hướng, hoặc tạm thời đóng cửa, còn các dự án phát triển lại rất khó thực hiện điều đó. Các cấp chính quyền hoặc các chủ đầu tư vẫn phải tiếp tục duy trì hoạt động của các dự án vì những mục tiêu xã hội. Ngân hàng bị ép phải tạm hoãn thu nợ, giản nợ, giảm lãi… c) Thiếu kinh nghiệm Phát triển các ngành kinh tế mủi nhọn thường thuộc lĩnh vực đầu tư mới, không có khuôn mẫu sẵn. Những dựa án “đơn chiếc” này thường gặp phải tình trạng thiếu chuyên gia, tiếu kinh nghiệm, vừa làm vừa học, khảo sát không đầy đủ… nên hay gặp phải sự cố như chi phí đầu tư tăng vọt, nhà máy bị lún, sản phẩm thừa, công nhận vận hành sai quy trình, thiếu nguyên liệu trầm trọng, thời gian đầu tư bị kéo dài… Tiêu biểu là trong lĩnh vực đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, đang tăng lên rất nhanh và đã cao hơn đáng kể so với các quốc gia đang và đã phát triển khác. Cụ thể là nếu như suất đầu tư 10 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển trung bình cho 4 làn xe của đường Pháp Vân – Cầu Giẽ, được coi là tuyến cao tốc đầu tiên của Việt Nam, chỉ là 1,86 triệu đôla/km trong giai đoạn 1998–2002, thì đến giai đoạn 2006 – 2012, suất đầu tư trung bình của tuyến Cầu Giẽ – Ninh Bình đã lên tới gần 10 triệu đôla/km. Các tuyến Hồ Chí Minh – Trung Lương và Đà Nẵng – Quảng Ngãi cũng có suất đầu tư tương tự như vậy. Gần đây hơn, ba tuyến đường cao tốc đã được quy hoạch và trong quá trình triển khai, bao gồm Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, Trung Lương – Mỹ Thuận, và Bến Lức – Long Thành có chi phí rất lớn, lên tới trên dưới 20 triệu đôla/km. Đặc biệt, suất đầu tư của tuyến Bến Lức – Long Thành dự kiến lên tới 28 triệu đôla/km. Nếu so sánh với Trung Quốc trong giai đoạn phát triển tương đương với Việt Nam hiện nay, hay thậm chí so với Mỹ, thì suất đầu tư đường cao tốc của Việt Nam cao hơn rất nhiều. d) Phụ thuộc lớn vào nhiều dự án khác Dự án phát triển thường không được xây dựng trên điều kiện có sẵn của trường. Quá trình thưc hiện dự án này kéo theo yêu cầu phải thực hiện dự án khác có liên quan, ví dụ dự án thủy điện phải gắn với dự án làm đường (để vận chuyển thiết bị), dự án đường dây (chuyển tải điện); dự án phát triển nuôi tôm xuất khẩu phải gắn với dự án nuôi tôm giống, chế biến thức ăn… mà những cơ sở này trước đây chưa có, hoặc chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu. Chỉ cần những dự án phụ thuộc này thực hiện không tốt thì dự án chính sẽ bị rủi ro. e) Thiết kế quá tham vọng so với khả năng nguồn vốn Để đáp ứng mục tiêu kinh tế, xã hội to lớn, chủ đầu tư (thường là Nhà nước) thiết kế các dự án phát triển với quy mô lớn vượt khả năng tài chính. Hậu quả là thời gian đầu tư kéo dài, bỏ hoặc giảm bớt một số hạng mục của dự án, giảm khả năng sửa chữa máy móc thiết bị hoặc nhập các phụ tùng thay thế. Nhiều dự án phát triển phải bỏ dở, gây lãng phí nghiêm trọng. g) Chi phí xã hội và môi trường lớn quá so với lợi ích dự kiến Nhiều dự án được đánh giá nghiêng về khẳng định lợi ích xã hội mà coi nhẹ khía cạnh chi phí xã hội. h) Ngân sách sai lệch Chủ đầu tư thường đưa ra dự toán thấp để được chấp nhận, sau đó nêu các lý do cần cấp thêm, vay thêm từ đó bóp méo chi phí và lợi ích. Dự toán sai lệch làm thay đổi dòng tiền dự tính, chậm trễ trong giải ngân, làm dự án không được thực hiện đúng tiến độ. Tình trạng ngân sách sai lệch hay cụ thể là đội vốn gần như xảy ra ở tất cả các dự án phát triển và vượt quá tầm kiểm soát không chỉ của cấp chính quyền địa phương như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh hay các địa phương khác mà còn cả của chính quyền trung ương bao gồm các bộ, ngành và dự án do Chính phủ quyết định. Bảng dưới đây minh họa tình trạng này đối với một số dự án tiêu biểu. TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 11
- Bài 1: Dự án phát triển Bảng 1.1: Tình trạng đội vốn của một số dự án tiêu biểu Vốn Vốn Mức Tỷ lệ Tên Dự án phát triển ban đầu điều chỉnh đội vốn đội vốn Cao tốc TP.HCM – Trung Lương 6.500 9.900 3.400 52% Đường quốc lộ 5 3.131 6.664 3.533 113% Cầu Phú Mỹ 1.800 3.250 1.450 80% Đường sắt Cát Linh – Hà Đông 553 892 339 61% (tr đô) Đại lộ Thăng Long 3.700 7.500 3.800 103% Cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình 3.734 8.974 5.240 140% Cầu Vĩnh Tuy 3.589 5.500 1.911 53% Tuyến đường sắt đô thị số 2 ở 19.555 51.750 32.195 165% Hà Nội Nguồn: Tổng hợp của Huỳnh Thế Du, Đỗ Thiên Anh Tuấn i) Thiếu cam kết của người hưởng lợi hoặc sự ủng hộ của chính quyền địa phương Đầu tư phát triển tạo nên các công trình lớn, khó hoặc không thể di dời. Các nhân tố chính tri xã hội địa phương, vì vậy ảnh hưởng lớn và lâu dài đến hiệu quả đầu tư. Người nông dân, vì lý do nào đó không cam kết cung cấp nguyên liệu cho nhà máy, chính quyền không ủng hộ nhà máy trong việc đảm bảo an ninh… đều làm giảm hiệu quả công cuộc đầu tư. k) Thiếu cạnh tranh Cạnh tranh là phương thức để có lợi nhuận cao hơn. Dự án phát triển không chịu áp lưc cạnh tranh. Nếu làm ăn thua lỗ đã có Nhà nước hỗ trợ bằng nhiều hình thức trợ cấp, giảm lãi, gia hạn nợ... Những nguyên nhân này dẫn đến tính kém hiệu quả của dự án phát triển. Một số ví dụ về rủi ro của các dự án phát triển ở Việt Nam Mặc dù Chính phủ đã khoanh nợ giãn nợ cho nhiều dự án, nhưng thực chất kéo dài thời hạn ân hạn của dự án thành 10 – 15 năm. Trong thời gian ân hạn, chủ đầu tư được vay vốn với lãi suất 0%. Theo tính toán của Quỹ Hỗ trợ phát triển thì việc thu nợ đối với dự án sau khi hết thời hạn khoanh nợ vẫn tiếp tục khó khăn, bởi khả năng thu hồi vốn rất thấp. Chương trình mía đường Theo phân tích của Bộ Tài chính các doanh nghiệp thuộc nhóm 1 (các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cần tiếp tục duy trì hiện trạng và có chính sách hỗ trợ để phát triển tốt hơn) tuy có điều kiện phát triển nhưng trước mắt vẫn lỗ. Nhà nước phải hỗ trợ thông qua xóa khoản VAT phải nộp phát sinh từ 2001–2003, ước khoảng 260 tỷ đồng. Với nhóm 2 (các nhà máy phải tiến hành sắp xếp lại, thực hiện việc cổ phần hóa – Nhà nước không nhất thiết phải nắm cổ phần, hoặc thí điểm bán, khoán kinh doanh, 12 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển cho thuê doanh nghiệp), để thực hiện các giải pháp hỗ trợ, trong giai đoạn 2003 – 2005 Nhà nước phải chi ra khoảng 1.100 tỷ đồng (chưa bao gồm số khoanh nợ và xóa nợ ngân sách nhà nước từ VAT). Các giải pháp hỗ trợ phải áp dụng là: xóa khoản VAT phát sinh từ 2001 – 2003, điều chỉnh lãi suất cho vay nội tệ là 3%/năm (gồm các khoản nhận nợ bắt buộc phát sinh sau ngày 1/1/2003), chuyển vốn vay ngoại tệ thành nội tệ, khoanh nợ lãi suất tiền vay, chi phí bảo hành, cấp bù lệch lãi suất và tỷ giá phát sinh đến 31/12/2002 nhưng chưa được xử lý cấp bổ sung vốn lưu động. Với nhóm 3 (các nhà máy phải di chuyển đến địa điểm mới hoặc dừng sản xuất), Bộ Tài chính cho biết nếu muốn cứu, ngay lức này Nhà nước phải cho ngay khoảng 5.000 tỷ đồng, trong đó 3.277 tỷ để trả nợ và 1.689 tỷ để bù lỗ kinh doanh. Các năm tiếp theo đến năm 2005 phải tiếp tục bổ sung nguồn chi phí hỗ trợ thêm thì các doanh nghiệp này mới có thể phát triển ngang với các doanh nghiệp nhóm 2. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết năm 2002 tình hình tài chính của các nhà máy đường: lỗ 2.753 tỷ đồng, trong đó nhà máy đường vốn trong nước lỗ 2.048 tỷ, nhà máy đường có vốn nước ngoài lỗ 704 tỷ. Nợ như sau: đến hết năm 2005 dư nợ của chương trình là 5.008 tỷ đồng, trong đó nợ gốc là 4.139 tỷ, lãi và tính phí bảo lãnh 869 tỷ. Trong tổng dư nợ thì nợ vay trong nước là 4.008 tỷ đồng, vay nước ngoài là 1.000 tỷ đồng. Nợ quá hạn 700 tỷ đồng. Trong hai năm 2002, 2003 các nhà máy không trở được nợ vay nước ngoài do Ngân hàng Nông ngiệp và Phát triển nông thôn bảo lãnh nên ngân hàng này đã phải trả nợ 485 tỷ đồng. Tương tự cũng chưa có doanh nghiệp nào trả được nợ vay nước ngoài của ADB. Chương trình xi măng Theo số liệu của Viện Vật liệu xây dựng, hiện (17/8/2005) cả nước đã có gần 100 nhà máy xi măng và trạm nghiền xi măng, nhưng chỉ có 13 nhà máy xi măng lò quay, còn lại là các nhà máy xi măng lò đứng và các trạm nghiền. Do đầu tư “nóng vội” nên trong thời gian qua, quy mô đầu tư tương đối đa dạng, dây chuyền thiết bị có cả công suất thiết kế từ dưới 1000 đến 3000 tấn Clinke/ngày trở lên. Đại diện Tổng Công ty xi măng cho biết, hiện các dự án xi măng như Hoàng Mai, Hải Vân (Đà Nẵng), xi măng Tam Điệp, xi măng Kiềm Định (Thanh Hóa) được chuyển về Tổng Công ty xi măng nhưng đang rơi vào tình trạng nợ và lỗ lớn. Do đầu tư không tính tới yếu tố thị trường các nhà máy này đang rơi vào tình trạng nợ và lỗ chồng chất. Điển hình là dự án xi măng Hoàng Mai, mặc dù mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/7/2002, nhưng dự án đã lỗ 423 tỷ đồng. Chỉ tính riêng việc trượt giá đồng USD và EUR khiến dự án này đã cõng trên lưng một khoản nợ khổng lồ 399 tỷ đồng (trong khâu mua thiết bị của dự án). Hiện tại dự án xi măng Hoàng Mai nợ 2.667 tỷ đồng, nợ đến hạn phải tra 397 tỷ và lãi phải trả cho các khoản vay đầu tư 158 tỷ. Riêng khoản vay ngân hàng nước ngoài đã trả được 5 kỳ, nhưng trên thực chất dự án mới trả được 800 tỷ/khoản vay 1.500 tỷ đồng. Chương trình cà phê Từ cuối năm 1999 đến hết năm 2002, giá cà phê trong nước và ngoài nước liên tục giảm làm các đơn vị sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê của TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 13
- Bài 1: Dự án phát triển Tổng Công ty thua lỗ lớn. Không có khả năng thanh toán nhưng hầu hết các đơn vị đều phải dùng tiền vay ngân hàng để bù đắp các khoản chi phí cho sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối nghiêm trọng về tài chính ở đa số các đơn vị thành viên. Theo tính toán của Tổng Công ty, có đơn vị thành viên lỗ trên 10 tỷ đồng. Qua từng năm kinh doanh thua lỗ đến nay số lỗ lũy kế của toàn Tổng Công ty đến 31/12/2003 lên tới gần 600 tỷ đồng. Theo dự báo của Tổng Công ty cà phê Việt Nam tình hình đặc biệt khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp cà phê còn kéo dài thêm nhiều năm tới. Điều này đồng nghĩa với việc không thể trả nợ vay ngân hàng đối với các khoản nợ theo Quyết định 1127/QĐ–TTg, số tiền là 760 tỷ đồng. Thực tế, Ngân hàng Nhà nước vừa thống nhất kéo dài thời gian khoanh nợ cho các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty cà phê với số dự nợ trên 748 tỷ đồng, thời gian khoanh nợ kéo dài không quá 2 năm kể từ ngày 31/7/2004. Ngoài Tổng Công ty cà phê Việt Nam, một số Doanh nghiệp khác như Công ty cà phê Phước An… cũng rơi vào tình trạng tương tự. Chương trình thép Theo ông Ngô Trọng Khôi, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty thép Việt Nam cho biết, các dự án về thép được vay từ nguồn vốn tín dụng Nhà nước, hầu hết đến nay đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên có nhiều dự án đến nay vẫn chưa trả được nợ, nguyên nhân chính là trong quá trình thi công đã phát sinh rất lớn so với thiết kế ban đầu. Dự án cải tạo gang thép Thái Nguyên là một ví dụ. Dự án này bao gồm 3 tiểu dự án với tổng số vốn được đầu tư 400 tỷ đồng và trong quá trình thi công đã phát sinh thêm 42 tỷ so với thiết kế ban đầu được duyệt. Mặc dù dự án đã đi vào hoạt động song cho đến nay vẫn chưa có khả năng trả được nợ vay. Đầu tư xây dựng cơ bản tràn lan dẫn đến nợ đọng xây dựng cơ bản Cùng với việc sử dụng nguồn tín dụng đầu tư phát triển đang “nặng nợ” với 1.500 dự án, 1.180 tỷ đồng quá hạn, 950 tỷ lãi treo, thì mới đây, theo báo cáo (chưa qua rà soát) của các tỉnh, thành phố trong cả nước, tổng số nợ xây dựng cơ bản của các nơi này đã lên 13.000 tỷ đồng. Vì những vấn đề trong xây dựng cơ bản (đấu thầu, nợ động, cơ chế quản lý…) mà nhiều đơn vị xây dựng đã rơi vào tình trạng khó khăn. Cách đây 2 năm Chính phủ đã chỉ đạo các ngân hàng thực hiện việc xử lý nợ cho Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 5 với những khoản thua lỗ tới 400 tỷ đồng, khoản nợ đọng trên 2.000 tỷ đồng. Hiện nay đang tới Tổng Công ty xây dựng Thăng Long và các doanh nghiệp khác. Đến cuối năm 2004, cơ quan chức năng đã xác định chỉ có Tổng Công ty tư vấn thiết kế Giao thông vận tải là kinh doanh ổn định, còn lại 11 Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ Giao thông vận tải lỗ lớn, nhiều doanh nghiệp đã mất hết vốn nhà nước, trong đó một Tổng Công ty có số nợ gần 2.000 tỷ đồng. Ngoài ra, còn một số chương trình khác chưa có số liệu chính thức hoặc chưa tổng kết như: Chương trình phát triển nhà tại đồng bằng Sông Cửu Long, Chương trình phát triển các khu công nghiệp… 14 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
- Bài 1: Dự án phát triển Tóm lược cuối bài Dự án phát triển là các dự án quan trọng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế. Dự án phát triển là các dự án trực tiếp tạo ra các sản phẩm chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế các ngành, vùng; thúc đẩy quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu nhập của nhiều bộ phận dân cư. Ba đặc điểm quan trọng của Dự án phát triển gồm (1) quy mô lớn (2) hướng tới hiệu quả xã hội và hiệu quả tài chính (3) thường nhận được các ưu đãi từ Nhà nước. Các nguồn vốn tài trợ cho Dự án phát triển rất đa dạng, xuất phát từ nhu cầu về vốn của dự án trên giác độ quy mô, chi phí và thời hạn sử dụng vốn. Do những đặc điểm riêng có nên Dự án phát triển thường đối mặt với nhiều rủi ro, đe dọa việc đạt được các mục tiêu của dự án. TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226 15
- Bài 1: Dự án phát triển Câu hỏi ôn tập 1. Thế nào là dự án phát triển? 2. Các đặc điểm của dự án phát triển là gì? 3. Nêu các điểm giống và khác nhau giữa dự án phát triển và dự án thương mại. 4. Có quan điểm cho rằng: “Chính phủ tài trợ cho các dự án phát triển”, hãy bình luận quan điểm này. 5. Thế nào là hiệu quả tài chính, hiệu quả xã hội của dự án? 6. Có quan điểm cho rằng: “Các dự án phát triển ưu tiên hiệu quả xã hội hơn hiệu quả tài chính”, hãy bình luận quan điểm này. 7. Hãy phân tích các nguồn vốn tài trợ cho dự án phát triển. 8. Có quan điểm cho rằng: “Vốn từ các Chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế là nguồn vốn phù hợp với các dự án phát triển”, hãy bình luận quan điểm này. 9. Tại sao nguồn tài trợ từ ngân hàng thương mại không phù hợp với mọi dự án phát triển? 10. Những nguyên nhân nào làm phát sinh các rủi ro đối với dự án phát triển? 16 TXNHTM07_Bai1_v1.0015105226
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng học Ngân hàng thương mại
12 p | 192 | 40
-
Bài giảng Ngân hàng thương mại - ThS. Nguyễn Anh Tuấn
20 p | 262 | 35
-
Bài giảng Ngân hàng thương mại - Chương 1: Tổng quan về hoạt động ngân hàng
19 p | 208 | 32
-
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại
3 p | 138 | 14
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 3 - Vũ Thành Tự Anh
15 p | 260 | 12
-
Bài giảng Tài chính quốc tế: Bài 7 - ThS. Trần Thị Hải An
13 p | 61 | 11
-
Ngân hàng trung ương
6 p | 100 | 9
-
Bài giảng Quản trị ngân hàng - Phần 1: Hướng tới NHTM phát triển bền vững
18 p | 82 | 9
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 12 - Nguyễn Đức Mậu
18 p | 217 | 8
-
Bài giảng Tài chính Phát triển: Bài 8 - Đỗ Thiên Anh Tuấn
19 p | 222 | 8
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 12 - Nguyễn Xuân Thành
13 p | 106 | 8
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 7 - Chuyển đổi số và hệ thống tài chính
11 p | 13 | 7
-
Bài giảng Phân tích tài chính (2016): Bài 3 - Nguyễn Xuân Thành
14 p | 60 | 5
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Giới thiệu môn học
6 p | 8 | 5
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 12 - Nguyễn Tấn Thắng
17 p | 214 | 4
-
Bài giảng Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Chương 6 - Phạm Thị Mỹ Châu (HK1)
17 p | 8 | 3
-
Bài giảng Ngân hàng phát triển - Bài 4: Tài trợ dự án tại ngân hàng phát triển
17 p | 61 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn