BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH CÔNG VĂN BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC TIỄN CỦA CƠ QUAN

ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI – 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH CÔNG VĂN BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC TIỄN CỦA CƠ QUAN

ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN

HÀ NỘI – 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Kết

quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Công Văn

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT : Cơ quan điều tra

ĐTV : Điều tra viên

KSV : Kiểm sát viên

HĐTP : Hoạt động tư pháp

TTHS : Tố tụng hình sự

VKS : Viện kiểm sát

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5

3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 5

3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................................... 5

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 9

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ ĐẢM BẢO QUYỀN TỐ GIÁC VỀ

TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP ....................................... 9

1.1. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ......................... 9

1.1.1.Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp .................................................. 9

1.1.2.Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ..................... 13

1.2. Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ......... 15

1.2.2. Các yếu tố cấu thành bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp .................................................................................................... 18

1.2.3. Nội dung bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp ................................................................................................................. 21

1.2.4. Vài trò, trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong việc bảo

đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ....................... 25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................ 41

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM

XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ............................................................... 42

2.1. Khái quát về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ............... 42

2.1.1. Đặc điểm chung của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao 43

2.1.2. Đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ so với các đơn vị hành

chính khác ....................................................................................................... 44

2.1.3. Đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ so với các Cơ quan điều tra

khác ................................................................................................................. 46

2.1.4. Tình hình hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối

cao ................................................................................................................... 49

2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp ở Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................. 53

2.2.1 Bảo đảm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người tố giác .......................... 53

2.2.2. Cơ quan, người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp bảo

vệ ..................................................................................................................... 56

2.2.3. Thực hiện các biện pháp bảo vệ ............................................................. 58

2.2.4. Thực hiện trình tự thủ tục bảo vệ .......................................................... 61

2.2.5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ ................................................... 63

2.2.6. Về hồ sơ bảo vệ ..................................................................................... 65

2.3. Đánh giá chung thực trạng bảo vệ quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp ở Cơ quan điều tra VKSND tối cao ........................................... 66

2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 66

2.3.2. Những hạn chế, bất cập ......................................................................... 70

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ............................................. 72

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................ 74

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ

GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC

TIỄN CƠ QUAN ĐIỀU TRA VKSND TỐI CAO ......................................... 75

3.1. Yêu cầu của việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp ............................................................................................................. 75

3.2. Phương hướng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp ................................................................................................................. 76

3.3. Giải pháp bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp ................................................................................................................. 78

3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tố giác về tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp .................................................................................. 78

3.3.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy, hoạt động của Cơ quan điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao ....................................................................... 81

3.3.3. Hoàn thiện về hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

tối cao .............................................................................................................. 86

3.3.4. Nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng Điều tra viên, Cán

bộ điều tra và công chức của Cơ quan điều tra VKSND tối cao .................... 89

3.3.5. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và chế độ đãi ngộ đối với Điều

tra viên, Cán bộ điều tra và công chức ............................................................ 92

3.3.6. Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát việc bảo đảm quyền tố giác

về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ...................................................... 94

3.3.7. Giải pháp nâng cao chất lượng thu thập, tiếp nhận, quản lý và xử lý tố giác

về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao ...... Error!

Bookmark not defined.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................. 104

PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 107

DANH SÁCH BẢNG

Bảng 2.1: Tổng số thông tin vi phạm, tội phạm và tố giác, tin báo do Cơ quan

điều tra VKSND tối cao tiếp nhận, giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019.......53

Bảng 2.2: Số lượng vụ án, bị can xâm phạm hoạt động tư pháp do Cơ quan điều

tra VKSND tối cao khởi tố, điều tra từ năm 2015 đến năm 2019..................................55

Bảng 2.3. Tỷ lệ bị can bị Cơ quan điều tra VKSND tối cao khởi tố, điều tra

trong các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2015 đến năm

2019......................................................................................................................................................................................................56

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Một trong những chức năng quan trọng và là tiêu chí đánh giá mức độ dân

chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền công dân.

Hiến pháp năm 2013 của nước ta tại Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng Hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân

sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo

Hiến pháp và pháp luật” và Điều 30 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại,

tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp

luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó thể hiện Nhà nước ta rất coi trọng

quyền tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, thông qua hiện quyền

tố cáo sẽ giúp cho Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nước.

Đồng thời “quyền tố cáo” là một trong những quyền làm chủ trực tiếp của nhân

dân trong giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức.

Bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền công

dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết

nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công dân của các cá nhân trong việc tố

giác về tội phạm.

Từ thực tiễn trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm cho thấy để

nhanh chóng phát hiện được tội phạm và kịp thời ngăn chặn, xử lý thì ngoài công

tác chủ động nắm bắt tình hình và xử lý của các cơ quan Nhà nước trong việc

phòng ngừa, phát hiện vi phạm, tội phạm thì hầu hết việc phát hiện được sớm

các vi phạm, tội phạm lại phụ thuộc vào chính việc công dân chủ động tố giác

tội phạm đến các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện nay việc bảo đảm cho

công dân thực hiện quyền tố giác về tội phạm còn gặp nhiều khó khăn, như: Điều

kiện kinh tế, xã hội, cơ sở vật chất, phương tiện đi lại còn nhiều khó khăn; lực

lượng vũ trang, công chức làm công tác tiếp nhận tố giác về tội phạm tại một số

2

Cơ quan điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra còn thiếu, trình độ còn hạn chế; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp

luật chưa sâu rộng; nhận thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, nhiều

trường hợp tâm lý tránh va chạm nên không tố giác tội phạm và không hợp tác,

làm việc với các cơ quan có thẩm quyền…

Trong những năm vừa qua, song song với tình hình kinh tế - xã hội nước

ta tiếp tục tiến triển tích cực, kinh tế vĩ mô đang trên đà tăng trưởng; lạm phát

được kiểm soát, chính sách xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện hiệu quả;

quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác cải cách tư

pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm

và đạt kết quả tích cực, quyền con người, quyền công dân ngày càng được nâng

cao. Tuy nhiên, tình hình vi phạm, tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, có

chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất, mức độ nghiêm trọng không

chỉ đối với các loại tội phạm thông thường do các Cơ quan điều tra trong Công

an nhân dân và Quân đội nhân dân xử lý mà cả các tội phạm mang tính chất

đặc thù như tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng,

chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp do Cơ quan điều tra VKSND tối cao

điều tra xử lý; đòi hỏi các cơ quan điều tra phải tích cực, nhanh chóng phát hiện

để kịp thời xử lý, giáo dục, răn đe, phòng ngừa nhưng do trình độ khoa học kỹ

thuật ngày càng phát triển, tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi, khó phát hiện

gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý; Đặc biệt là các loại tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng chức vụ xảy ra trong

hoạt động tư pháp; bởi loại tội phạm này với đặc thù người phạm tội là những

người có thẩm quyền trong các cơ quan tư pháp dẫn đến người dân có tâm lý e

ngại sợ bị gây khó khăn hoặc trả thù nên không tố giác các hành vi vi phạm, tội

phạm. Do đó, việc phát hiện, khởi tố, điều tra các loại tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao ngày càng khó khăn.

3

Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo việc phát hiện, khởi tố,

điều tra các loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, nhất là các loại tội

phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp; từ ngày 01/01/2018,

Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã được tăng thêm thẩm quyền điều tra tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định

tại Chương XXIII và Chương XXIV Bộ luật hình sự, xảy ra trong hoạt động tư

pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án

nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền

tiến hành hoạt động tư pháp, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của

Tòa án nhân dân.

Trước tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội

phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp vẫn diễn biến phức

tạp và có chiều hướng gia tăng, đã gây bức xúc trong xã hội, làm giảm lòng tin

của Nhân dân vào hệ thống cơ quan tư pháp. Do vậy, việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao là một vấn đề cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc

cải cách tư pháp và đổi mới tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; trong

đó việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội

phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp là vấn đề then chốt

nhằm hạn chế thấp nhất việc xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới tăng thêm theo quy định của Luật

tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, nhằm nâng cao nhận thức pháp

luật cho lực lượng Cán bộ điều tra, Điều ra viên Cơ quan điều tra của Viện kiểm

sát nhân dân tối cao trong việc bảo đảm quyền tố giác, báo tin về tội phạm,

cũng như việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức và ý thức đấu tranh, phát hiện,

tố giác, báo tin kịp thời về tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp nói riêng của cá nhân, cơ quan và tổ chức.

4

Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Bảo đảm quyền tố giác về tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao” làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật

Hiến pháp – Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong nhiều năm vừa qua, tình hình nghiên cứu về hoạt động của các Cơ

quan điều tra nói chung và của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói riêng đã

thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, cán bộ thực tiễn, đến nay đã

có nhiều công trình nghiên cứu, cụ thể như sau:

- “Đổi mới tổ chức, hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” của tác giả TS. Nguyễn Hải Phong – Phó Viện trưởng Thường trực VKSNDTC, Tạp chí Kiểm sát, số 08/2017;

- “Những yêu cầu đặt ra khi Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện các luật mới về tư pháp hình sự”, của tác giả Ts. Nguyễn Tiến Sơn – Thủ trưởng Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Tạp chí Kiểm sát số 23/2017.

- “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết công tác thực tiễn

hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp” – Nguyễn Tiến Sơ- “Đổi mới tổ chức và hoạt động của

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” –

Lại Viết Quang – Tạp chí Kiểm sát số 11 – tháng 6/2013;

- Bài viết “Phân tích một số tội phạm hoạt động tư pháp trong chương

XXIV Bộ luật hình sự năm 2015” - Tiến sỹ: Nguyễn Tiến Sơn, đăng trên Tạp

chí Kiểm sát số 23/2017.

- “Áp dụng pháp luật trong điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam hiện nay”, Luận

văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội của tác giả Phạm Thị Thanh Thúy (2015).

5

- “Áp dụng pháp luật trong điều tra các tội phạm tham nhũng trong hoạt

động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao việt Nam

hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội của tác giả Nguyễn Đức Thực (2016).

- “Vai trò của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong

phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc sĩ, Học viện

Hành chính Quốc gia, của tác giả Trần Long Hân (2017).

Các công trình nghiên cứu trên mặc dù đã nghiên cứu cơ bản, toàn diện

về hoạt động tổ chức, điều tra nói chung của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một

cách chi tiết và có hệ thống đối với nội dung “Bảo đảm quyền tố giác về tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Việc nghiên cứu đề tài trên của Luận văn là

công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Làm rõ vai trò, thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân tối cao theo quy định mới của luật;

- Tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham

nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; những yêu cầu của cải cách tư pháp

và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp;

- Thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp và tăng cường các cơ chế giám sát để bảo đảm quyền tố giác về tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp của công dân.

3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và tại Cơ

quan điều tra VKSND tối cao về bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm

6

hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư

pháp trong khoảng thời gian từ năm 2015-2019.

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong

đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; khảo sát, đánh

giá thực trạng vai trò của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong

bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong điều

kiện hiện nay, kiến nghị, đề xuất các giải pháp thực hiện hiệu quả.

Trên cơ sở mục đích, Luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ

bản sau:

- Nghiên cứu về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong điều tra các loại tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ, xảy ra trong

hoạt động tư pháp.

- Nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền

tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp từ thực tiễn của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao.

- Dự báo được tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; Đề xuất, kiến nghị các

giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tố giác, báo tin về tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp của công dân trong điều kiện hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cách tiếp cận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng cách tiếp cận

định lượng, tiếp cận tổng thể và tiếp cận bộ phận.

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam

về cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đấu tranh phòng,

7

chống tội phạm nói chung và tội tham nhũng trong hoạt động tư pháp nói riêng

trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng như:

Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp lịch sử cụ thể.

Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp khác như logic, thống kê,

tổng hợp, phân tích, so sánh…để giải quyết những vấn đề mà đề tài đề cập đến,

cụ thể:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh được áp dụng nghiên cứu ở

Chương 1 của luận văn.

- Phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân tích, so sánh được sử

dụng cho những nội dung nêu trong Chương 2 của luận văn.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp được áp dụng nghiên cứu ở Chương

3 của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Trên cơ sở phân tích lý luận, thực trạng và giải pháp trong việc bảo đảm

quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp – Từ thực tiễn của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, luận văn đã chỉ ra những bất cập,

khó khăn trong công tác áp dụng, thực thi pháp luật về bảo đảm quyền tố giác

về tội phạm, nhất là các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm

tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Đồng thời, luận văn cũng

đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng bảo đảm quyền tố

giác tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, để có thể đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.

Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng

dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, nhất là trong việc giảng dạy có liên

quan đến hoạt động điều tra vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp và các vụ án

tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao.

8

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận chung về bảo đảm quyền tố giác về tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao.

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

tối cao.

Chương 3: Giải pháp bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp.

9

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ ĐẢM BẢO QUYỀN TỐ GIÁC

VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP

1.1. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Trong những năm qua, tình hình vi phạm, tội phạm nói chung và tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong

hoạt động tư pháp ngày càng diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng.

Mặt khác, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật Tổ chức Cơ quan điều

tra hình sự có hiệu lực năm 2018 và các văn bản hướng dẫn luật mới ban hành

đã thay đổi, bổ sung nhiều quy định để nâng cao hơn các cơ chế bảo đảm quyền

tố giác về tội phạm cho công dân. Đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất cho người

dân được thực hiện quyền tố giác về tội phạm, nhất là tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp là loại tội phạm đặc thù với chủ thể là những người có chức vụ,

quyền hạn trong các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân

dân, Tòa án nhân dân, Cơ quan Thi hành án dân sự, Cơ quan Thi hành án hình

sự, các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), đều

là những người có trình độ, khả năng, điều kiện che giấu tội phạm tinh vi và

khó phát hiện hơn tội phạm thông thường, trong khi người dân lại có tâm lý lo

sợ, e ngại khi tố cáo các hành vi của những chủ thể trong các cơ quan tư pháp

vì tâm lý ngại va chạm hoặc sợ bị trả thù. Do đó, việc nâng cao trách nhiệm bảo

đảm quyền cho công dân trong việc tố giác các tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp là hết

sức cần thiết.

1.1.1. Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Theo quy định tại Điều 367 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Các tội

xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt

động tố tụng và thi hành án”. Khái niệm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 đã

10

rút gọn so với khái niệm của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung

năm 2009) quy định tại Điều 292: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là

những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm

sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của tổ chức, công

dân.”, tuy nhiên khai niệm này lại bao quát và đầy đủ hơn, góp phần xử lý

những hành vi phạm tội tương tự xảy ra trong các cơ quan khác ngoài cơ quan

điều tra chuyên trách, có sự mở rộng thêm phạm vi các quan hệ xã hội trong

lĩnh vực hoạt động tư pháp được pháp luật hình sự bảo vệ, bảo đảm đường lối

xử lý loại tội phạm này được chính xác và toàn diện.

Theo đó, về khách thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là các

quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tố tụng và thi hành án, nhằm bảo đảm

cho các cơ quan này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của minh theo quy

định của pháp luật. Các tội phạm này không chỉ xâm phạm đến hoạt động đúng

đắn, uy tín, chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan tư pháp mà còn xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, các

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Về mặt khách quan của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thể

hiện ở các hành vi xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan

tiến hành tố tụng và thi hành án. Phần lớn các tội phạm này được thực hiện dưới

dạng hành động (dùng nhục hình; bức cung; mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác

cung cấp tài liệu sai sự thật; khai báo gian dối; trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn

khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử; ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật;

làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc…). Một số tội phạm được thực hiện dưới dạng

không hành động (không chấp hành án; không thi hành án; thiếu trách nhiệm để

người bị giam, giữ trốn; không tố giác tội phạm; không ra quyết định hoặc không

chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do…).

Phần lớn các tội phạm có cấu thành hình thức (18/24 tội quy định tại các

Điều 368, 369, 370, 373, 374, 375, 378, 380, 382, 383, 384, 385, 386, 387, 388,

11

339, 390, 391). Đối với các trường hợp này, tội phạm được coi là hoàn thành

từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đối với một

số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có cấu thành vật chất (4/24 tội quy

định tại các Điều 371,372, 376, 379, 381), tội phạm được coi là hoàn thành từ

thời điểm xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Riêng Điều 377 BLHS năm 2015 được

xây dựng theo cấu thành tội phạm hỗn hợp, nghĩa là các dấu hiệu thuộc mặt

khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình

thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất. Lúc này, tùy từng trường

hợp mà tội phạm được xác định là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực

hiện hành vi phạm tội (điểm a, b, c khoản 1 Điều 377 BLHS) hoặc từ thời điểm

xảy ra hậu quả (điểm đ khoản 1 Điều 377 BLHS).

Chủ thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có chủ thể đặc biệt,

là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng, như:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Điều tra viên,

Cán bộ điều tra;

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND các cấp, Kiểm sát viên, Kiểm

tra viên;

- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư

ký Tòa án, Thẩm tra viên;

Ngoài ra chủ thể của tội phạm này có thể là:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành các cấp, Chấp hành viên;

- Những người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

ở các cơ quan của Bộ đội Biên phòng, Hải quan; Kiểm lâm; lực lượng Cảnh sát

biển, Kiểm ngư; các cơ quan của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Những người tham gia tố tụng (như bị can, bị cáo, người bị tạm giữ,

người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa, người

bảo vệ quyền lợi của đương sự, bào chữa viên nhân dân…).

12

Trong một số trường hợp (như tội che giấu tội phạm – Điều 133; tội

không tố giác tội phạm – Điều 314…), chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ

người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

Về mặt chủ quan của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, hầu hết

được thực hiện bởi lỗi cố ý, trừ tội thiếu trách nhiệm để người bị tạm giữ, tạm

giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376). Người phạm tội nhận

thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện và

mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ, mục đích phạm tội rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc

của cấu thành tội phạm. [17, tr.850-858]

Với chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của

Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt

động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân ngày càng có vai trò quan trọng, quyết

định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bằng nhiều

biện pháp như: Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

và trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, trong đó, Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao là một trong những bảo đảm để thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của ngành Kiểm sát, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo vệ

trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

công dân.

Có thể nói, hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví

như “quyền công tố nối dài” của Viện kiểm sát; không thể bảo đảm thực hiện

tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu không có hoạt động điều tra

trực tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu tranh

phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

nói riêng thì Cơ quan điều tra VKSND tối cao ngày càng phải được củng cố,

tăng cường để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát

và đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

13

Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong ba hệ thống của

Cơ quan điều tra nói chung nhưng có đối tượng điều tra (thẩm quyền và phạm vi

thẩm quyền) riêng biệt so với các Cơ quan điều tra khác và trực thuộc Viện kiểm

sát nhân dân tối cao. Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành có thể khái

quát mang tính quy nạp về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như sau:

Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong hệ thống Cơ

quan điều tra của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trực thuộc Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, được tiến hành các hoạt động điều tra theo qui định

của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự

kiện phạm tội đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về

tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán

bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành

án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

1.1.2. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

- Tố giác về tội phạm: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tố giác

về tội phạm là một trong những căn cứ để xác định có hay không có dấu hiệu

tội phạm để Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hoặc

quyết định không khởi tố vụ án.

Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tố giác, tin báo

tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:

“1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có

dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.

2. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ

quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về

tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.

3. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị

bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

14

4. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.

5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính

chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị

truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

Tố giác tội phạm là việc công dân tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền

về những hành vi mà theo họ là có dấu hiệu vi phạm, tội phạm xâm phạm tới

quyền của người tố giác hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà họ phát hiện

được. Công dân có quyền và nghĩa vụ tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình

sự mà họ biết với các cơ quan, tổ chức. Luật cho phép công dân có thể tố giác

về tội phạm với bất cứ cơ quan, tổ chức nào mà họ thấy thuận tiện không nhất

thiết phải là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong tất cả các trường

hợp đó, sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố giác tội

phạm có thể bằng miệng có thể trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại hoặc bằng

văn bản…Trường hợp người bị hại trình báo về sự kiện phạm tội liên quan đến

họ cũng được coi là tố giác tội phạm. Có thể hiểu việc tố giác của công dân qua

điện thoại như là hình thức tố giác bằng miệng và trường hợp này cán bộ tiếp

nhận tố giác phải kịp thời vào sổ tiếp nhận đầy đủ thông tin người tố giác và

nội dung họ tố giác. Đồng thời, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm

quyền phải kiểm tra và có trách nhiệm liên hệ trực tiếp với người tố giác tội

phạm để làm rõ căn cứ khởi tố vụ án.

Trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội phạm là của tất cả các cơ quan, tổ chức

không bắt buộc phải là các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án…).

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự, công dân

có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với các

cơ quan khác, tổ chức khác. Không chỉ các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Cơ quan

điều tra, mà Điều luật còn quy định, các cơ quan khác, các tổ chức, bất kể là cơ

quan, tổ chức nào khi công dân tố giác tội phạm đều có trách nhiệm tiếp nhận.

15

Việc quy định như vậy nhằm tạo điều kiện bảo đảm tối đa quyền được tố giác về

tội phạm cho công dân; đồng thời tạo cơ chế thông tin về tội phạm được nhanh

chóng, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia rộng rãi và thuận tiện vào cuộc đấu

tranh với tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức

trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân. Cũng theo quy định tại Điều 144, nếu công dân tố giác tội

phạm bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận.

Biên bản tiếp nhận tố giác tội phạm của công dân được lập theo yêu cầu chung

được quy định tại Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tố giác tội phạm

được giải thích về trách nhiệm của mình đối với những thông tin đã tố giác; Biên

bản phải ghi rõ nội dung tố giác và phản ánh rõ nguồn gốc thông tin về tội phạm

mà người tố giác biết được. Biên bản phải được người tố giác ký xác nhận. Cơ

quan, tổ chức nhận được tố giác tội phạm của công dân có trách nhiệm phải thông

báo cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản để xem xét việc khởi

tô hay không khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ án mà luật quy định chỉ

khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, các cơ quan tiếp nhận thông tin ban đầu

đó cũng phải làm các thủ tục như đối với các trường hợp khác khi công dân tố

giác tội phạm. Cơ quan, tổ chức khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà

phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm cũng phải báo tin ngay cho Cơ quan điều tra

bằng văn bản.

1.2. Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp

Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền tố cáo, khiếu nại là nguyên tắc cơ

bản. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo

những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan

và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào

thuộc các cơ quan đó.

16

Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời,

đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết

cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.

Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố

tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và

khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.

Tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng Hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến

pháp và pháp luật” và Điều 30 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố

cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp

luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó thể hiện Nhà nước ta rất coi trọng

quyền tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, thông qua hiện quyền

tố cáo sẽ giúp cho Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và

Nhà nước. Đồng thời “quyền tố cáo” là một trong những quyền làm chủ trực

tiếp của nhân dân trong giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công

chức.

Bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền công

dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết

nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công dân của các cá nhân trong việc tố

giác về tội phạm.

Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là nguyên tắc cơ

bản. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo

những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan

và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào

thuộc các cơ quan đó.

17

Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời,

đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết

cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.

Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố

tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và

khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người tố giác

về tội phạm khi đã thực hiện quyền tố giác về tội phạm của mình tới các Cơ

quan có thẩm quyền thì sẽ được bảo đảm các quyền lợi cụ thể: Được yêu cầu

cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, được bảo vệ tính mạng, sức

khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và được đảm bảo các quyền và lợi ích

hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa. Việc bảo vệ người

tố giác và người thân thích của họ đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

quy định thành một Chương XXIV. Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm

chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết tố giác

về tội phạm thì người tố giác được các Cơ quan có thẩm quyền thông báo kết

quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và được quyền

khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố.

Căn cứ pháp lý của việc bảo đảm quyền tố cáo được quy định tại điều 32

trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có

quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt

động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc

của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.Cơ quan, người có thẩm quyền

phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật;

gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức

18

khiếu nại và có biện pháp khắc phục.Trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết

khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu

nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống người khác.”

Do vây, bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp,

cũng chính là bảo đảm quyền lợi lớn nhất cho công dân trong hoạt động tư pháp

và cũng là góp phần bảo vệ quyền con người một cách thiết thực nhất. Bởi loại

tội phạm này với đặc thù người phạm tội là những người có thẩm quyền trong

các cơ quan tư pháp dẫn đến người dân có tâm lý e ngại, sợ bị gây khó khăn

hoặc trả thù nên không dám tố giác các hành vi vi phạm, tội phạm. Do đó, việc

phát hiện, khởi tố, điều tra các loại tội phạm này ngày càng khó khăn; đã gây

bức xúc trong xã hội, làm giảm lòng tin của Nhân dân vào hệ thống các cơ quan

tư pháp.

1.2.2. Các yếu tố cấu thành bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp

- Thứ nhất: Từ chính bản thân người tố giác, khi họ bị xâm phạm tới

quyền lợi của chính mình thì họ phải tự tìm hiểu xem họ bị xâm phạm như thế

nào, thiệt hại ra sao, có chứng cứ gì để chứng minh và tới cơ quan nào để tố

giác. Nhưng hầu hết họ đều yếu về những điểm này nên rất cần những người

hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi cho họ như đội ngũ Luật sư, trợ giúp pháp lý.

- Thứ hai: Những người làm công tác trợ giúp pháp lý hoặc cán bộ thuộc

các cơ quan tư pháp từ cấp xã, huyện, tỉnh khi tiếp nhận đơn ban đầu của người

dân phải có trách nhiệm nghiên cứu kỹ để hướng dẫn, giúp đỡ người dân tố

giác đúng thẩm quyền, tránh việc khiếu kiện vượt cấp hoặc đùn đẩy trách nhiệm

giữa các cơ quan.

- Thứ ba: Trọng tâm là đội ngũ Điều tra viên, Cán bộ điều tra của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao phải tận tâm, trách nhiệm và am hiểu pháp luật

để tiếp nhận, phân loại đơn đúng thẩm quyền để kịp thời đi kiểm tra, xác minh

ngăn chặn hành vi phạm tội nhằm bảo đảm quyền lợi cho người tố giác.

19

- Ngoài ra, còn một số các yếu tố khác như cơ sở vật chất, trang thiết bị

hay vướng mắc bất cập của hệ thống pháp luật cũng cần được xem xét, sửa đổi,

bổ sung, cụ thể trong loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, cụ thể:

+ Về thực hiện thẩm quyền tiếp nhận tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp:

Do hệ thống pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động Cơ quan điều

tra của VKSND tối cao còn có nhiều điểm bất cập, quy định về các tội xâm

phạm hoạt động tư pháp, phạm vi, thẩm quyền, đối tượng điều tra còn chưa cụ

thể nhất là về khái niệm: người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

Trong khi đó, việc giải thích, hướng dẫn pháp luật chưa kịp thời và chưa được

quan tâm đúng mức, khiến cho việc nhận thức, áp dụng giữa các cơ quan tư

pháp không thống nhất và cũng chưa phù hợp với thực tiễn... ảnh hưởng đến

hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm và điều tra vụ án hình sự

thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra của VKSND tối cao thời gian qua.

Bên cạnh đó, hiện nay, liên ngành tư pháp Trung ương chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể về hoạt động phối hợp trong việc phát hiện, xử lý các tội

phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp nên chưa tạo cơ chế

thuận lợi bảo đảm cho Cơ quan điều tra của VKSND tối cao thực hiện có hiệu

quả công tác này. Vì vậy, trên thực tế việc xử lý những vụ phạm tội do các nhân

viên tư pháp thực hiện rất khó khăn, phức tạp, nhiều vụ bị kéo dài, thậm chí có

những vụ khó chứng minh lỗi cố ý, nên không xử lý được. Số vụ khởi tố, điều

tra chưa phản ánh đúng thực trạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động tư pháp.

+ Về tổ chức bộ máy, biên chế

Tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra VKSND tối cao hiện chỉ có ở

Trung ương, 02 Đại diện Thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và

03 Phòng nghiệp vụ đặt tại ba khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ,

không có đầu mối ở các địa phương và cũng không có mạng lưới cơ sở như của

20

các cơ quan điều tra chuyên trách trong Công an nhân dân nên việc nắm, xử lý

thông tin về tội phạm chưa đầy đủ và kịp thời.

Theo Nghị quyết 522e/NQ-UBTVQH13 của Quốc hội giao biên chế cho

Cơ quan điều tra VKSND tối cao năm 2012 là 185 người. Trong khi Cơ quan

điều tra VKSND tối cao phải thực hiện hoạt động điều tra, xác minh tội phạm

thuộc thẩm quyền và quản lý địa bàn của tất cả cơ quan, đơn vị trên toàn quốc

(địa bàn đến Công an cấp xã), cùng với nhiệm vụ trực ban hình sự 24/24, nên

với cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế như hiện nay, Cơ quan điều tra VKSND

tối cao chưa đủ đảm bảo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới tăng thêm.

+ Về kinh phí hoạt động, chế độ chính sách, điều kiện làm việc:

Về chức năng, nhiệm vụ của các Cơ quan điều tra là giống nhau, nhưng

kinh phí cấp cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng lại được Bộ Tài chính xếp vào dạng kinh phí đặc thù và có quy định

riêng về tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với lực lượng cán bộ, điều tra viên,

nhưng kinh phí cấp cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối

cao lại phân bổ theo kinh phí hành chính, chưa có kinh phí riêng phục vụ chế

độ mua tin, chế độ trực ban hình sự, chế độ tiếp công dân, kinh phí rất hạn hẹp.

Trong khi đó, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với Điều tra viên,

Cán bộ điều tra chưa phù hợp, chưa tương xứng với tính chất khó khăn, phức

tạp của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; cơ sở vật chất, trang thiết

bị, phương tiện làm việc chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ tăng thêm.

+ Về công tác phối hợp với các cơ quan tư pháp:

Do chưa được tập huấn chuyên sâu nên kỹ năng phát hiện, phân loại xử lý

đối với các tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của các cán bộ thuộc

Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh còn hạn chế.

Chưa có Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể về quan hệ phối hợp giữa

các cơ quan tư pháp trong việc tiếp nhận, giải quyết, chuyển các tố giác về tội

21

phạm, các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao nên trong việc xác định thẩm quyền và thủ

tục chuyển các vụ, việc thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND

tối cao giữa các cơ quan điều tra của Công an nhân dân và trong Quân đội nhân

dân còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

1.2.3. Nội dung bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp

Khi Người tố giác về tội phạm thực hiện việc tố giác về tội phạm tới các

Cơ quan có thẩm quyền thì sẽ phát sinh các quyền sau:

Thứ nhất: Quyền Được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc

tố giác, được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản

và được đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích

của họ khi bị đe dọa;

Thứ 2: Được thông báo kết quả giải quyết tố giác về tội phạm;

Thứ 3: Được Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm.

Bảo vệ người tố giác tội phạm được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình

sự số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, nội dung như sau:

- Người được bảo vệ và quyền, nghĩa vụ của họ: Những người được bảo

vệ gồm người tố giác tội phạm; người làm chứng; bị hại; người thân thích của

người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại.

Người được bảo vệ có quyền đề nghị được bảo vệ; được thông báo, giải

thích về quyền và nghĩa vụ; được biết về việc áp dụng biện pháp bảo vệ; đề nghị

thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; được bồi thường thiệt hại, khôi phục

danh dự, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ.

Người được bảo vệ có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các yêu cầu của

cơ quan bảo vệ liên quan đến việc bảo vệ; giữ bí mật thông tin bảo vệ; thông

22

báo kịp thời đến cơ quan có trách nhiệm bảo vệ về những vấn đề nghi vấn trong

thời gian được bảo vệ.

- Cơ quan, người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ:

Cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ gồm: (1) Cơ quan điều

tra của Công an nhân dân; Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân (2).

Người có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ gồm: (1)

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra của Công an nhân dân có thẩm

quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ trong

các vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra hoặc theo

đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp; đề nghị của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao; (2) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra

trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ

đối với người được bảo vệ trong các vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ

lý, giải quyết, điều tra hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân

sự cùng cấp; đề nghị của Viện kiểm sát quân sự trung ương; (3) Viện kiểm sát

nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp nếu xét thấy cần áp dụng biện pháp bảo vệ

đối với người được bảo vệ thì đề nghị Cơ quan điều tra trực tiếp thụ lý vụ án hình

sự ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ. Đề nghị

phải được thể hiện bằng văn bản; (4) Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương nếu xét thấy cần áp

dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ trong vụ việc, vụ án hình sự

do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có văn bản

đề nghị với Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an,

Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng ra quyết

định áp dụng biện pháp bảo vệ.

- Các biện pháp bảo vệ: Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài

sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm

23

hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ

quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện

pháp sau đây để bảo vệ họ: (1) Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp

vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo

vệ; (2) Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn

cho họ; (3) Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan

đến người được bảo vệ; (4) Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập;

thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu

được họ đồng ý; (5) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người

được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của

pháp luật; (6) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.

Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ quy định trên không được

làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.

- Về trình tự, thủ tục bảo vệ: Đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo

vệ: Người được bảo vệ có quyền làm văn bản đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm

quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Văn bản đề nghị, yêu cầu có các nội dung

chính: ngày, tháng, năm; tên, địa chỉ của người đề nghị; lý do và nội dung đề

nghị áp dụng biện pháp bảo vệ; chữ ký hoặc điểm chỉ của người đề nghị.

Trường hợp đề nghị của cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của

cơ quan, tổ chức đó ký tên và đóng dấu.

Trường hợp khẩn cấp, người được bảo vệ trực tiếp đề nghị cơ quan,

người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện

thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị. Cơ quan,

người có thẩm quyền nhận được đề nghị, yêu cầu phải lập biên bản và đưa vào

hồ sơ bảo vệ.

Khi tiến hành tố tụng đối với vụ án, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhận được đề nghị, yêu

cầu áp dụng biện pháp bảo vệ có trách nhiệm xem xét, đề nghị Cơ quan điều

24

tra cùng cấp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Trường hợp Viện

kiểm sát nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp cao nhận được đề nghị, yêu

cầu bảo vệ thì đề nghị Cơ quan điều tra Bộ Công an xem xét, quyết định áp

dụng biện pháp bảo vệ.

Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cứ, tính xác thực của đề nghị, yêu cầu

bảo vệ. Trường hợp xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ thì phải

giải thích rõ lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết.

- Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ: Quyết định áp dụng biện pháp

bảo vệ gồm các nội dung chính: số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định;

chức vụ của người ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm

sinh, nơi cư trú của người được bảo vệ; điện pháp bảo vệ và thời gian bắt đầu

thực hiện biện pháp bảo vệ.

Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ được gửi cho người yêu cầu bảo

vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo

vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.

Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, Cơ quan điều tra có

thẩm quyền áp dụng phải tổ chức thực hiện ngay biện pháp bảo vệ. Trường hợp

cần thiết có thể phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong Công an nhân dân, Quân

đội nhân dân để thực hiện việc bảo vệ.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện

pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cần thiết.

Thời gian bảo vệ được tính từ khi áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi

có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.

- Về chấm dứt việc bảo vệ: Khi xét thấy căn cứ xâm hại hoặc đe dọa xâm

hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ

không còn, Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng biện pháp bảo

vệ phải ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ. Quyết định chấm dứt

áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được gửi cho người được bảo vệ, cơ quan

25

đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến

việc bảo vệ.

- Về Hồ sơ bảo vệ: Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng biện pháp

bảo vệ phải lập hồ sơ bảo vệ. Hồ sơ bảo vệ gồm: Văn bản đề nghị, yêu cầu áp

dụng biện pháp bảo vệ; biên bản về việc đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp

bảo vệ; Kết quả xác minh về hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng,

sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ; Tài liệu về hậu

quả thiệt hại đã xảy ra (nếu có) và việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền; Văn

bản yêu cầu, đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; Quyết định

áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; Tài liệu phản ánh diễn

biến quá trình áp dụng biện pháp bảo vệ; Văn bản yêu cầu, đề nghị cơ quan, tổ

chức, cá nhân phối hợp bảo vệ; Báo cáo kết quả thực hiện biện pháp bảo

vệ; Quyết định chấm dứt biện pháp bảo vệ; Các văn bản, tài liệu khác có liên

quan đến việc bảo vệ.

1.2.4. Vài trò, trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong

việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2003, khoản 2 Điều

3 Luật tổ chức VKSND năm 2002, Điều 18 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự

năm 2004, Cơ quan điều tra VKSND tối cao, chỉ có thẩm quyền tiến hành điều

tra đối với chủ thể phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp (Cơ quan Công

an, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án).

Theo các quy định mới thì thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao được mở rộng và tăng thêm như sau:

- Tại Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, quy định:

“Điều 20. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp,

26

tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định

của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa

án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến

hành hoạt động tư pháp.”

- Tại khoản 3 Điều 163 BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền điều

tra vụ án hình sự như sau:

“Điều 163. Thẩm quyền điều tra

1...

3. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra

Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương

XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội

là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan

thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.”

- Tại Khoản 2 Điều 30 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015

quy định như sau:

“Điều 30. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Điều tra Viện kiểm sát nhân

dân tối cao

1. Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay đến

cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

2. Tiến hành Điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm

về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ

luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công

chức thuộc Cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ

quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội

phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân.

27

3. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục

nguyên nhân, Điều kiện làm phát sinh tội phạm.

4. Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác Điều tra, xử lý tội phạm thuộc nhiệm

vụ, quyền hạn của Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.”

Như vậy, so với quy định của pháp luật trước đây, thì chủ thể phạm tội

thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao được tăng thêm

rất nhiều. Ngoài chủ thể phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra,

Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan Thi hành án, thì Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao còn có thẩm quyền tiến hành điều tra đối với chủ thể là

người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật

tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án

dân sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam thì thẩm quyền điều tra của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao đối với chủ thể phạm tội được xác định đối với những

những nhóm chủ thể sau đây:

Phạm vi và địa bàn điều tra được mở rộng hơn

Trước đây phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao thường chỉ diễn ra ở cấp trung ương, cấp tỉnh,

huyện. Nay theo quy định mới của pháp luật, phạm vi và địa bàn điều tra thuộc

thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao được mở rộng xuống

địa bàn Công an các xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an (với

trên 12.000 cơ quan, tổ chức, gồm: Hơn 11.000 đơn vị công an cấp xã, phường

và các cơ quan, cá nhân, tổ chức khác có thẩm quyền) khi họ thực hiện việc

tiếp nhận, giải quyết ban đầu tin báo, tố giác về tội phạm (theo quy định tại

Điều 44 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, khoản 3 Điều 145

28

BLTTHS năm 2015) mà vi phạm pháp luật. Vì vậy, sẽ có rất nhiều khó khăn

về mặt địa lý cũng như yêu cầu đòi hỏi về mặt thời gian đảm bảo cho công tác

khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thu thập dấu vết ban đầu đối

với những vụ việc do Công an xã thực hiện có vi phạm hoạt động tư pháp ở

những địa bàn xa trụ sở, vì hiện tại Cơ quan điều tra VKSND tối cao không có

hệ thống tổ chức bộ máy các phòng nghiệp vụ ở tất cả 63 tỉnh thành, phố trên

cả nước mà chỉ có ở trung ương và 5 phòng nghiệp vụ đặt ở 5 khu vực (thành

phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Yên Bái, thành phố Buôn Ma

Thuột và thành phố Cần Thơ).

Theo quy định tại Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163

BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm

2015 đã nêu trên thì Cơ quan điều tra VKSND tối cao có thẩm quyền điều tra

như sau: Điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng,

chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy

ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ

quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền

tiến hành hoạt động tư pháp.

Theo quy định trên thì nguồn tin về tội phạm phải có đủ ba yếu tố sau

đây mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao:

- Một là. Tội phạm thuộc Chương XXIII (Chương các tội phạm về chức

vụ) và Chương XXIV (Chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp).

- Hai là. Người thực hiện hành vi phạm tội là cán bộ, công chức thuộc

Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có thẩm

quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

- Ba là. Khách thể của tội phạm là xâm phạm (xảy ra) trong lĩnh vực tư pháp.

Ví dụ: Điều tra viên được phân công giải quyết tố giác về tội phạm

nhưng đã có hành vi thỏa thuận, nhận tiền của người phạm tội để làm sai lệch

hồ sơ vụ án nhằm mục đích không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

29

phạm tội. Hoặc Thủ kho của Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền quản

lý vật chứng của vụ án nhưng đã tự ý lấy vật chứng trong kho để mang đi bán

lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Tuy nhiên, có những trường hợp mặc dù thỏa mãn về tội danh, về chủ

thể nhưng hành vi không xảy ra thuộc lĩnh vực hoạt động tư pháp (không xâm

phạm vào khách thể trong lĩnh vực tư pháp) thì không thuộc thẩm quyền điều

tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.

Ví dụ: Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp huyện hoặc Chánh án TAND

cấp huyện trong quá trình mua sắm trang thiết bị cho cơ quan đã cùng với kế

toán đơn vị lập khống chứng từ để tham ô tài sản. Tuy những người này có

chức danh tư pháp và có hành vi phạm tội Tham ô tài sản quy định tại Điều 353

Chương XXIII BLHS, nhưng không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao, vì hành vi phạm tội của họ không xảy ra trong hoạt

động tư pháp.

Để thể chế hóa các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật hình sự,

Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 2014 thì ngày 29/12/2017, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban

hành Quyết định số 565/QĐ-VKSTC về việc ban hành Quy chế tiếp nhận, thu

thập, quản lý, xử lý và giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao (sau đây viết tắt là Quy chế 565).

Theo quy định Khoản 1 Điều 4 Quy chế 565 thì thẩm quyền giải quyết

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đối với các chủ thể sau:

a) Cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện

kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án hình sự, Cơ quan thi hành án dân sự

gồm: cán bộ, công chức có chức danh tư pháp hoặc không có chức danh tư pháp

như:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, thủ kho

vật chứng và cán bộ, công chức, chiến sỹ khác thuộc Cơ quan điều tra các cấp

30

khi được giao nhiệm vụ tham gia giải quyết nguồn tin về tội phạm, điều tra vụ

án hình sự.

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên và cán bộ,

công chức khác thuộc VKSND các cấp khi được phân công thực hành quyền

công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

- Chánh án, Phó Chánh án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa

án, Thẩm tra viên và cán bộ, công chức khác thuộc Tòa án nhân dân các cấp

khi được phân công tham gia giải quyết các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hôn

nhân gia đình, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại và những việc

khác theo quy định của pháp luật.

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Chấp hành viên, Thẩm tra viên, Thư ký

thi hành án, Thủ quỹ, Thủ kho, Kế toán thi hành án và cán bộ, công chức khác

thuộc Cơ quan thi hành án dân sự các cấp khi được phân công nhiệm vụ.

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, cán bộ, chiến sỹ thuộc Cơ quan thi hành

án hình sự Công an các cấp; Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó

trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng; sĩ quan, quân nhân chuyên

nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ và công nhân, viên chức của các trại giam trong

Công an nhân dân thực hiện công tác thi hành án hình sự.

b) Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm:

- Trong Công an nhân dân:

Cục trưởng, Phó Cục trưởng của các cơ quan: Cục Quản lý xuất nhập

cảnh; các cục nghiệp vụ an ninh ở Bộ Công an. Trưởng phòng, Phó Trưởng

phòng của các cơ quan: Phòng Quản lý xuất nhập cảnh; các phòng nghiệp vụ

an ninh thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đội trưởng, Phó

Đội trưởng Đội An ninh ở Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương; Cán bộ điều tra khi được giao tiến hành một

số hoạt động điều tra (Điều 35 BLTTHS, Điều 37 Luật tổ chức Cơ quan điều

tra hình sự).

31

Cục trưởng, Phó Cục trưởng của các cơ quan: Cục Cảnh sát giao thông;

Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Cục Cảnh sát phòng,

chống tội phạm về môi trường; Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao. Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng của các cơ quan sau: Phòng Cảnh

sát giao thông; Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Phòng

Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường; Phòng Cảnh sát phòng, chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao. Giám đốc, Phó Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và

chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Giám thị, Phó giám thị Trại

giam; Cán bộ điều tra khi được giao tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35

BLTTHS; Điều 38 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự).

- Trong cơ quan Hải quan gồm: Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục điều tra

chống buôn lậu; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan; Cục

trưởng, Phó Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương; Chi cục trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu; Cán bộ

điều tra thuộc Hải quan khi được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ( Điều

35 BLTTHS; Điều 33 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự).

- Trong cơ quan Kiểm lâm gồm: Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Kiểm

lâm; Chi cục trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm vùng; Chi cục

trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm cấp tỉnh; Hạt trưởng, Phó Hạt

trưởng Hạt Kiểm lâm; Cán bộ điều tra thuộc Kiểm lâm khi được giao tiến hành

một số hoạt động điều tra (Điều 35 BLTTHS; Điều 34 Luật tổ chức Cơ quan

điều tra hình sự).

- Trong cơ quan Kiểm ngư gồm: Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Kiểm

ngư; Chi cục trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng và cán bộ

điều tra thuộc Kiểm ngư khi được giao tiến hành một số hoạt động điều tra

(Điều 35 BLTTHS; Điều 36 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự).

Riêng đối với người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra thuộc Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển và cơ quan khác trong Quân đội

32

nhân dân nếu có hành vi phạm tội thì thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan

điều tra VKSQS trung ương.

c) Người được giao nhiệm vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; tiếp

nhận, quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân và thực hiện các nhiệm vụ

khác theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự gồm:

Trưởng nhà tạm giữ, Phó Trưởng nhà tạm giữ, sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến

sỹ và công nhân, viên chức của nhà tạm giữ trong Công an nhân dân; Giám thị,

Phó Giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội

trưởng, Trưởng cơ sở y tế, sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, công nhân và viên

chức của Trại tạm giam trong Công an nhân dân thực hiện công tác thi hành

việc tạm giữ, tạm giam; tiếp nhận, quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm

nhân và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật về thi hành

án hình sự (Điều 13, Điều 14 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam).

d) Người được giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản vật chứng, tài sản bị niêm

phong, bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa trong hoạt động tố tụng, thi hành án

gồm: Những người trên thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và

thi hành án được giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản vật chứng, tài sản trong các

vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, lao động, kinh

doanh thương mại và những việc khác theo quy định của pháp luật.

đ) Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an (sau đây

gọi chung là Công an cấp xã) khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được quy định

tại Điều 146 BLTTHS, Điều 44 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự.

Tại Điều 146 BLTTHS và Điều 44 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình

sự quy định:

“1. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,

lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu....

2. Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận,

tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ....

33

3. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện,

bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã thì thu giữ,

tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu đồ vật có liên quan, lập biên bản

bắt người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường...”.

Như vậy, theo quy định trên khi Công an cấp xã thực hiện các nhiệm vụ

trên mà thực hiện hành vi phạm tội thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao. Ví dụ: Công an xã khi lấy lời khai ban đầu của người

thực hiện hành vi phạm tội Trộm cắp tài sản, đã dùng nhục hình đối với người

phạm tội thì thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.

Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp cán bộ Công an cấp xã khi thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn khác thì không thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao. Ví dụ: Công an cấp xã có hành vi đánh người vi phạm các quy

định về giao thông trật tự (không đội mũ bảo hiểm, lấn chiếm lòng đường, vỉa hè

...) thì không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.

Theo Khoản 2 Điều 4 Quy chế 565 thì các chủ thể của một số tội phạm

cụ thể sau đây thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao:

a) Người thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào

cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có hành vi phạm

tội dùng nhục hình quy định tại Điều 373 Bộ luật hình sự: Tội Dùng nhục hình

quy định tại Điều 373 BLHS đã mở rộng chủ thể của tội phạm không chỉ ở các

giai đoạn tố tụng, thi hành án mà còn ở các biện pháp cưỡng chế hành chính

như: đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc.

b) Những người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp,

người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

có hành vi phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc quy định tại Điều 375 Bộ

luật hình sự: Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị

hại, đương sự và những người khác có hành vi phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ

34

án, vụ việc quy định tại Điều 375 BLHS thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao.

c) Người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch

thuật, người bào chữa có hành vi phạm tội cung cấp tài liệu sai sự thật quy

định tại Điều 382 Bộ luật hình sự.

d) Người giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật có hành vi

phạm tội từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài

liệu quy định tại Điều 383 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, còn có “Những trường hợp khác” theo quy định tại khoản

3 Điều 4 Quy chế 565, cũng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao:

Khoản 3 Điều 4 Quy chế 565 quy định: “3. Tội phạm quy định tại

Chương XXIII (Chương các tội phạm về chức vụ), Chương XXIV (Chương các

tội xâm phạm hoạt động tư pháp) của Bộ luật hình sự, xảy ra trong hoạt động

tư pháp do người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp thực hiện mà

không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và 2”.

Về trách nhiệm, trình tự, thủ tục tiếp nhận tố giác về tội phạm thuộc

thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao

Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Thông

tư liên tịch số 01/2017/TTLT – BCA – BQP – BTC - BNN&PTNT-VKSNDTC

ngày 29/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong

việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp

nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (sau đây viết tắt

là Thông tư 01/2017), quy định:

“Điều 145. Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

1. Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận

đầy đủ, giải quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không

được từ chối tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

35

2. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố gồm:

a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố;

b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.

3. Thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố:

a) Cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố theo thẩm quyền điều tra của mình;

b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình;

c) Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt

động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có

dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng

không được khắc phục.

4. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố có trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết cho cá nhân, cơ quan,

tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.”

Để có cơ sở triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật Tố

tụng hình sự và Thông tư 01/2017 thì Quy chế 565 đã quy định chi tiết việc tiếp

nhận, thu thập, quản lý, xử lý và giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao, cụ thể:

- Trong việc tiếp nhận tố giác về tội phạm: Tại Điều 8 Quy chế 565 đã

bổ sung một số hình thức thu thập, tiếp nhận nguồn tin tội phạm như sau: tổ

chức chế độ trực ban hình sự tại trụ sở chính và tại các phòng ở các khu vực;

lập hộp thư điện tử tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm trên trong thông tin

điện tử của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; lập đường dây nóng có số điện

thoại trực 24/24 để tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm...

36

Để tăng tính chủ động trong việc phát hiện tội phạm Quy chế đã quy định

Cơ quan điều tra VKSND tối cao được thực hiện các biện pháp nghiệp vụ khác

theo quy định của pháp luật để tiếp nhận, thu thập nguồn tin về tội phạm.

- Trong việc quản lý tố giác về tội phạm: Tại Điều 9 Quy chế 565 quy

định mọi nguồn tin về tội phạm do Cơ quan điều tra VKSND tối cao tiếp nhận,

thu thập đều phải chuyển đến Phòng Tiếp nhận, thu thập và xử lý thông tin về

tội phạm (Phòng 1) để quản lý theo quy định. Đồng thời, sau khi có kết quả giải

quyết phải thông báo cho Phòng 1 để thống nhất quản lý. Phòng 1 có trách

nhiệm giúp Thủ trưởng Cơ quan điều tra VKSND tối cao đôn đốc thời hạn kiểm

tra thông tin về tội phạm; Phòng 2 có trách nhiệm giúp Thủ trưởng Cơ quan

điều tra VKSND tối cao đôn đốc thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm và

thời hạn điều tra vụ án.

- Trong việc xử lý tố giác về tội phạm: Tại Điều 10 Quy chế 565 quy định

các phòng nghiệp vụ thực hiện các quy trình nghiệp vụ về xử lý nguồn tin về

tội phạm như sau:

+ Đối với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 10 Quy chế 565: Ngay sau

khi nhận được báo cáo đề xuất của Phòng 1 về việc phân công phòng nghiệp vụ

tổ chức kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền và tài liệu

liên quan, các nghiệp vụ trình ngay Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra Quyết định

phân công Phó Thủ trưởng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra kiểm tra, xác minh và

thông báo cho Phòng 2 vào Sổ theo dõi, phân loại, giải quyết nguồn tin về tội

phạm. Điều tra viên thụ lý chính trình Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ký thông

báo việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (mẫu số 10

Thông tư 61) gửi Vụ 6 và cơ quan, tổ chức, cá nhân tố giác, báo tin.

+ Trong trường hợp các phòng nghiệp vụ trực tiếp kiểm tra thông tin về

tội phạm thì sau khi kết thúc kiểm tra nếu xác định là nguồn tin về tội phạm

thuộc thẩm quyền thì đề xuất Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra Quyết định phân

công Phó Thủ trưởng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra kiểm tra, xác minh và

37

thông báo cho Phòng 1 và Phòng 2. Điều tra viên thụ lý chính trình Phó Thủ

trưởng Cơ quan điều tra ký thông báo việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố (mẫu số 10 Thông tư 61) và gửi Vụ 6 và cơ quan, tổ

chức, cá nhân tố giác, báo tin.

- Về thời hạn, thủ tục giải quyết nguồn tin về tội phạm: Tại Điều 11 Quy

chế 565 quy định thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố là 20 ngày, trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải

kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì có thể kéo dài nhưng không quá hai

tháng, trường hợp gia hạn một lần nhưng không quá hai tháng. Thời hạn trên

được tính bắt đầu từ ngày Cơ quan điều tra VKSND tối cao nhận được tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền đến ngày ra một trong

các quyết định sau đây: Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định

khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

- Về trách nhiệm của các đơn vị và VKS các cấp trong việc tiếp nhận,

thu thập, quản lý, xử lý nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền Cơ quan điều

tra VKSNDTC: Trong thực tiễn, việc xác định nguồn tin về tội phạm thuộc

thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao rất khó khăn, phức

tạp bởi nhiều lý do, trong đó nhiều tố giác, tin báo về tội phạm xảy ra trong

hoạt động tư pháp về mặt khách quan giống với khiếu nại trong hoạt động tư

pháp, vì đều phản ánh những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các

vụ án hình sự; vụ, việc dân sự, kinh doanh thương mại hoặc trong hoạt động thi

hành án... chỉ khác nhau về tính chất, mức độ và thẩm quyền giải quyết. Quá

trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, trong phạm vi chức

trách, nhiệm vụ của mình, các đơn vị, VKS các cấp phải kịp thời phát hiện mọi

vi phạm trong hoạt động tư pháp để xử lý nghiêm minh, kịp thời. Nếu có dấu

hiệu của hành vi tội phạm thuộc thẩm quyền Cơ quan điều tra VKSND tối cao

thì phải chuyển ngay đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao để giải quyết theo

38

đúng quy định của pháp luật. Mọi vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy

ra trong hoạt động tư pháp (kể cả những vụ việc mà cấp ủy, chính quyền đang

xem xét, xử lý) đều phải thông báo cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao (các

phòng khu vực hoặc trụ sở chính) để phối hợp xử lý. Nếu xác định rõ là nguồn

tin về tội phạm thuộc thẩm quyền Cơ quan điều tra VKSND tối cao thì chuyển

ngay; nếu chưa rõ về nội dung và thẩm quyền thì kiểm tra ban đầu; trong trường

hợp Cơ quan điều tra VKSND tối cao có yêu cầu thì tổ chức kiểm tra ban đầu).

- Về thời hạn chuyển nguồn tin về tội phạm đến Cơ quan điều tra

VKSNDTC: Điều 146 và Điều 152 BLTTHS năm 2015 không quy định thời

hạn cụ thể về việc chuyển tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc

người phạm tội đến tự thú mà chỉ quy định là “chuyển ngay” đến cơ quan điều

tra có thẩm quyền giải quyết. Thông tư liên tịch 01/2017 quy định thời hạn này

là 24h kể từ khi tiếp nhận. Trong trường hợp không thể chuyển ngay thì phải

thông báo bằng hình thức liên lạc nhanh nhất cho Cơ quan điều tra có thẩm

quyền biết (Khoản 3 Điều 8).

Do vậy, khi các đơn vị, địa phương tiếp nhận được tố giác, tin báo về tội

phạm thuộc thẩm quyền Cơ quan điều tra VKSND tối cao, phải chuyển ngay.

Trường hợp không thể chuyển ngay được thì phải điện thoại, fax hoặc có thông

tin kịp thời cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao nắm được vụ việc. Trên thực

tế, nhiều VKS địa phương đề nghị thời hạn này từ 03 đến 05 ngày, tuy nhiên cần

thực hiện nghiêm túc quy định của luật và thông tư hướng dẫn, đối với trường

hợp không thể thực hiện được thì thông tin kịp thời và chuyển tài liệu sau.

Về thực hiện thẩm quyền tiếp nhận tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp.

Do hệ thống pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động Cơ quan điều

tra của VKSND tối cao còn có nhiều điểm bất cập, quy định về các tội xâm

phạm hoạt động tư pháp, phạm vi, thẩm quyền, đối tượng điều tra còn chưa cụ

thể nhất là về khái niệm: người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

39

Trong khi đó, việc giải thích, hướng dẫn pháp luật chưa kịp thời và chưa được

quan tâm đúng mức, khiến cho việc nhận thức, áp dụng giữa các cơ quan tư

pháp không thống nhất và cũng chưa phù hợp với thực tiễn... ảnh hưởng đến

hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm và điều tra vụ án hình sự

thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra của VKSND tối cao thời gian qua.

Bên cạnh đó, hiện nay, liên ngành tư pháp Trung ương chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể về hoạt động phối hợp trong việc phát hiện, xử lý các tội

phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp nên chưa tạo cơ chế

thuận lợi bảo đảm cho Cơ quan điều tra của VKSND tối cao thực hiện có hiệu

quả công tác này. Vì vậy, trên thực tế việc xử lý những vụ phạm tội do các nhân

viên tư pháp thực hiện rất khó khăn, phức tạp, nhiều vụ bị kéo dài, thậm chí có

những vụ khó chứng minh lỗi cố ý, nên không xử lý được. Số vụ khởi tố, điều

tra chưa phản ánh đúng thực trạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động tư pháp.

Về tổ chức bộ máy, biên chế

Tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra VKSND tối cao hiện chỉ có ở

Trung ương, 02 Đại diện Thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và

03 Phòng nghiệp vụ đặt tại ba khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ,

không có đầu mối ở các địa phương và cũng không có mạng lưới cơ sở như của

các cơ quan điều tra chuyên trách trong Công an nhân dân nên việc nắm, xử lý

thông tin về tội phạm chưa đầy đủ và kịp thời.

Theo Nghị quyết 522e/NQ-UBTVQH13 của Quốc hội giao biên chế cho

Cơ quan điều tra VKSND tối cao năm 2012 là 185 người. Trong khi Cơ quan

điều tra VKSND tối cao phải thực hiện hoạt động điều tra, xác minh tội phạm

thuộc thẩm quyền và quản lý địa bàn của tất cả cơ quan, đơn vị trên toàn quốc

(địa bàn đến Công an cấp xã), cùng với nhiệm vụ trực ban hình sự 24/24, nên

với cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế như hiện nay, Cơ quan điều tra VKSND

tối cao chưa đủ đảm bảo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới tăng thêm.

Về kinh phí hoạt động, chế độ chính sách, điều kiện làm việc

40

Về chức năng, nhiệm vụ của các Cơ quan điều tra là giống nhau, nhưng

kinh phí cấp cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng lại được Bộ Tài chính xếp vào dạng kinh phí đặc thù và có quy định

riêng về tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với lực lượng cán bộ, điều tra viên,

nhưng kinh phí cấp cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối

cao lại phân bổ theo kinh phí hành chính, chưa có kinh phí riêng phục vụ chế

độ mua tin, chế độ trực ban hình sự, chế độ tiếp công dân, kinh phí rất hạn hẹp.

Trong khi đó, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với Điều tra viên,

Cán bộ điều tra chưa phù hợp, chưa tương xứng với tính chất khó khăn, phức

tạp của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; cơ sở vật chất, trang thiết

bị, phương tiện làm việc chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ tăng thêm.

Về công tác phối hợp với các cơ quan tư pháp

Do chưa được tập huấn chuyên sâu nên kỹ năng phát hiện, phân loại xử lý

đối với các tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của các cán bộ thuộc

Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh còn hạn chế.

Chưa có Thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể về quan hệ phối hợp giữa

các cơ quan tư pháp trong việc tiếp nhận, giải quyết, chuyển các tố giác về tội

phạm, các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao nên trong việc xác định thẩm quyền và thủ

tục chuyển các vụ, việc thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND

tối cao giữa các cơ quan điều tra của Công an nhân dân và trong Quân đội nhân

dân còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

41

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao là một trong

những hoạt động quan trọng nhằm thực hiện chức năng Hiến định của Ngành

kiểm sát nhân dân. Thực hiện tốt hoạt động này sẽ tạo cơ sở cho việc kiểm tra,

xác minh của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra diễn ra nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định của

pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

Chương 1 của Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận chung và quy định

của pháp luật về thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phân

tích làm rõ khái niệm, đặc điểm riêng của loại tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp; những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức tiếp nhận, bảo

đảm quyền tố giác của công dân đối với loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc nghiên cứu để nâng cao trách

nhiệm, hiệu quả trong việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp của công dân.

42

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM

PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM

SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

2.1. Khái quát về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Trong những năm vừa qua nhằm thực hiện có hiệu quả các đường lối,

chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cụ thể: Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề

án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra

theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định rõ các quan điểm, phương hướng đổi

mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra; đồng

thời khẳng định “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát

hoạt động tư pháp như hiện nay”. Trong đó, việc đổi mới tổ chức và hoạt động

của VKSND bao gồm việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra

VKSND. Để đảm bảo thực hiện tốt các chủ trương trên, các cơ quan tư pháp

nói chung và Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói riêng đã triển khai thực hiện

nhiều biện pháp để đảm bảo nâng cao, đổi mới công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng.

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật để đảm bảo quyền khiếu

nại, tố cáo nói chung và quyền tố giác về tội phạm nói riêng đã được Đảng và

Nhà nước quan tâm. Từ năm 2015 đến năm 2019 thì Quốc hội và các Bộ ngành

đã ban hành nhiều luật và văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể việc tố cáo, tố

giác tội phạm, cụ thể: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật tổ chức

Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Tố cáo năm 2018, Thông tư liên tịch

số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày

29/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc

43

thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Nghị định

31/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều

và biện pháp tổ chức thi hành Luật tố cáo...

Qua đó, đã tạo hành lang pháp lý bảo đảm cơ bản cho công dân được

thực hiện quyền tố cáo và quyền tố giác về tội phạm nói chung và tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động

tư pháp nói riêng. Không những đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được

thực hiện các quyền của mình mà còn quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của

các Cơ quan tư pháp và cán bộ, công chức của các Cơ quan tư pháp. Từ đó,

nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức trong việc thực hiện

công vụ, đảm bảo cho công dân được thực hiện tối đa quyền tố giác về tội phạm

của mình.

Kết quả trong những năm vừa qua cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm

trên cả nước ngày càng được phát hiện, điều tra nhiều hơn, nhanh hơn đặc biệt

là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến các loại tội phạm như: Giết

người, Buôn bán trái phép chất ma túy và các loại tội phạm xâm hại trẻ em; đặc

biệt là các loại tội phạm liên quan đến tham nhũng, kinh tế, chức vụ đã được

nhanh chóng phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh đã mang lại niềm tin rất

lớn cho người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

2.1.1. Đặc điểm chung của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

tối cao

Theo quy định tại Điều 4 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm

2015, hệ thống Cơ quan điều tra gồm: Cơ quan điều tra của Công an nhân dân;

Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; Cơ quan điều tra của VKSND tối

cao. Trong đó Cơ quan điều tra của VKSND tối cao mang tính đặc thù vừa là

cơ quan tiến hành tố tụng độc lập trong hệ thống các Cơ quan điều tra theo quy

định của pháp luật, vừa là đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối cao có trách

44

nhiệm phối hợp với các đơn vị khác trong ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện

chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công

dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm hoạt động đúng đắn

của các cơ quan tư pháp, chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm. Hoạt động điều

tra của Cơ quan điều tra chính là công cụ quan trọng nhằm thực hiện chức năng

thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, là thiết chế đặc thù nhằm kiểm soát

quyền lực tư pháp.

Như vậy, theo quy định của pháp luật, thì Cơ quan điều tra VKSND tối

cao là một trong hệ thống ba hệ thống Cơ quan điều tra chuyên trách của Nhà

nước, vừa có nhiệm vụ tiến hành tố tụng độc lập, lại vừa có nhiệm vụ phối hợp

với các đơn vị khác trong ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; bảo đảm hoạt động đúng

đắn của các cơ quan tư pháp, chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm; hoạt động

điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao chính là công cụ sắc bén, là một

thiết chế đặc thù nhằm để kiểm soát quyền lực tư pháp.

2.1.2. Đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ so với các đơn vị

hành chính khác

Với vị trí pháp lý là một đơn vị nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao có trách

nhiệm phối hợp với các đơn vị khác trong ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện

chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định

của Hiến pháp năm 2013; Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Cơ quan điều tra

VKSND tối cao còn phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền điều tra

theo quy định tại Điều 30 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015. Hoạt

động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao mang tính đặc thù cao, khác

biệt so với cán bộ, công chức nhà nước thông thường, cụ thể:

- Về thời gian thực hiện nhiệm vụ: Cơ quan điều tra không phải là cơ

quan hành chính làm việc theo Bộ luật lao động, mà do yêu cầu công việc,

ngoài việc Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải thực hiện theo giờ hành chính

45

còn phải trực ban hình sự 24/24h và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, khi có sự

việc xảy ra phải thực hiện nhiệm vụ ngay, hoạt động ngoài giờ hành chính hoặc

ngày nghỉ, ngày lễ. Hoạt động điều tra mang tính chủ động, tính chiến đấu, khi

nhận được tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền là phải phân công Điều

tra viên kịp thời đến tận nơi xảy ra để thực hiện nhiệm vụ (VD: Khám nghiệm

hiện trường, tử thi, thu thập dấu vết, chứng cứ, khám xét khẩn cấp, bắt, giữ đối

tượng… (có thể gây nguy hại đến sức khỏe và tính mạng Điều tra viên).

- Về phạm vi hoạt động điều tra: Cơ quan điều tra VKSND tối cao không

giới hạn về địa hạt hành chính và lĩnh vực hoạt động (trong từng lĩnh vực, địa

bàn, từng khâu công tác nghiệp vụ như các đơn vị nghiệp vụ Kiểm sát) mà trải

rộng khắp cả nước (Bắc, Trung, Nam) có thể là nước ngoài, với rất nhiều lĩnh

vực hoạt động chuyên môn nghiệp vụ (Hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh

thương mại, lao động, giam giữ, thi hành án…), do đó việc đi lại gặp khó khăn,

tốn kém.

Để khám phá tìm ra tội phạm, người phạm tội, Cơ quan điều tra phải áp

dụng mọi biện pháp theo luật định, trong đó có biện pháp trinh sát, mua thông

tin, sử dụng mạng lưới cơ sở, nằm vùng để theo dõi, thu thập dấu vết, nguồn

chứng cứ…

- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: Ngoài việc đào tạo đội ngũ

Điều tra viên, Cán bộ điều tra nắm vững các quy định của pháp luật, có trình

độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị như các Cơ quan hành

chính và các cơ quan tiến hành tố tụng khác như: Công an, Tòa án, Thi hành

án. Cơ quan điều tra VKSND tối cao còn phải đào tạo chuyên sâu về hoạt động

thực tiễn đối với tất cả các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự: Tổ chức thực hiện khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; thực

nghiệm điều tra; thu thập dấu vết; chụp ảnh, quay phim; ghi âm, ghi hình có âm

thanh khi hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người có

quyền lợi nghĩa vụ có liên quan đến vụ án; sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi

46

tác nghiệp các hoạt động điều tra trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam bị can chống

đối, gây thương vong, thiệt hại đến tài sản nhà nước và công dân…và rất nhiều

các hoạt động thực tiễn cần thiết phải đào tạo (cầm tay chỉ việc) cho Điều tra

viên, Cán bộ điều tra thì mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tính chất hoạt

động điều tra mang tính đặc thù của Cơ quan điều tra VKSND tối cao theo quy

định của các đạo luật mới.

Để tổ chức được một khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra hình sự

cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Cơ quan điều tra phải liên hệ ký hợp đồng

đào tạo, giảng dạy với các trường đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành, các cơ quan

chức năng chuyên môn, như: Học viện Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học Kiểm

sát Hà Nội, Phòng giám định kỹ thuật hình sự - Bộ quốc phòng, Phòng giám định

hình sự - Bộ Công an, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội; các

nhà khoa học, các nhà thực tiễn có kinh nghiệm trong hoạt động điều tra để

truyền đạt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động điều tra; ngoài

ra còn phải chuẩn bị các phương tiện, điều kiện về trang thiết bị máy móc, dụng

cụ, như: máy ảnh, máy quay phim, súng, đạn, còng, roi điện, danh bản, chỉ bản,

dụng cụ khám nghiệm, dụng cụ bơi, võ thuật, trích xuất dữ liệu điện tử từ máy

vi tính, máy điện thoại… phục vụ cho hoạt động thực tế trong quá trình đào tạo,

bồi dưỡng (lý luận đi đôi với thực hành).

2.1.3. Đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ so với các Cơ quan

điều tra khác

Cơ quan điều tra của VKSND tối cao và Cơ quan điều tra của Công an

nhân dân, Cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân đều thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm

2015. Nhưng cơ cấu tổ chức bộ máy, biên chế, các chế độ chính sách tiền lương,

đãi ngộ, phụ cấp thì lại rất khác nhau (Cơ quan điều tra của Công an nhân dân

được tổ chức từ cấp trung ương đến địa phương, xuống các xã, phường, thị trấn,

đồn Công an, Trạm Công an. Theo số liệu thống kê (năm 2016) cho thấy lực

47

lượng cán bộ, trinh sát, điều tra viên các cấp của 04 Cục thuộc Cơ quan Cơ

quan điều tra Bộ Công an là 1.476 người (trong đó đơn vị ít nhất là khoảng 300

người và đơn vị nhiều nhất là trên 500 người). Kinh phí hoạt động điều tra được

Bộ Tài chính xếp vào dạng kinh phí đặc thù - lực lượng vũ trang.

Trong khi đó cơ cấu tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra VKSND tối

cao chỉ có ở cấp trung ương, với biên chế Quốc hội giao năm 2012 là 185 biên

chế (thực hiện tinh giản biên chế 10 người, hiện chỉ có 175 người). Kinh phí

hoạt động điều tra chỉ được xếp dạng kinh phí hành chính - đơn vị hành chính

sự nghiệp. Nhưng với thẩm quyền điều tra và địa bàn điều tra trải rộng khắp cả

nước; Đối tượng điều tra là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án,

Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành

hoạt động tư pháp (chủ thể đặc biệt). Những đối tượng này đều là người có

trình độ về luật pháp, am hiểu sâu rộng các lĩnh vực, có nhiều kinh nghiệm thực

tiễn trong lĩnh vực chuyên môn.

- Cơ quan điều tra của Bộ Công an có cơ sở, mạng lưới điều tra từ cấp

trung ương đến Công an các tỉnh, thành phố, huyện, xã, phường, thị trấn, đồn

công an. Còn đối với Cơ quan điều tra VKSND tối cao chỉ được tổ chức ở cấp

trung ương, không có mạng lưới cơ sở “chân rết” như Cơ quan điều tra của Bộ

Công an (Hiện tại Cơ quan điều tra VKSND tối cao không có hệ thống tổ chức

bộ máy các phòng nghiệp vụ ở tất cả 63 tỉnh thành, phố trên cả nước mà chỉ có

ở Hà Nội và 5 phòng nghiệp vụ đặt ở 5 khu vực (thành phố Hồ Chí Minh, thành

phố Đà Nẵng, thành phố Cần Thơ, tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Yên Bái); mặt khác, trước

đây phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao thường chỉ diễn ra ở cấp trung ương, cấp tỉnh, huyện, nay theo

quy định mới của pháp luật, phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều

tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao được mở rộng xuống địa bàn Công an

các xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an (khi họ thực hiện việc

tiếp nhận, giải quyết ban đầu tin báo, tố giác về tội phạm theo quy định tại Điều

48

44 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 145 BLTTHS

năm 2015, mà có vi phạm pháp luật). Vì vậy, sẽ có rất nhiều khó khăn về mặt

địa lý cũng như yêu cầu đòi hỏi về mặt thời gian đảm bảo cho công tác khám

nghiện hiện trường, khám nghiệm tử thi, thu thập dấu vết ban đầu...đối với

những vụ việc do Công an xã thực hiện có vi phạm hoạt động tư pháp ở những

địa bàn xa trụ sở.

- Đặc điểm của các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao có tính chất đặc biệt: Trước đây, Cơ quan điều tra

VKSND tối cao chỉ điều tra cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Cơ quan Thi hành án phạm tội xâm phạm

hoạt động tư pháp, thì đã gây khó khăn cho hoạt động điều tra vì chủ thể phạm

tội này là người có trình độ, kiến thức, am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm thực

tiễn trong hoạt động tố tụng, có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp…do đó,

thường có thủ đoạn phạm tội, che giấu, chống đối rất tinh vi và khó khăn trong

việc phát hiện. Nay theo quy định mới của pháp luật, thẩm quyền điều tra của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao mở rộng thẩm quyền điều tra đối với chủ thể

phạm tội về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Trong thực

tế hiện nay, việc đấu tranh, điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm về tham nhũng,

chức vụ rất khó khăn, thì loại tội phạm có chức vụ quyền hạn trong hoạt động

tư pháp lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, đòi hỏi cần phải có một lực lượng điều

tra chính quy, chuyên nghiệp, có bản lĩnh mới đảm đương được nhiệm vụ mới

theo quy định của pháp luật.

- Ngoài việc thực hiện 04 nhiệm vụ theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ

chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 như CQĐT của Công an nhân dân, Cơ

quan điều tra trong quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao

còn phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một đơn vị nghiệp vụ thuộc

VKSND tối cao, đó là Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,

tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để kiến nghị khắc phục vi phạm (trong

49

hệ thống Cơ quan điều tra chuyên trách của nhà nước, chỉ duy nhất có Cơ quan

điều tra VKSND tối cao thực hiện và làm tốt nhiệm vụ kiến nghị phòng ngừa

vi phạm, tội phạm nói chung và vi phạm, tội phạm trong hoạt động tư pháp,

tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp) nhằm bảo vệ quyền con

người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động

điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đối với nhiều vụ việc còn phải

kiểm tra tính có căn cứ, tính hợp pháp của Cơ quan điều tra các cấp trong Công

an nhân dân, trong đó nhiều vụ liên quan đến việc làm sai lệch hồ sơ, làm oan,

sai hoặc bỏ lọt tội phạm… bảo đảm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư

pháp, là thiết chế đặc thù nhằm kiểm soát quyền lực tư pháp (hoạt động này chỉ

có ở Cơ quan điều tra VKSND tối cao).

- Về tính chất công việc phức tạp: Do thẩm quyền điều tra của Cơ quan

điều tra VKSND liên quan đến các hoạt động tố tụng từ việc phát hiện tội phạm,

điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án dân sự, thi hành án hình sự, công tác tạm

giữ, tạm giam và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác, việc phát hiện, chứng minh

hành vi phạm tội ở những lĩnh vực này rất khó khăn, đòi hỏi Điều tra viên, Cán

bộ điều tra phải vững về chính trị, tinh thông về nghiệp vụ, chuyên sâu về từng

lĩnh vực tư pháp. Mặt khác, hoạt động điều tra còn gắn liền với các hoạt động

khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… môi trường làm việc rất độc

hại; việc phát hiện, bắt, giữ, tạm giam, dẫn giải các đối tượng đối mặt với nhiều

nguy hiểm, đòi hỏi Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải chịu áp lực và trách

nhiệm rất cao.

2.1.4. Tình hình hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân

dân tối cao

Kể từ ngày 01/01/2018, khi Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật

tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 có hiệu lực thì thẩm quyền, chức

năng, nhiệm vụ và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã có những

thay đổi mở rộng hơn về nhiều mặt, cụ thể:

50

- Mở rộng loại tội phạm và mở rộng chủ thể phạm tội: Thẩm quyền điều

tra mở rộng hơn (từ 14 tội tăng lên 38 tội)

Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002; Điều 18 Pháp

lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004; Điều 110 BLTTHS năm 2003, Cơ quan

điều tra VKSND tối cao chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư

pháp quy định tại Chương XXII Bộ luật hình sự năm 1999 (điều tra 14 trong

tổng số 23 tội phạm thuộc Chương XXII), thì nay theo quy định của các đạo

luật mới, Cơ quan điều tra VKSND tối cao có thẩm quyền điều tra đối với 38

tội, gồm: Các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (gồm 24 tội quy định tại

Chương XXIV Bộ luật hình sự năm 2015); Các tội phạm tham nhũng, chức vụ

xảy ra trong hoạt động tư pháp, gồm 14 tội quy định tại Chương XXIII Bộ luật

hình sự năm 2015.

Trước đây phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao thường chỉ diễn ra ở cấp trung ương, cấp tỉnh,

huyện, thì nay, theo quy định mới của pháp luật, phạm vi và địa bàn điều tra

thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao được mở rộng

xuống địa bàn Công an các xã, phường, thị trấn, đồn Công an với trên 12.000

cơ quan, tổ chức, gồm: Hơn 11.000 đơn vị công an cấp xã, phường và các cơ

quan, cá nhân, tổ chức khác có thẩm quyền tham gia vào hoạt động tố tụng -

theo quy định tại Điều 44 Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015.

Các tội phạm này trước đây thuộc thẩm quyền điều tra của 713 Cơ quan

điều tra Công an cấp huyện, 126 Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh và 02 Cơ

quan điều tra của Bộ Công an (tổng số 841 đơn vị điều tra trên toàn quốc), thì

nay thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Chủ thể

phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao theo

quy định của Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự sẽ là hơn 14.216 cơ quan,

đơn vị trên toàn quốc, gồm: 02 Cơ quan điều tra của Bộ Công an, VKSND tối

cao, Tòa án nhân dân tối cao, Tổng cục thi hành án; 03 VKSND cấp cao; Cơ

51

quan điều tra VKSND tối cao; 63 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh,

63 Cơ quan an ninh điều tra cấp tỉnh; 63 VKSND cấp tỉnh, 63 Tòa án nhân dân

cấp tỉnh, 63 Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; 713 Cơ quan điều tra Công an

cấp huyện, 713 VKSND cấp huyện, 713 Tòa án nhân dân cấp huyện, 713 Cơ

quan Thi hành án dân sự cấp huyện; 11.000 đơn vị Công an xã, phường, thị trấn,

Đồn Công an, Trạm Công an trong cả nước khi họ thực hiện các hoạt động quy

định tại Điều 44 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 mà có dấu hiệu

tội phạm; 40 đầu mối Cơ quan và người được giao tiến hành một số hoạt động

điều tra và những người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khác thực

hiện hành vi phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

Theo số liệu thống kê và phân tích trên, cho thấy một khối lượng công

việc rất lớn mà Cơ quan điều tra VKSND tối cao phải đảm nhận khi các đạo

luật mới có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/01/2018). Đặc biệt là số lượng tố giác

về tội phạm và số vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ

xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao sẽ tăng lên rất nhiều.

- Mở rộng phạm vi và địa bàn điều tra: Trước đây phạm vi và địa bàn

điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao thường

chỉ diễn ra ở cấp trung ương, cấp tỉnh, huyện. Nay theo quy định mới của pháp

luật, phạm vi và địa bàn điều tra thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao được mở rộng xuống địa bàn Công an các xã, phường, thị

trấn, Đồn Công an, Trạm Công an (khi họ thực hiện việc tiếp nhận, giải quyết

ban đầu tin báo, tố giác về tội phạm theo quy định tại Điều 44 Luật tổ chức Cơ

quan điều tra hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015, mà có

vi phạm pháp luật). Vì vậy sẽ có rất nhiều khó khăn về mặt địa lý cũng như yêu

cầu đòi hỏi về mặt thời gian đảm bảo cho công tác khám nghiện hiện trường,

khám nghiệm tử thi, thu thập dấu vết ban đầu đối với những vụ việc do Công

an xã thực hiện có vi phạm hoạt động tư pháp ở những địa bàn xa trụ sở, vì hiện

52

tại CQĐT không có hệ thống tổ chức bộ máy các phòng nghiệp vụ ở tất cả 63

tỉnh thành, phố trên cả nước mà chỉ có ở trung ương và 5 phòng nghiệp vụ đặt

ở 5 khu vực (thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Yên Bái,

thành phố Buôn Ma Thuột và thành phố Cần Thơ).

- Đặc điểm của các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao có tính chất đặc biệt: Trước đây, Cơ quan điều tra VKSND tối

cao chỉ điều tra cán bộ, công chức thuộc CQĐT, VKSND, Tòa án nhân dân, Cơ

quan Thi hành án phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp, thì đã gây khó khăn cho

hoạt động điều tra vì chủ thể phạm tội này là người có trình độ, kiến thức, am hiểu

pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động tố tụng, có thẩm quyền trong

hoạt động tư pháp…do đó thường có thủ đoạn phạm tội, che giấu, chống đối rất

tinh vi và khó khăn trong việc phát hiện. Nay theo quy định mới của pháp luật,

thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao mở rộng thẩm quyền

điều tra đối với chủ thể phạm tội về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động

tư pháp. Trong thực tế hiện nay, việc đấu tranh, điều tra, truy tố, xét xử loại tội

phạm về tham nhũng, chức vụ rất khó khăn, thì loại tội phạm có chức vụ quyền

hạn trong hoạt động tư pháp lại càng khó khăn hơn. Vì vậy, đòi hỏi cần phải có

một lực lượng điều tra chính quy, chuyên nghiệp, có bản lĩnh mới đảm đương

được nhiệm vụ mới theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện nhiệm vụ trực ban hình sự 24/24: Để phục vụ việc tiếp nhận,

giải quyết nguồn tin về tội phạm phải tổ chức trực ban hình sự ở tất cả các khu

vực có trụ sở Cơ quan điều tra. Do đó đòi hỏi cần phải có đủ lực lượng Điều tra

viên để bố trí thực hiện nhiệm vụ trực ban 24/24h theo quy định mới của pháp

luật. Hiện nay, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra tội phạm theo thẩm quyền

trên phạm vi toàn quốc, với 05 Phòng nghiệp vụ tại trụ sở chính tại Hà Nội, 02

Phòng nghiệp vụ đóng tại Đại diện Thường trực tại miền Nam và miền Trung

- Tây Nguyên và 03 Phòng nghiệp vụ đóng tại 03 khu vực: Tây Bắc (Yên Bái);

Tây Nguyên (Đắk Lắk); Tây Nam bộ (Cần Thơ). Vì vậy, liên quan đến vấn đề

53

này đòi hỏi phải có kinh phí để trang bị cho các phòng trực ban (các trang thiết

bị văn phòng, sổ sách, điện thoại..., kinh phí chi bồi dưỡng chế độ trực ban).

[56, tr.21-35]

2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp ở Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

2.2.1 Bảo đảm bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người tố giác

Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người thân

thích của họ là hoạt động tố tụng được BLTTHS quy định do cơ quan, người

có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng nhằm đưa ra các biện pháp đảm bảo

về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các hoạt động bình thường trong

sinh hoạt, công việc, đời sống v.v...đối với người tố giác tội phạm, người làm

chứng, bị hại và người thân thích của họ khi có căn cứ xác định tính mạng, sức

khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do

việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm. Việc quy

định cơ chế bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người

thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại trong BLTTHS

là thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, đặc biệt là bảo vệ những người có nguy cơ bị xâm hại đến tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân nhấm do việc họ hoặc người thân thích của họ

cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm, góp phần vào

việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh tội phạm theo các quy định của

pháp luật. Các biện pháp này vừa có ý nghĩa đảm bảo pháp chế, tính nghiêm

minh của pháp luật vừa khuyến khích công dân, tổ chức tham gia tích cực vào

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

BLTTHS quy định những người được bảo vệ bao gồm người tố giác tội

phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm,

người làm chứng, bị hại.

Điều 56, Điều 62, Điều 66 BLTTHS cũng đã quy định cá nhân đã tố giác,

báo tin về tội phạm; cơ quan, tổ chức đã báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố,

54

bị hại, người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật

việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ,

người thân thích của họ khi bị đe dọa. Trong trường hợp có hoặc không có yêu

cầu từ phía người tố giác tội phạm thì các cơ quan chức năng tùy theo nhiệm

vụ, quyền hạn của mình cũng đều phải có trách nhiệm đưa ra các biện pháp để

bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và

lợi ích hợp pháp khác của họ.

Người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại là

người có quan hệ với người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại gồm vợ,

chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con

đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột;

cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột. Người

tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác

tội phạm, người làm chứng, bị hại được các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ khi

có căn cứ về việc họ đã hoặc sẽ bị xâm hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản do

việc người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại cung cấp chứng cứ,

vật chứng, thông tin, tài liệu có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, người

phạm tội trong vụ việc, vụ án hình sự. Đã hoặc sẽ bị xâm hại được hiểu là đã

bị xâm hại hoặc có sự đe dọa xâm hại ở mức độ nguy hiểm đáng kể hoặc căn

cứ vào tính chất đặc biệt nguy hiểm của loại tội phạm và vai trò quan trọng của

người làm chứng, người tố giác tội phạm, người bị hại trong tố tụng hình sự

cần phải có biện pháp bảo vệ để đảm bảo an toàn cho người được bảo vệ và yêu

cầu hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ được thực hiện trong suốt thời gian

mà có căn cứ về việc người được bảo vệ đã hoặc sẽ bị xâm hại là có thực và

không giới hạn về thời gian.

Trong đó, những chủ thể được bảo vệ nêu trên có quyền:

55

- Đề nghị được bảo vệ: Là việc người tố giác tội phạm, người làm chứng,

bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại

đưa ra yêu cầu của mình khi có căn cứ xác định việc bị kỷ luật, buộc thôi việc,

luân chuyển công tác hoặc bị các hình thức trù dập, phân biệt đối xử khác để

các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết và tiến hành các biện pháp thích hợp

nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản các quyền

và lợi ích hợp pháp khác của mình. Các đề nghị này có thể trực tiếp hoặc thông

qua người thứ ba, có thể đề nghị bằng miệng trong trường hợp khẩn cấp hoặc

bằng văn bản.

- Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ: Các cơ quan tiến hành

tổ tượng tụng phải có trách nhiệm thông báo về việc bảo vệ đối với các đối nêu

trên cũng như cung cấp các thông tin liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ

khi áp dụng và trong suốt quá trình triển khai các biện pháp bảo vệ.

- Được biết về việc áp dụng biện pháp bảo vệ; đề nghị thay đổi, bổ - hủy

bỏ biện pháp bảo vệ: Khi ra quyết định áp dụng hoặc trong quá trình triển sung

khai, thay đổi hoặc chấm dứt các biện pháp bảo vệ, các cơ quan tiến hành tố tụng

phải có trách nhiệm thông báo trước cho người tố giác tội phạm, người làm

chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm. Quy định như trên là

cần thiết nhằm tạo sự yên tâm trong hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng để

có kết quả khai báo, cung cấp chứng cứ khách quan và đầy đủ nhất, bên cạnh đó

việc thông tin này cũng đảm bảo sự chủ động trong sắp xếp công tác, sinh hoạt

và các yếu tố cần thiết khác trong quá trình triển khai các biện pháp bảo vệ.

- Được bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền và

lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ. Trong trường hợp này, nếu xảy ra các

thiệt hại thực tế về thể chất, vật chất, tinh thần hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp

bị xâm hại thì đối tượng bảo vệ được bồi thường theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ, người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân

thích của người tố giác tội phạm phải thực hiện các nghĩa vụ:

56

- Chấp hành nghiêm chỉnh những yêu cầu của cơ quan có trách nhiệm

bảo vệ về đi lại, ăn ở, sinh hoạt, làm việc, học tập, giao tiếp, thăm gặp và các

hoạt động khác liên quan đến việc bảo vệ theo yêu cầu của cơ quan bảo vệ;

- Giữ bí mật thông tin bảo vệ: Không được tiết lộ thông tin về nơi ở, nơi

làm việc, học tập, sự thay đổi nhân dạng hoặc các biện pháp bảo vệ khác cho

người khác biết, kể cả thân nhân khi chưa được sự đồng ý của cơ quan có trách

nhiệm bảo vệ.

- Thông báo kịp thời đến cơ quan có trách nhiệm bảo vệ những vụ việc,

tình huống bất thường xảy ra có nghi vấn hoặc có liên quan đến hoạt động bảo

vệ của cơ quan có trách nhiệm bảo vệ trong thời gian được bảo vệ.

2.2.2. Cơ quan, người có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp

bảo vệ

Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích

của người tố giác tội phạm cần được thực hiện thông qua một cơ chế hoạt động

cụ thể của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giúp cho họ không bị mua chuộc,

khống chế, bị đe dọa, trả thủ để họ có thái độ hợp tác tích cực, khai báo khách

quan, trung thực và chính xác với các cơ quan tiến hành tố tụng. Các hoạt động

đó phải dựa trên cơ sở pháp lý đầy đủ, chính xác và khả thi. Do đó, BLTTHS

quy định rõ thủ tục tiến hành, quyền và trách nhiệm cụ thể, rõ ràng của các chủ

thể tham gia trong thực hiện bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm và tài sản của người tố giác tội phạm, người làm chứng bị hại, người thân

thích của người tố giác tội phạm và các quyền, lợi ích vật chất, tinh thần khác

cho các đối tượng này. Trách nhiệm ra quyết định bảo vệ người tố giác tội

phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm

thuộc về các cơ quan tố tụng có thẩm quyền, đó là những cơ quan có thẩm

quyền tiếp nhận, xác minh tố giác về tội phạm, các cơ quan trực tiếp giải quyết

vụ án hình sự liên quan đến các đối tượng được bảo vệ. Đối tượng áp dụng biện

pháp bảo vệ là khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền lợi ích hợp

57

pháp và tài sản của người được bảo vệ bị hoặc có nguy cơ bị xâm hại hoặc thân

nhân của họ bị tấn công hoặc xâm hại. Nguy cơ tấn công, xâm hại được hiểu là

có thể đã có sự tấn công hoặc xâm hại trên thực tế; hoặc tuy mới chỉ là sự đe

dọa tấn công hoặc xâm hại, nhưng mức độ nguy hiểm là đáng kể, cần có biện

pháp bảo vệ kịp thời để bảo đảm an toàn cho người được bảo vệ. Hơn nữa, để

bảo vệ các đối tượng này cần phải sử dụng lực lượng phối hợp của nhiều ngành,

nhiều tổ chức, thậm chí cả những biện pháp thuật nghiệp vụ của cơ quan chuyên

môn, cần có đủ lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác

bảo vệ. Do đó, BLTTHS quy định Cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện

pháp bảo vệ gồm:

- Cơ quan điều tra của Công an nhân dân;

- Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân.

Những người có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ

gồm:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra của Công an nhân dân có

thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ

trong các vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra

hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp; đề

nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân

có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo

vệ trong các vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra

hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự củng cấp; đề nghị

của Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp nếu xét thấy cần áp

dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ thì đề nghị Cơ quan điều tra

trực tiếp thụ lý vụ án hình sự ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với

người được bảo vệ. Đề nghị phải được thể hiện bằng văn bản.

58

- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát quân sự trung ương nếu xét thấy cần áp dụng biện pháp bảo vệ đối với

người được bảo vệ trong vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải

quyết, điều tra thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Viện

trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có văn bản đề nghị với Cơ quan Cảnh

sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra hình sự, Cơ

quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.

Như vậy theo quy định của BLTTHS thì chỉ có Cơ quan điều tra của Công

an nhân dân và Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân mới có thẩm quyền áp

dụng các biện pháp bảo vệ; còn Cơ quan điều tra VKSND tối cao chỉ có quyền đề

nghị ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ tức trong quá trình giải quyết nguồn

tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự nếu xét thấy cần áp dụng biện pháp bảo

vệ đối với người được bảo vệ trong vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ

lý, giải quyết, điều tra thì Cơ quan điều tra VKSND tối cao báo cáo Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản đề nghị với Cơ quan Cảnh sát điều tra,

Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.

2.2.3. Thực hiện các biện pháp bảo vệ

Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm

của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng

cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp để bảo vệ họ, gồm:

- Bố trí lực lượng, phương tiện, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử

dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc để canh

gác, bảo vệ tại phiên tòa, nơi ở, nơi làm việc, học tập, trên các phương tiện giao

thông và các nơi cần thiết khác mà người được bảo vệ có mặt.

- Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn

cho họ. Đây là biện pháp được áp dụng trong một thời gian nhất định khi xét thấy

mức độ xâm hại của tội phạm đối với người được bảo vệ ở mức nguy hiểm cao.

59

- Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan

đến người được bảo vệ. Đây là biện pháp được áp dụng khi người được bảo vệ

yêu cầu hoặc xét thấy họ có thể bị nguy hiểm do việc cung cấp chứng cứ, vật

chứng, tài liệu đó. Thông qua việc tố giác, khai báo của các đối tượng được bảo

vệ, cơ quan tiến hành tố tụng biết được các thông tin, tài liệu, chứng cứ để giải

quyết vụ. Điều này có thể dẫn đến việc người bị tố giác, bị can, bị cáo có hành

vi trả thù, trù dập người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân

thích của người tố giác tội phạm. Do đó, cơ quan tố tụng khi tiến hành giải

quyết vụ án cần phải đảm bảo giữ bí mật những thông tin cần thiết để bảo vệ,

tạo cho người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích tó

của người tố giác tội phạm sự yên tâm khi cung cấp thông tin, chứng cứ. Cơ

quan trong tố tụng phải có trách nhiệm bảo đảm bí mật cho đối tượng được bảo

vệ tất cả các khâu từ tiếp nhận, xử lý tin báo; xác minh, khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử, thậm chí, ngay cả khi công khai các thông tin trong hoạt động giải

quyết vụ án. Cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiên cứu, xác định nội dung vụ

việc, những thông tin nếu tiết lộ sẽ gây bất lợi cho các đối tượng được bảo vệ

để áp dụng biện pháp phù hợp nhằm giữ bí mật thông tin. Trường hợp cần thiết

có thể lược bỏ họ tên, địa chỉ, bút tích, các thông tin cá nhân khác ra khỏi các

văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời lưu trữ và quản

lý thông tin về các đối tượng này theo chế độ thông tin mật.

Bên cạnh đó, tùy từng vụ án cụ thể, trước khi đưa vụ án ra xét xử, Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa cần trao đổi thống nhất với cơ quan có trách nhiệm bảo

vệ về việc áp dụng các hình thức để bảo đảm việc giữ bí mật cho người được

bảo vệ như cấm ghi hình, ghi âm, chụp ảnh tại phiên tòa; không công bố họ tên,

lai lịch của người được bảo vệ; cách ly người được bảo vệ và thực hiện việc hỏi

kín đối với người được bảo vệ... Đối với người bảo chữa, khi được tiếp xúc,

nghiên cứu các tài liệu liên quan đến việc tố giác tội phạm, lời khai hoặc các

tài liệu khác trong hồ sơ vụ án có liên quan đến người đang được áp dụng các

60

biện pháp bảo vệ phải cam kết giữ bí mật bằng văn bản và chịu trách nhiệm

trước pháp luật về cam kết đó.

- Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập

Trong trường hợp cần thiết, cơ quan áp dụng biện pháp bảo vệ có thể di

chuyển người được bảo vệ ra khỏi chỗ ở, nơi làm việc, học tập và tuyệt đối giữ

bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập mới của họ. Thời hạn di chuyển có thể là

tạm thời hoặc vĩnh viễn. Phạm vi di chuyển có thể là trong cùng một đĩa phương

hoặc đến địa phương khác hoặc ra nước ngoài tùy từng trường hợp cụ thể và

điều kiện, khả năng cho phép. Trong trường hợp cấp bách có thể tạm thời di

chuyển người được bảo vệ đến trụ sở cơ quan Công an, cơ quan Quân đội hoặc

địa điểm khác thuộc phạm vi quản lý, bảo vệ của cơ quan Công an, cơ quan

Quân đội.

Thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ,

- nếu được họ đồng ý;

- Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ:

áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, xử

lý kịp thời hành vi xâm hại người được bảo vệ. Người giải quyết tố cáo phải áp

dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp

dụng các biện pháp bảo vệ được quy định. Thực hiện biện pháp này, cơ quan

tiến hành tố tụng cần có động thái khẩn trương, quyết liệt, đề nghị và yêu cầu

cơ quan có chức năng vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ như

đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý kỷ luật

hoặc quyết định khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của được bảo vệ,

xử lý kịp thời người có hành vi trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ…

- Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật như yêu cầu

người có hành vi xâm hại chấm dứt hành vi vi phạm và buộc xin lỗi, cải chính

công khai; xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý đối

61

với người có hành vi vi phạm; đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan

khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người

được bảo vệ bị xâm hại.

Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ trên không được làm ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.

2.2.4. Thực hiện trình tự thủ tục bảo vệ

Xuất phát từ nguyên tắc giải quyết vụ án hình sự phải bảo đảm an toàn

cho người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người

tố giác tội phạm. Các hành vi tác động tiêu cực đối với người cho người tố giác

tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm

như gây khó khăn, phiền hà; tiết lộ các thông tin có thể làm lộ danh tính của

họ; đe dọa trả thù, trù dập, xúc phạm người các đối tượng này... đều là những

hành vi bị nghiêm cấm. Vì vậy, để đảm bảo cơ chế bảo vệ cho người tố giác tội

phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm

BLTTHS quy định trình tự, thủ tục để áp dụng các biện pháp bảo vệ. Trong đó,

người được bảo vệ có quyền làm văn bản đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm

quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Văn bản đề nghị, yêu cầu có các nội dung

chính: Ngày, tháng, năm; Tên, địa chỉ của người đề nghị; Lý do và nội dung đề

nghị áp dụng biện pháp bảo vệ. Người đề nghị cần đưa ra các căn cứ chứng

minh mình bị xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,

nhân phẩm, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác. Bên cạnh đó, cho

người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố

giác tội phạm được quyền đề xuất các biện pháp bảo vệ phù hợp với hoàn cảnh

điều kiện cũng như tính chất mức độ của sự cần thiết và khả năng đáp ứng của

các cơ quan chức năng để có phương án áp dụng trong thực tế. Trên thực tế,

các phương án mà người đề nghị bảo vệ đưa ra thường tập trung vào các đề

xuất để bảo vệ tại nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản, hoặc

62

nơi người được bảo vệ yêu cầu, trong một khoảng thời gian không giới hạn tùy

vào tình hình thực tế và mức độ hành vi xâm phạm đối với người được bảo vệ.

Chữ ký hoặc điểm chỉ của người đề nghị. Trường hợp đề nghị của cơ tổ

chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó ký tên quan, và

đóng dấu.

Trong trường hợp khẩn cấp, người được bảo vệ trực tiếp đề nghị cơ quan,

người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện

thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị. Cơ quan,

người có thẩm quyền nhận được đề nghị, yêu cầu phải lập biên bản và đưa vào

hồ sơ bảo vệ.

Khi tiến hành tố tụng đối với vụ án, Cơ quan điều tra VKSND tối cao

nhận được đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ có trách nhiệm xem xét,

báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản đề nghị với Cơ

quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ra quyết định áp

dụng biện pháp bảo vệ.

Ngoài ra, đối với các trường hợp khi tiến hành tố tụng đối với vụ án, cơ

quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát,

Tòa án nhận được đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ có trách nhiệm

xem xét, đề nghị Cơ quan điều tra cùng cấp xem xét, quyết định áp dụng biện

pháp bảo vệ. Căn cứ vào những yêu cầu hợp lý mà người đề nghị đưa ra, hoặc

xem xét tình hình thực tế cho thấy cần tiến hành bảo vệ, các cơ quan có thẩm

quyền theo quy định của BLTTHS có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp thực

hiện các biện pháp bảo vệ. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Tòa

án nhân dân cấp cao nhận được đề nghị, yêu cầu bảo vệ thì đề nghị Cơ quan

điều tra Bộ Công an xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.

Trước khi quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ,ơ quan Cảnh sát điều

tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an phải kiểm tra căn cứ, tính xác thực

của đề nghị, yêu cầu bảo vệ. Trường hợp xét thấy không cần thiết áp dụng biện

63

pháp bảo vệ thì phải giải thích rõ lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết. Các

biện pháp kiểm tra tính xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ phải được thực

hiện một cách nhanh chóng, kịp thời nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các vấn

đề bất lợi có thể xảy ra đối với người đề nghị nêu đề nghị đó là có căn cứ. Tuy

nhiên trong trường hợp nếu xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ,

tức là căn cứ đề nghị còn chưa vững chắc, các khả năng xâm hại đối với người

đề nghị là chưa hiện hữu hoặc chưa có nguy cơ hiện hữu vệ thì Cơ quan điều

tra VKSND tối cao không đề nghị ra quyết định áp dụng và phải giải thích rõ

lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết.

2.2.5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ

Khi nhận được văn bản đề nghị, sau khi kiểm tra thấy đầy đủ căn cứ, tính

xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ, xét cần thiết phải áp dụng biện pháp bảo

vệ đối với người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích

của người tố giác tội phạm thì Cơ quan điều tra ra Quyết định áp dụng biện

pháp bảo vệ.

Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ gồm các nội dung chính như:

- Số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định;

- Chức vụ của người ra quyết định;

- Căn cứ ra quyết định. Cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ và các quy

định của BLTTHS, căn cứ đơn đề nghị được bảo vệ của người đề nghị và căn

cứ vào kết quả xác minh căn cứ đề nghị bảo vệ cũng như điều kiện thi hành trên

thực tế của các cơ quan hữu quan.

- Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được bảo vệ:

- Biện pháp bảo vệ và thời gian bắt đầu thực hiện biện pháp bảo vệ. Sau

khi ra Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, Quyết định đó được gửi cho người

yêu cầu bảo vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã để nghị áp dụng

biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ. Trong

trường hợp cấp bách cần ngăn chặn ngay các hành vi đe dọa đến tính mạng, sức

64

khỏe và tài sản của người được bảo vệ thì cơ quan có trách nhiệm bảo vệ phải

áp dụng ngay các biện pháp bảo vệ cần thiết như cử ngày lực lượng bảo vệ đến

nơi ở, nơi làm việc, học tập của người được bảo vệ hoặc tạm thời đưa người

được bảo vệ đến nơi an toàn.

Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, Cơ quan điều tra có

thẩm quyền áp dụng phải tổ chức thực hiện ngay biện pháp bảo vệ. Trường hợp

cần thiết có thể phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong Công an nhân dân, Quân

đội nhân dân để thực hiện việc bảo vệ, đặc biệt là các vụ việc phức tạp, tính

chất xâm hại, đe dọa xâm hại là nghiêm trọng, có thể gây hậu quả lớn hoặc liên

quan đến các hoạt động quản lý về cư trú, công tác tổ chức cán bộ trong đơn vị

người được bảo vệ, hoạt động gửi giữ, bảo quản tài sản của người được bảo

vệ…Thời gian bảo vệ được tỉnh từ khi áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi

có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.

Trường hợp các biện pháp bảo vệ không còn cần thiết, nguy cơ đe dọa

hoặc xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và

lợi ích hợp pháp của người bảo vệ không còn hiện hữu hoặc trường hợp việc

áp dụng các biện pháp trước đó không còn phù hợp hoặc nảy sinh các yêu cầu

bảo vệ mới phải huy động thêm phương tiện, lực lượng bảo vệ... thì Cơ quan

điều tra đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ

trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cần thiết.

Khi xét thấy nguy cơ xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe,

tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ không còn thì thủ trưởng

Cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải ra quyết định

chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ. Căn cứ để xét thấy các nguy cơ trên không

còn thường là thông qua các biểu hiện như sự ổn định tình trạng bình thường

trong một thời gian tương đối dài, mọi hoạt động, sinh hoạt, công việc của

người được bảo vệ vẫn ở trạng thái an toàn. Không thấy xuất hiện và nguy cơ

xuất hiện hành vi trả thù, trù dập, đe dọa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích

65

hợp pháp của người được bảo vệ, hoặc các hành vi xâm hại đã được ngăn chặn,

xử lý kịp thời ... Quyết định chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được

gửi cho người được bảo vệ, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ

quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.

2.2.6. Về hồ sơ bảo vệ

Hồ sơ bảo vệ do Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng biện pháp

bảo vệ lập. Hồ sơ bảo vệ bao gồm:

- Văn bản đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ biên bản về việc đề

nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ. Văn bản đề nghị cần trình bày các căn

cứ liên quan đến tính chất, mức độ và khả năng xảy ra trên thực tế của hành vi

xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản, quyền lợi ích

hợp pháp của người đề nghị hoặc người cần bảo vệ. Khi tiếp nhận đề nghị, yêu

cầu bảo vệ, cơ quan tiến hành tố tụng cần lập biên bản về việc đề nghị, có chữ

ký của người đề nghị.

- Kết quả xác minh về hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng,

sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người đề nghị được bảo vệ. Thông

thường các kết quả này được tồn tại dưới dạng báo cáo. Trong kết quả xác minh

cần khẳng định có căn cứ thực tế đe dọa hoặc xâm hại đến tính mạng, sức khỏe,

danh dự nhân phẩm, tài sản, quyền lợi ích hợp pháp của người tố giác tội phạm,

người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm và cần

thiết phải áp dụng các biện pháp bảo vệ.

- Tài liệu về hậu quả thiệt hại đã xảy ra (nếu có) và việc xử lý của cơ

quan có thẩm quyền. Đây là các thông tin ở dạng văn bản, ảnh lưu trữ, âm

thanh, biên bản... các tài liệu này chỉ có khi thiệt hại đã xảy ra. Hậu quả thiệt

hại thường được đo lường bằng thiệt hại về tính mạng, tỷ lệ thương tật về sức

khỏe, sự hiểu lầm, suy giảm uy tín, suy sụp tinh thần, các biểu hiện tâm thần,

lo lắng, các hư hỏng, mất mát về tài sản, các khó khăn cản trở trong quá trình

công tác, sinh hoạt v.v...

66

Ngoài ra, hồ sơ bảo vệ còn bao gồm văn bản yêu cầu, đề nghị thay đổi,

sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; Quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ

biện pháp bảo vệ; Tài liệu phản ánh diễn biến quá trình áp dụng biện pháp bảo

vệ: Văn bản yêu cầu, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp bảo vệ Báo cáo

kết quả thực hiện biện pháp bảo vệ; Quyết định chấm dứt biện pháp bảo vệ; Các

văn bản, tài liệu khác có liên quan đến việc bảo vệ như như tài liệu thể hiện các

nguồn tin, căn cứ về việc đã hoặc sẽ bị xâm hại của tội phạm đối với người được

bảo vệ; văn bản báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên; nội dung chỉ đạo của

người có trách nhiệm bảo vệ tóm tắt việc xác minh, truy tìm, truy bắt đối tượng

đã tấn công hoặc xâm hại người được bảo vệ, tài liệu thể hiện việc đền bù, trợ

cấp cho người được bảo vệ bị thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe...

2.3. Đánh giá chung thực trạng bảo vệ quyền tố giác về tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp ở Cơ quan điều tra VKSND tối cao

2.3.1. Những kết quả đạt được

Trong những năm qua, công tác điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp của Cơ

quan điều tra VKSNDTC đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần vào

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; làm trong sạch đội ngũ cán bộ trong

các cơ quan tư pháp; chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội, là

công cụ sắc bén thực sự có hiệu quả để đảm bảo và hỗ trợ tích cực cho VKSND

thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp,

bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần kiềm chế, ngăn chặn sự gia tăng

của loại tội phạm này.

Từ năm 2015 đến năm 2019, số lượng thông tin vi phạm, tội phạm liên

quan đến tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức

vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp do người dân tố giác mà Cơ quan điều tra

VKSND tối cao tiếp nhận là 8.035 đơn thư, đã tăng dần qua từng năm, được

thể hiện tại bảng sau:

67

Bảng 2.1: Tổng số thông tin vi phạm, tội phạm và tố giác, tin báo do

CQĐT VKSNDTC tiếp nhận, giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019

Tố giác, tin báo

Tỷ lệ đạt

Năm

Đã xác minh, giải quyết

về tội phạm

Thông tin vi phạm, tội phạm

1148 129 91,5% 141 2015

1508 137 93,3% 147 2016

1594 141 94% 150 2017

1793 131 91,6% 143 2018

Nguồn: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

1992 154 85,6% 180 2019

Các thông tin vi phạm, tội phạm và tố giác, tin báo xâm phạm hoạt động

tư pháp xảy ra ở tất cả các cơ quan tư pháp: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,

Tòa án, cơ quan THADS, cơ quan THAHS, trong đó ngành Công an: 2848,

ngành Tòa án: 2242; ngành THADS:1385; ngành Kiểm sát: 687; ngành

khác:1173; Trong tổng số 8035 thông tin vi phạm, tội phạm thì có 761 tố giác,

tin báo thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, còn

7274 đơn không thuộc thẩm quyền đã chuyển cơ quan hữu quan khác để xử lý,

giải quyết theo quy định. Nội dung chủ yếu phản ánh, tố cáo sai phạm trong

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: Hành vi nhận hối lộ; hành

vi bức cung, dùng nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án dẫn đến oai sai; hành vi

tổ chức, cưỡng chế thi hành án trái pháp luật...

Trong những năm qua, công tác tiếp nhận, giải quyết các đơn, thư tin báo,

tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã đạt được những kết quả

đáng ghi nhận. Tất cả các đơn, tin gửi đến đều được phân loại, giải quyết, xác

minh và trả lời đến cá nhân, tổ chức gửi đơn. Qua đó giải quyết được những vấn

68

đề bức xúc của công dân, không để tình trạng tố cáo kéo dài, gây bức xúc trong

quần chúng nhân dân. Thông qua công tác xác minh 761 tin báo, tố giác, từ năm

2015 đến năm 2019, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã khởi tố và thụ lý điều

tra được 254vụ/246 bị can, cụ thể được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.2: Số lượng vụ án, bị can xâm phạm hoạt động tư pháp do

CQĐT VKSNDTC khởi tố, điều tra từ năm 2015 đến năm 2019

Tổng

Các tội phạm khác liên quan đến hoạt động

Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Năm

Tội phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp

tư pháp

Vụ

Bị can

Vụ

Bị can

Vụ

Bị can

Vụ

Bị can

42

26

29

22

07

04

06

0

2015

45

34

28

29

09

05

08

0

2016

51

50

33

31

13

15

05

04

2017

57

67

38

47

16

19

03

01

2018

59

69

34

48

22

21

03

0

2019

254

246

162

177

67

64

25

5

Tổng

Nguồn: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Qua thống kê cho thấy trong tổng số các vụ án mà CQĐT VKSNDTC đã

khởi tố và thụ lý điều tra thì tội phạm về tham nhũng, chức vụ trong hoạt động

tư pháp: 162vụ/177.bị can (chiếm 64%); tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp:

67vụ/64 bị can (chiếm 26%); các tội phạm khác liên quan đến hoạt động tư

pháp: 25vụ/5 bị can (chiếm 10%). Bên cạnh đó, trong số các bị can bị Cơ quan

điều tra khởi tố trong các năm từ 2015 đến 2019 thì có thể thấy tỷ lệ tội phạm

là cán bộ, công chức thuộc cơ quan tư pháp cụ thể qua bảng sau:

69

Bảng 2.3: Tỷ lệ bị can bị CQĐT VKSNDTC khởi tố, điều tra trong các

vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp từ năm 2015 đến năm 2019

Năm

Tổng số

Bị can thuộc Viện kiểm sát

Bị can thuộc Tòa án

Bị can thuộc ngành khác

Bị can thuộc cơ quan công an

Bị can thuộc Cơ quan THADS

4

2015

26

0

7

14

1

9

2016

34

1

3

21

0

14

2017

50

4

5

24

3

25

2018

67

7

5

30

0

37

2019

69

5

7

20

0

89

4

Tổng 246

17

27

109

Nguồn: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy số người phạm tội là cán bộ, công chức

thuộc ngành Công an là 89 bị can (chiếm 36%); thuộc ngành Toà án là 27 bị can

(chiếm 15%); thuộc ngành Kiểm sát là 17 bị can (chiếm 10%); thuộc cơ quan Thi

hành án là 109 bị can (chiếm 44%), ngành khác là 4 bị can (chiếm 6%).

Việc khắc phục, thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham

nhũng, chức vụ cũng được Cơ quan điều tra VKSND tối cao chú trọng thực

hiện. Tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản bị thiệt hại, chiếm đoạt trong các vụ án tham

nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp do Cơ quan điều tra VKSND

tối cao khởi tố, điều tra trung bình đạt 55%. [27, tr. 15]

Có thể thấy, kể từ năm 2018, sau khi ban hành và thực hiện Quy chế số

565 và quy định của BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền mới của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao có hiệu lực thì việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao có nhiều chuyển biến tích

cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo một bước ngoặt mới

cả về tổ chức hoạt động cũng như công tác xây dựng thể chế. Với những kết

quả như trên, có thể thấy hiệu quả và chất lượng trong công tác điều tra các tội

phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp và tội phạm xâm phạm

70

hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Việc khởi tố, điều tra,

xử lý tội phạm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao luôn đảm bảo đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,

thể hiện qua việc không có vụ án nào mà Cơ quan điều tra VKSND tối cao khởi

tố, điều tra bị đình chỉ điều tra vì bị can không phạm tội hoặc Tòa án tuyên

không phạm tội, tỷ lệ vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung rất thấp.

Cùng với việc chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm

phạm hoạt động tư pháp, Cơ quan điều tra VKSND tối cao cũng đặc biệt chú

trọng tích cực phát hiện, xác định nguyên nhân cũng như các điều kiện dẫn đến

vi phạm, tội phạm để kiến nghị với các cơ quan hữu quan có biện pháp xử lý

và phòng ngừa vi phạm, tội phạm và kiến nghị khắc phục những thiếu sót, kẽ

hở trong các quy định pháp luật và trong công tác thực thi pháp luật, xác định

đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác điều tra của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, Cơ quan

điều tra VKSND tối cao đã ban hành 425 kiến nghị, gửi cơ quan tư pháp các

cấp, đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý sai phạm của cán bộ chiến sĩ,

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên trong khi thi hành

nhiệm vụ; đồng thời rút kinh nghiệm chung trong công tác nghiệp vụ. Đáng

chú ý, Cơ quan điều tra đã tham mưu lãnh đạo VKSND tối cao ban hành 06

kiến nghị tổng hợp, gửi các đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Tư

pháp và Chánh án TAND tối cao đề nghị có biện pháp rút kinh nghiệm chung

trong toàn ngành, đặc biệt là các hành vi tiêu cực trong công tác nghiệp vụ.

96,9% kiến nghị của Cơ quan điều tra VKSND tối cao được các cơ quan, đơn

vị hữu quan tiếp thu, xử lý theo quy định. [21, 2015-2019]

2.3.2. Những hạn chế, bất cập

Trong những năm vừa qua mặc dù Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã

được Lãnh đạo VKSND tối cao và các đơn vị ban ngành tạo điều kiện giúp đỡ,

đã đạt được những thành tích nhất định trong hoạt động điều tra nói chung và

71

trong công tác bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

nói riêng. Tuy nhiên, do tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp nên

vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc và hạn chế như sau:

- Số lượng Điều tra viên, Cán bộ điều tra hiện chưa đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ tăng thêm.

- Năng lực, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm điều tra của Điều tra viên,

Cán bộ điều tra còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định của

pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết nguồn tin về tội phạm và điều tra các

vụ án hình sự thuộc thẩm quyền.

- Việc tạm giữ, tạm giam các bị can để điều tra phải nhờ các cơ sở giam

giữ trong Quân đội nhân dân, do đó, chưa chủ động được trong việc bố trí các

biện pháp nghiệp vụ điều tra, các Trại tạm giam đều ở xa trụ sở làm việc của

Cơ quan điều tra (từ 70km trở lên) dẫn đến việc hỏi cung, lấy lời khai, đối chất,

nhận dạng… mất rất nhiều thời gian; công tác giám định kỹ thuật hình sự chưa

có thẩm quyền thực hiện, phải trưng cầu cơ quan giám định của Bộ Công an,

Bộ Quốc phòng, trong đó, việc giám định âm thanh, hình ảnh chỉ có ở Bộ Công

an, dẫn đến thời hạn giám định kéo dài, chưa đảm bảo tính khách quan, ảnh

hưởng đến tiến độ, chất lượng giải quyết vụ việc. Hầu hết các vụ việc đều có

liên quan đến việc thu thập, bảo quản, đánh giá chứng cứ, dữ liệu điện tử nhưng

hiện Cơ quan điều tra chưa có lực lượng cán bộ kỹ thuật hình sự chuyên trách,

chưa có phương tiện kỹ thuật và công nghệ để phục vụ cho công tác này.

- Phương tiện, trang thiết bị và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động điều

tra còn thiếu, lạc hậu so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.

- Chưa có cơ chế và kinh phí đặc thù cho hoạt động điều tra; chưa có

chính sách đặc thù để đãi ngộ Điều tra viên, Cán bộ điều tra trong việc phát

hiện, đấu tranh phòng, chống tội phạm thuộc thẩm quyền.

- Do số lượng đơn thư tố giác có xu hướng ngày càng tăng lên trong khi

lực lượng Cán bộ điều tra, Điều tra viên làm công tác phân loại còn thiếu và

72

chưa được đào tạo chuyên sâu nên công tác thụ lý, phân loại, xử lý đơn thư, tố

giác về tội phạm thuộc thẩm quyền đôi khi vẫn chưa kịp thời, chính xác.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

Nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn và hạn chế nêu trên chủ yếu là do:

- Hiến pháp và các đạo luật mới về tư pháp được ban hành, có hiệu lực

từ ngày 01/01/2018 mở rộng thẩm quyền điều tra mới và quy định bổ sung

nhiều nhiệm vụ, quyền hạn mới cho Cơ quan điều tra VKSND nhưng chưa

được tăng cường năng lực đầy đủ, kịp thời để đáp ứng ngay với yêu cầu nhiệm

vụ mới tăng thêm theo quy định của luật. Mặt khác, nhiều quy định mới của luật

mới được ban hành nhưng việc giải thích, hướng dẫn pháp luật, nhất là các tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong

hoạt động tư pháp chưa kịp thời nên việc nhận thức, áp dụng chưa thống nhất;

công tác phối hợp chưa chặt chẽ, thường xuyên trong việc phát hiện, xử lý tội

phạm.

- Tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát hiện nay còn nhiều

bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ được giao, lực lượng điều tra của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao còn thiếu và yếu.

- Tính chất, đặc thù của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp rất phức tạp

nhưng Cơ quan điều tra VKSND chưa có đầy đủ các yêu cầu, điều kiện bảo đảm

của Cơ quan điều tra chuyên trách để phát hiện và đấu tranh phòng chống có hiệu

quả đối với tội phạm này. Trong đó, việc phát hiện, chứng minh hành vi phạm tội

rất khó khăn, nhưng chưa có các hoạt động nghiệp vụ, như trinh sát, mạng lưới cơ

sở, cơ chế cung cấp, phát hiện thông tin về tội phạm trong và ngoài ngành còn

chưa hiệu quả; việc thu thập chứng cứ, tài liệu (nhất là chứng cứ dữ liệu điện tử),

công tác giám định (nhất là giám định âm thanh, hình ảnh, lĩnh vực kế toán, tài

chính), công tác tạm giữ, tạm giam... đều gặp nhiều khó khăn, bất cập.

- Trụ sở, phương tiện, trang thiết bị, kinh phí phục vụ công tác điều tra

còn hạn chế, chưa có cơ chế kinh phí đặc thù cho hoạt động điều tra; thiếu cơ

73

chế, chính sách đãi ngộ đối với Điều tra viên chưa phù hợp, chưa tương xứng

với tính chất phức tạp và áp lực của công tác phát hiện, đấu tranh phòng, chống

tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt

động tư pháp.

- Tình trạng không cung cấp hoặc chậm cung cấp thông tin vi phạm, tội

phạm ở các cơ quan tư pháp còn tồn tại nên cũng gây khó khăn cho CQĐT trong

việc phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời tội phạm. Các hành vi xâm phạm hoạt

động tư pháp, tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp thường xảy ra thời

gian rất lâu trước đó, sau này mới bị phát hiện, tố cáo nên những người biết về

tình tiết của vụ án là rất ít, hơn nữa họ còn sợ bị ảnh hưởng, liên lụy nên ngại

đứng ra làm nhân chứng.

- Đội ngũ Điều tra viên, Cán bộ điều tra của CQĐT VKSNDTC hiện nay

còn thiếu, chưa được bổ sung đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng. Trình độ

chuyên môn nghiệp vụ giữa các Cán bộ điều tra, Điều tra viên còn chưa đồng

đều; kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ điều tra của một số cán bộ còn

hạn chế, chưa thực sự chủ động, tích cực trong công tác, chưa nêu cao tinh thần

trách nhiệm, không thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các văn bản pháp luật

dẫn đến việc không đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới.

- Một số địa phương, đơn vị chưa thực hiện tốt công tác phối hợp, tổ chức

kiểm tra, xác minh, điều tra với Cơ quan điều tra VKSND tối cao.

74

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Tại Chương 2 của luận văn, tác giả nghiên cứu làm rõ tình hình vi phạm,

tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong 5 năm từ năm 2015-2019; việc bảo

đảm quyền tố giác về tội phạm của công dân; khái quát đặc điểm và tình hình

hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Qua đó, nêu lên thực trạng bảo

đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có nhiều kết quả đạt được đáng ghi nhận

nhưng bên cạnh đó còn nhiều hạn chế do các nguyên nhân khách quan, chủ quan

gây ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp của công dân. Từ đó tác giả có thể đưa ra những giải pháp để nâng cao

hiệu quả trong việc bảo đảm quyền tố giác ở Chương 3 của Luận văn.

75

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ GIÁC VỀ

TỘI PHẠM XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP – TỪ THỰC TIỄN

CƠ QUAN ĐIỀU TRA VKSND TỐI CAO

3.1. Yêu cầu của việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp

Hiện nay, tình hình kinh tế, xã hội nói chung ngày càng phát triển một

mặt là xu hướng tích cực đảm bảo cho người dân được hưởng cuộc sống ấm

no, hạnh phúc và được thực hiện nhiều quyền của mình hơn. Tuy nhiên, mặt

khác song song với xu hướng phát triển của kinh tế, xã hội thì nhiều loại tội

phạm mới cũng phát sinh và các loại tội phạm truyền thống lại ngày càng tinh

vi với nhiều thủ đoạn che giấu gây khó khăn cho hoạt động phát hiện, khởi tố,

điều tra nhất là các loại tội phạm về xâm phạm hoạt động tư pháp và tội phạm

tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.

Theo số liệu của VKSND tối cao, từ năm 2015 đến năm 2019, tổng số

vụ án mà Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố, thụ lý, điều

tra là 254vụ/246 bị can, trong đó có một số vụ án qua điều tra của Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xác định oan, sai đặc biệt nghiêm trọng

như vụ án Nguyễn Thanh Chấn bị kết án oan về tội giết người với hình phạt tù

chung thân. Ông Nguyễn Thanh Chấn được minh oan khi Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao vào cuộc. Nguồn phát hiện, tiếp nhận, điều tra, xử lý

các vụ án của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân tối cao chủ yếu thông qua

công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và tố giác, tố cáo của tổ chức và công

dân. Các cơ quan tư pháp khác tuy có cung cấp thông tin tội phạm thuộc thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân nhưng không nhiều.

Có nhiều trường hợp vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra

nhưng không có cơ quan nào điều tra nếu Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân

76

dân không điều tra, dẫn đến vi phạm, tội phạm đó không được xử lý theo quy

định của pháp luật, khi đó sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ

quan tư pháp, cán bộ tư pháp và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Từ đó đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết là cần phải tạo điều kiện từ hành

lang pháp lý tới cơ sở vật chất để nâng cao hơn nữa các cơ chế bảo đảm quyền

tố giác về tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội

phạm tham nhũng chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nói riêng.

3.2. Phương hướng bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp

Để bảo đảm tốt hơn nữa quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp và tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc

thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, trong thời gian tới cần có

những phương hướng cụ thể như sau:

- Một trong những phương hướng quan trọng mà yêu cầu cải cách tư

pháp đặt ra là: Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh

tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý… Chính vì vậy,

trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra VKSND

tối cao đã đặc biệt quan tâm công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ Điều tra viên,

cán bộ điều tra cả về chuyên môn, nghiệp vụ, giáo dục bồi dưỡng phẩm chất và

đạo đức nghề nghiệp. Đến nay, đội ngũ Điều tra viên, cán bộ điều tra của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao đã có sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng

và chất lượng để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên,

để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới tăng thêm thời gian tới cần tiếp tục nâng

cao hơn nữa số lượng và chất lượng đội ngủ cán bộ tư pháp nói chung và của

Điều tra viên, Cán bộ điều tra nói riêng.

- Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao;

đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, bản

77

lĩnh chính trị, kỹ năng nghiệp vụ điều tra; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường

kiểm tra nghiệp vụ; thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; thực hiện

việc luân chuyển Điều tra viên, công chức đáp ứng yêu cầu công tác; phát huy

hiệu quả công tác phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị.

- Tích cực chủ động phát hiện, khởi tố, điều tra tội phạm thuộc thẩm

quyền; tiếp nhận, phân loại, xử lý kịp thời, chính xác, đúng quy định của pháp

luật về tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tiếp tục nâng cao hơn

nữa chất lượng hoạt động xác minh giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cũng

như điều tra các vụ án hình sự. Đẩy nhanh tiến độ giải quyết nguồn tin về tội

phạm, cũng như các vụ án hình sự nhằm đạt và vượt chỉ tiêu của Quốc hội và

của ngành Kiểm sát nhân dân. Không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm; tập

trung giải quyết các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp xảy ra ở các lĩnh vực hoạt

động tư pháp, nhất là tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động

tư pháp; tiếp tục thực hiện ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tối cao về

tập trung điều tra xử lý nghiêm hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự

người có tội, hành vi ra bản án, quyết định trái pháp luật.

- Không ngừng đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, gắn trách

nhiệm của người có chức vụ, chức danh tư pháp với công việc được giao. Nêu

cao ý thức, trách nhiệm của công chức thực thi công vụ, nhất là đội ngũ cán bộ

cốt cán. Bên cạnh việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ

năng phát hiện, điều tra tội phạm thuộc thẩm quyền, cần tăng cường các biện

pháp nghiệp vụ hỗ trợ điều tra, gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật

số nhằm xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Cán bộ điều tra chính quy, hiện đại,

chuyên nghiệp, đủ sức để thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Đề cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo VKSND các cấp, các đơn vị

thuộc VKSND tối cao với Cơ quan điều tra; chủ động phát hiện, khởi tố, điều

tra tội phạm trong lĩnh vực, địa bàn phụ trách, đồng thời, tăng cường trách

78

nhiệm của lãnh đạo Cơ quan điều tra và các phòng nghiệp vụ trong phát hiện,

khởi tố, điều tra tội phạm trong lĩnh vực, địa bàn phụ trách.

- Triển khai thực hiện các Đề án “Tăng cường năng lực Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê

duyệt; Đề án cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình thực hiện ghi âm, ghi

hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015. Phối hợp Cục 2, Cục 3, Vụ 14, Văn phòng VKSND tối cao tham

mưu triển khai thực hiện Thông tư sửa đổi Thông tư hướng dẫn việc lập dự

toán, quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước đảm bảo cho công tác

điều tra tội phạm (Thông tư số 1018/2020/TT-BTC ngày 18/9/2020).

3.3. Giải pháp bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp

3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tố giác về tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Do hệ thống pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động Cơ quan điều

tra của VKSND tối cao còn có nhiều điểm bất cập, quy định về các tội xâm

phạm hoạt động tư pháp, phạm vi, thẩm quyền, đối tượng điều tra còn chưa cụ

thể nhất là về khái niệm: người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

Trong khi đó, việc giải thích, hướng dẫn pháp luật chưa kịp thời và chưa được

quan tâm đúng mức, khiến cho việc nhận thức, áp dụng giữa các cơ quan tư

pháp không thống nhất và cũng chưa phù hợp với thực tiễn... ảnh hưởng đến

hoạt động Cơ quan điều tra của VKSND tối cao thời gian qua.

Bên cạnh đó, hiện nay, liên ngành tư pháp Trung ương chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể về hoạt động phối hợp trong việc phát hiện, xử lý các tội

phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp nên chưa tạo cơ chế

thuận lợi bảo đảm cho Cơ quan điều tra của VKSND tối cao thực hiện có hiệu

quả công tác này. Vì vậy, trên thực tế việc xử lý những vụ phạm tội do các nhân

viên tư pháp thực hiện rất khó khăn, phức tạp, nhiều vụ bị kéo dài, thậm chí có

79

những vụ khó chứng minh lỗi cố ý, nên không xử lý được. Số vụ khởi tố, điều

tra chưa phản ánh đúng thực trạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động tư pháp.

Thứ nhất: Theo quy định của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự

năm 2015 tại Chương IV Điều 30 khoản 2 và tại khoản 3 Điều 163 BLTTHS

năm 2015 thì: “Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra VKS quân

sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham

nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXII và chương XXIV của Bộ luật hình sự

xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến

hành hoạt động tư pháp.” Nhưng không quy định chỉ tiết các chủ thể là: “người

có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp” trong các tội phạm thuộc thẩm

quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao tại Chương XXIII (Chương

các tội phạm về chức vụ), Chương XXIV (Chương các tội xâm phạm hoạt động

tư pháp) của Bộ luật Hình sự; chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền cụ

thể về quy định này, hiện Quy chế về tiếp nhận, thu thập, quản lý, xử lý và giải

quyết nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao (ban hành kèm theo Quyết định số 565/QĐ-VKSTC, ngày

29/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao) quy định. Tuy nhiên, đây là quy

định trong ngành Kiểm sát nên việc nhận thức chưa thống nhất trong điều tra, xử

lý. Do đó, cần phải có hướng dẫn cụ thể các chủ thể: “người có thẩm quyền tiến

hành hoạt động tư pháp”.

Thứ hai: Trong Bộ luật hình sự năm 2015 cần có hướng dẫn cụ thể các

trường hợp quy định hậu quả phi vật chất để có căn cứ xử lý chính xác hành vi

phạm tội, tránh việc áp dụng tùy nghi hoặc không thể áp dụng dẫn đến bỏ lọt

tội phạm, cụ thể tại các Điều sau:

- Tại Điều 353. Tội tham ô tài sản: điểm g khoản 2 “g. Ảnh hưởng xấu

đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ

80

quan, tổ chức.”; điểm c khoản 3 “c. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,

an toàn xã hội;”

- Tại Điều 354. Tội nhận hối lộ: điểm b khoản 1 “b. Lợi ích phi vật chất.”

- Tại Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản:

điểm d khoản 3 “d. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.”

- Tại Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công

vụ và Điều 357. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: “1…gây thiệt hại

khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”

- Tại Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với

người khác để trục lợi: điểm b khoản 1 “b. Lợi ích phi vật chất.”

- Tại Điều 361. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán

hoặc tiêu hủy bí mật công tác: điểm đ khoản 2 “đ. Gây ảnh hưởng xấu đến hoạt

động của cơ quan, tổ chức;”

- Tại Điều 363. Tội đào nhiệm: điểm b khoản 2 “b. Gây hậu quả rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;”

- Tại Điều 364. Tội đưa hối lộ; Điều 365. Tội môi giới hối lộ và Điều

366. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi:

điểm b khoản 1 “b. Lợi ích phi vật chất.”

- Tại điểm e khoản 2 Điều 368. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người

không có tội; điểm đ khoản 2 Điều 369. Tội không truy cứu trách nhiệm hình

sự người có tội; điểm g khoản 2 Điều 370. Tội ra bản án trái pháp luật; điểm e

khoản 2 Điều 371. Tội ra quyết định trái pháp luật; điểm đ khoản 2 Điều 372.

Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật;

điểm đ khoản 2 Điều 376. Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt…trốn: “Gây

ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;”

Ngoài ra, tại Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:

Đề nghị bổ sung các hậu quả khác ngoài hậu quả vật chất (về tính mạng, sức

khỏe, tiền, tài sản) để tránh bỏ lọt tội phạm vì trên thực tế ngoài thiệt hại về tính

81

mạng, tài sản thì có nhiều trường hợp dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng: gây

thiệt hại đến uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân; ảnh hưởng xấu đến trật tự,

an toàn xã hội…Để tránh việc áp dụng tùy nghi đề nghị có hướng dẫn cụ thể

các trường hợp áp dụng. Trong thực tế, thông qua công tác điều tra, xác minh

tội phạm có dấu hiệu thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, thấy một số

vụ việc tuy đã xác định được có hành vi thiếu trách nhiệm (để quên bản án hoặc

không ra quyết định thi hành án hình sự, để quên hồ sơ vụ án hình sự không

chuyển để giải quyết theo thẩm quyền dẫn đến hết thời hiệu thi hành, hết thời

hiệu tru cứu trách nhiệm hình sự). Theo quy định của Điều 285 BLHS 1999 thì

có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả

nghiêm trọng” nhưng theo quy định mới tại Điều 360 BLHS 2015 thì không xử

lý được về hình sự.

3.3.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy, hoạt động của Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

3.3.2.1. Hoàn thiện về tổ chức, bộ máy

Về cơ bản, bộ máy Cơ quan điều tra VKSND tối cao được tổ chức như

hiện nay, theo mô hình: CQĐT là đơn vị trực thuộc VKSND tối cao, có trụ sở

chính tại Hà Nội, với các đơn vị trực thuộc (bao gồm cả các đại diện thường

trực và các phòng nghiệp vụ đặt tại các khu vực) để vừa đảm bảo việc phát hiện

và phân loại xử lý thông tin tội phạm được kịp thời, chính xác, việc điều tra xử

lý tội phạm đảm bảo thời hạn tố tụng, vừa bảo đảm hoạt động độc lập, chỉ huy

thống nhất của Thủ trưởng CQĐT và chỉ đạo kịp thời của Viện trưởng VKSND

tối cao. Tuy nhiên, để có thể đảm đương được tốt công tác thu thập, phát hiện,

tiếp nhận tin báo, tố giác và phát hiện, điều tra, xử lý số vụ án xâm phạm hoạt

động tư pháp, án tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm

quyền trong phạm vi cả nước, thì cần thành lập thêm các đại diện Thường trực ở

các vùng miền trên cả nước. Hiện nay, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đang

có hai đại diện thường trực tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng,

82

vì vậy có thể thành lập thêm ba đại diện Thường trực đặt tại 03 khu vực Tây Bắc

(tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái); Tây Nguyên (tại thành phố Buôn ma

Thuột, tỉnh Đắk Lắk); Tây Nam bộ (tại thành phố Cần Thơ). Trong mỗi đại

diệnThường trực sẽ có các phòng nghiệp vụ điều tra để thực hiện nhiệm vụ được

cơ động, kịp thời và bám sát được địa bàn. Trước mắt, để đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ mới cũng như để phù hợp với hệ thống CQĐT của Bộ Công an, Cơ

quan điều tra VKSND tối cao cần được hoàn thiện theo hướng:

- Thành lập Phòng Tài vụ, hậu cần: Hiện nay, Cơ quan điều tra VKSND tối

cao có Văn phòng CQĐT (theo Quy chế Tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 208/QĐ- VKSTC-C1 ngày

28/5/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao), với chức năng, nhiệm vụ thực hiện

11 nhóm đầu mối công việc. Theo quy định của Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015

có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 (Cơ quan điều tra VKSND tối cao được

tăng thêm các nhiệm vụ mới như: Trực ban hình sự; kiến nghị khắc phục vi phạm;

sơ kết, tổng kết công tác giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra;

giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định). Để Văn phòng CQĐT hoạt động có

hiệu quả theo hướng chuyên môn hóa, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo quy

định của Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015; đồng thời để đáp ứng yêu cầu phục

vụ hoạt động điều tra, quản lý tài sản, trang thiết bị của CQĐT khi thực hiện thẩm

quyền mới, toàn bộ công tác tài chính, hậu cần phải được tách ra khỏi Văn phòng

CQĐT. Vì vậy, việc thành lập Phòng “Tài vụ - hậu cần” là cần thiết để thực hiện

chức năng, nhiệm vụ là đơn vị độc lập tham mưu giúp Thủ trưởng CQĐT trong

toàn bộ hoạt động công tác chuyên môn về tài chính, kế toán, quản trị, hậu cần

nhằm phục vụ đắc lực, có hiệu quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới

theo quy định của Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015.

- Thành lập các trung tâm:

83

+ Trung tâm điều tra kỹ thuật số: Thực tiễn điều tra, giải quyết các vụ án

hình sự cho thấy: Khoảng trên 80% các vụ án do Cơ quan điều tra VKSND tối

cao thụ lý có liên quan đến việc điều tra và giám định chứng cứ dữ liệu điện tử

(chứa trong máy tính, điện thoại, camera, máy ghi âm, ghi hình…); mặt khác,

trong thời kỳ công nghệ thông tin phát triển, hầu hết các loại tội phạm đều liên

quan đến chứng cứ dữ liệu điện tử, trong khi các phương tiện chứa dữ liệu điện

tử phát triển, thay đổi nhanh và liên tục, nên việc nhận diện, thu thập, đánh giá,

giám định… gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, nhu cầu điều tra và giám định kỹ

thuật số ngày càng lớn, trong khi các ngành tư pháp nói chung, VKSND nói

riêng và Cơ quan điều tra VKSND tối cao chưa có nhiều kinh nghiệm, phương

tiện, kỹ năng để điều tra kỹ thuật số (phát hiện, thu thập, bảo quản, đánh giá

chứng cứ dữ liệu điện tử). Về giám định, hiện chỉ có Bộ Công an và Bộ Quốc

phòng có chức năng giám định kỹ thuật hình sự. Tuy nhiên, việc giám định âm

thanh, hình ảnh chỉ có ở C09 (C54 cũ) - Bộ Công an, dẫn đến quá tải và không

đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, chưa đảm bảo về thời hạn tố tụng và tính

khách quan. Từ ngày 01/01/2020 khi triển khai thực hiện ghi âm, ghi hình có

âm thanh việc hỏi cung bị can trên toàn quốc, dẫn đến nhu cầu điều tra kỹ thuật

số, giám định dữ liệu điện tử tăng nhanh ở VKSND và cơ quan tư pháp các cấp.

Nghiên cứu Trung tâm điều tra kỹ thuật số ở Hàn Quốc, Nhật Bản và

một số nước cho thấy, Trung tâm này thường là một đơn vị cấp Cục (Vụ) thuộc

Viện Công tố tối cao, trong đó tích hợp nhiều nhiệm vụ, như: Điều tra kỹ thuật

số, giám định kỹ thuật hình sự, giám định gen, hóa học… Xuất phát từ cơ sở

pháp lý, điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, trước mắt cần thành lập Trung

tâm điều tra kỹ thuật số (đơn vị cấp Phòng) thuộc VKSND tối cao, có con dấu,

tài khoản và tư cách pháp lý riêng (để có thể là đầu mối hợp tác quốc tế và địa

vị pháp lý khi thực hiện công tác giám định), với 2 nhiệm vụ cơ bản là: Điều

tra kỹ thuật số (nhiệm vụ này đã được giao thực hiện) và giám định kỹ thuật

hình sự (nhiệm vụ này đang đề xuất sửa đổi Luật Giám định tư pháp) nhằm

84

phục vụ hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao và các đơn vị

trong ngành KSND. Từ những lý do trên, việc thành lập Trung tâm điều tra kỹ

thuật số trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng và cần thiết.

+ Thành lập Trung tâm xử lý thông tin thuộc Phòng Tiếp nhận, thu thập,

quản lý và xử lý nguồn tin về tội phạm (Phòng 1) CQĐT để đáp ứng yêu cầu ứng

dụng công nghệ cao trong quản lý nghiệp vụ; nâng cao tỷ lệ phát hiện, thu thập

nguồn tin về tội phạm và chất lượng công tác xử lý và giải quyết nguồn tin về tội

phạm và giúp quản lý thống nhất, xử lý và giải quyết nhanh chóng, hiệu quả

nguồn tin tội phạm (do việc xử lý nhiều thông tin, với tính chất phức tạp như

hiện nay, nếu thực hiện bằng thủ công như hiện nay thì khó đáp ứng).

+ Thành lập Trung tâm chỉ huy điều tra thuộc Văn phòng CQĐT (Phòng

2) để ứng dụng công nghệ thông tin bằng hình thức chỉ huy trực tuyến từ Hà

Nội kết nối đến các phòng khu vực, sau này đến các Trại tạm giam... để chỉ huy

hỏi cung, lấy lời khai các trường hợp phức tạp và từng bước tạo sự đồng đều

về trình độ điều tra trong hệ thống CQĐT. Việc thành lập 02 Trung tâm (xử lý

thông tin và chỉ huy điều tra) vừa bảo đảm không thành lập mới đơn vị cấp

phòng (theo Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị) nhưng là giải pháp thực tiễn,

quan trọng đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Đối với đầu mối tại 63 VKSND tỉnh, thành phố: Theo Quy chế tổ chức

và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, tổ chức bộ máy của đơn vị

có các phòng nghiệp vụ và trong các phòng nghiệp vụ có các đội nghiệp vụ do

Thủ trưởng CQĐT quyết định. Với cơ cấu tổ chức bộ máy có các phòng nghiệp

vụ đặt tại các khu vực theo vùng, miền gần với các tỉnh, thành phố, CQĐT sẽ

thành lập từ 3 đến 5 đội nghiệp vụ trong mỗi phòng nghiệp vụ, mỗi đội nghiệp

vụ sẽ có từ 4 đến 6 Điều tra viên phụ trách một số tỉnh, mỗi tỉnh có từ 02 - 03

Điều tra viên phụ trách, có nhiệm vụ phối hợp với VKSND các địa phương làm

tốt công tác tiếp nhận, thu thập và xử lý thông tin tội phạm; xác minh; điều tra

giải quyết vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn. Phương án này đồng thời cũng đáp

85

ứng được yêu cầu đòi hỏi mang tính đặc thù của hoạt động điều tra, ngăn ngừa

tiêu cực, vi phạm pháp luật cũng như để bảo vệ cán bộ trong khi tác nghiệp.

- Cùng với việc kiện toàn về tổ chức, các bộ phận hỗ trợ hoạt động điều

tra như: Trinh sát, cảnh sát hỗ trợ tư pháp và các hoạt động khác phục vụ cho

đặc thù điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao phải được xây dựng đồng

bộ và hiệu quả.

3.3.2.2. Hoàn thiện về biên chế

Với yêu cầu nhiệm vụ tăng thêm, thì biên chế cũng như lực lượng Điều

tra viên các cấp cần phải được bổ sung, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ điều

tra do tăng thẩm quyền, vì vậy: Cần khẩn trương xây dựng cơ cấu tổ chức, bộ

máy, xác định đủ biên chế của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nhằm đáp ứng

yêu cầu thực hiện thẩm quyền mới theo quy định của Luật tổ chức VKSND

năm 2014. Xác định cụ thể và đầy đủ cơ cấu đội ngũ cán bộ của Cơ quan điều

tra VKSND tối cao (Điều tra viên cao cấp, Điều tra viên trung cấp, Điều tra

viên sơ cấp, cán bộ điều tra, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ điều tra, cán bộ quản lý

tổng hợp, văn phòng CQĐT...).

Hiện tại Cơ quan điều tra VKSND tối cao có 10 phòng nghiệp vụ và 01

phòng đề nghị thành lập mới (tổng số là 11 phòng nghiệp vụ), mỗi phòng nghiệp

vụ cần bố trí ít nhất từ 25 đến 30 biên chế phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của

từng phòng. Lực lượng trực ban hình sự tại 3 đại diện và 3 khu vực (tổng số là

6 đơn vị trực ban), cần bố trí 20 biên chế. Như vậy, với số lượng biên chế đã

được Quốc Hội giao năm 2012 để thực hiện nhiệm vụ trước đây là 185 biên chế

(tinh giản còn 175 biên chế) + với số biên chế cần có để thực hiện nhiệm vụ

tăng thêm, thì tổng biên chế của Cơ quan điều tra VKSND tối cao sẽ cần có là

350 biên chế ( theo Đề án tổ chức, biên chế ngành Kiểm sát nhân dân đến năm

2020 đã được Ban cán sự Đảng VKSND tối cao phê duyệt), để bố trí vị trí việc

làm tại 11 phòng nghiệp vụ, thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền điều tra xảy ra

trên cả nước (63 tỉnh, thành phố). Về lực lượng Điều tra viên các cấp và cán bộ

86

điều tra cần được tăng cường, bổ sung: Tính theo tỉ lệ chỉ tiêu Quốc hội giao

35 Điều tra viên cao cấp/185 biên chế, như vậy sẽ cần có 67 Điều tra viên cao

cấp/350 biên chế. Số Điều tra viên trung cấp, Điều tra viên sơ cấp và cán bộ

điều tra sẽ được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức CQĐTHS năm 2015.

3.3.3. Hoàn thiện về hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân tối cao

Hiện nay, công tác phát hiện, điều tra tội phạm của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao còn hạn chế so với tình hình vi phạm, tội phạm xảy ra trên thực

tế. Nguyên nhân chủ yếu là Cơ quan điều tra VKSND tối cao mới chỉ tiếp nhận

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà chưa chủ động thực hiện được

các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, điều tra tố tụng đặc biệt; chưa có cơ chế trong

việc thu thập thông tin, xây dựng mạng lưới cơ sở... Mặt khác, những vụ án

xâm phạm hoạt động tư pháp, có dấu hiệu tham nhũng, liên quan chức vụ trong

thực thi hoạt động tư pháp đều là những vụ án khó, phức tạp và thường là có

nhiều mối quan hệ tác động...Với những khó khăn, hạn chế như đã nêu trên thì

hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần phải được đổi mới theo

hướng: nâng cao năng lực phát hiện, điều tra tội phạm, thực hiện cơ chế phối

hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra tội phạm với các công tác kiểm sát nhằm

bảo đảm thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp của VKSND. Thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động điều tra, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, xử lý các tội phạm thuộc

thẩm quyền có căn cứ, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội

phạm. Thông qua kết quả, chất lượng hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND

tối cao để làm rõ hơn yêu cầu tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động

điều tra, gắn công tố với điều tra, từng bước công tố chỉ đạo hoạt động điều tra;

cụ thể như sau:

Thứ nhất, đổi mới phương pháp thu thập, quản lý thông tin về tội phạm:

Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để chủ động thu thập thông tin và phát hiện

87

tội phạm theo hướng chú trọng sử dụng biện pháp nghiệp vụ theo quy định của

pháp luật, để chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp xảy ra trên toàn quốc, như: Tập trung xây dựng mạng lưới cơ sở,

Cộng tác viên để chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp; nâng cao trách nhiệm cung cấp thông tin về tội phạm trong nội bộ

ngành Kiểm sát nhân dân; có cơ chế khuyến khích, động viên, thu thập thông tin

về tội phạm từ nhiều nguồn; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng

để trao đổi nguồn thông tin. Cần nghiên cứu chuyển việc quản lý tin báo và tố giác

tội phạm theo phương pháp thủ công, không khoa học sang phương pháp quản lý

bằng các phần mềm vi tính nhằm bảo đảm việc quản lý tin báo và tố giác tội phạm

một cách khoa học hơn, việc tra cứu thông tin nhanh, chính xác hơn.

Thứ hai, đổi mới phương pháp điều tra, xác minh: Theo hướng nâng cao

chất lượng điều tra của các Phòng điều tra tội phạm tại các địa bàn chuyên sâu

từng lĩnh vực hoạt động tư pháp, như: điều tra các tội phạm xảy ra trong hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và các

hoạt động bổ trợ tư pháp khác. Chú trọng phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý các

vụ án tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Bên cạnh việc làm

tốt công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, phải thực hiện các biện pháp

nghiệp vụ để chủ động thu thập thông tin và phát hiện tội phạm. Để việc điều

tra, thu thập chứng cứ, tài liệu chứng minh tội phạm có hiệu quả, cần nâng cao

năng lực, trình độ của đội ngũ Điều tra viên, nhất là nghiệp vụ điều tra tội phạm

để từng bước nâng cao nghiệp vụ điều tra hình sự trong toàn ngành KSND. Bên

cạnh đó, cần trang bị đầy đủ công cụ, phương tiện, thiết bị nghiệp vụ phù hợp

để đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này, như: Khám nghiệm, tổ chức

ghi âm, ghi hình, thực hiện các biện pháp điều tra đặc biệt, quản lý, sử dụng vũ

khí, công cụ hỗ trợ...để phục vụ tốt cho công tác điều tra tội phạm.

Thứ ba, phải đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo hoạt động điều tra vụ án

thông qua việc xây dựng các quy trình nghiệp vụ theo hướng bảo đảm chặt chẽ,

88

khoa học và hiệu quả, làm rõ mối quan hệ giữa quản lý hành chính với quản lý

nghiệp vụ nhằm không những quản lý chặt chẽ hoạt động điều tra, mà còn bảo

đảm sự chỉ đạo cụ thể, có hiệu quả với từng vụ án và từng hoạt động điều tra

của các Điều tra viên, cũng như nâng cao được trách nhiệm và tính chủ động

của Điều tra viên, cán bộ quản lý trong hoạt động điều tra.

Thứ tư, chú trọng công tác phòng ngừa tội phạm, tích cực phát hiện

nguyên nhân, điều kiện phạm tội, những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý

để kiến nghị với các cơ quan tư pháp xử lý và phòng ngừa vi phạm, tội phạm.

Hoạt động phòng ngừa không chỉ dừng ở những vụ, việc cụ thể mà cần tổng

hợp để có những kiến nghị chung về những vi phạm, thiếu sót, sơ hở trong công

tác quản lý nhà nước có tính hệ thống, tính phổ biến, chú trọng phát hiện và

kiến nghị hoàn thiện pháp luật; sửa đổi, bổ sung những cơ chế quản lý không

còn phù hợp...

Thứ năm, thành lập Phòng Giám định kỹ thuật hình sự thuộc Văn phòng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo quyết định số 77/QĐ-VKSTC ngày

25/02/2021 của Viện trưởng VKSND tối cao. Theo đó, Phòng Giám định kỹ

thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng, nhiệm vụ:

Thực hiện giám định kỹ thuật hình sự về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện

tử theo quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật giám định tư pháp; Nghiên

cứu khoa học chuyên ngành kỹ thuật hình sự về âm thanh, hình ảnh từ các dữ

liệu điện tử; Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế chuyên ngành kỹ thuật

hình sự về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử theo quy định của pháp

luật. Tuy nhiên, Trong giám định kỹ thuật hình sự yêu cầu khách quan, độc lập

cần phải đặt lên hàng đầu. Do đó, nếu Phòng Giám định kỹ thuật hình sự trực

thuộc cơ quan điều tra của VKSND tối cao sẽ không bảo đảm được yêu cầu

này. Vì vậy, Viện trưởng VKSND tối cao quyết định thành lập Phòng Giám

định kỹ thuật hình sự thuộc Văn phòng VKSND tối cao. Việc giao cho CQĐT

của VKSND tối cao điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm

89

về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp đặt ra yêu cầu việc điều

tra những tội phạm này cần phải được thực hiện bởi một chủ thể độc lập, tách

biệt với các chủ thể điều tra khác. Việc điều tra độc lập thì thiết chế bổ trợ điều

tra cũng phải độc lập. Khi thiết chế bổ trợ độc lập thì hoạt động điều tra, đặc

biệt là việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ sẽ được thực hiện một cách

chủ động, khách quan, hạn chế được mặt tiêu cực do phải phụ thuộc vào chủ

thể khác.

3.3.4. Nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng Điều tra

viên, Cán bộ điều tra và công chức của Cơ quan điều tra VKSND tối cao

3.3.4.1. Giải pháp chung

Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp tính đặc

thù phức tạp, với thẩm quyền mới, đòi hỏi đội ngũ Điều tra viên của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao phải có sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn các quy định

của pháp luật ở nhiều lĩnh vực, có bản lĩnh chính trị, nghiệp vụ vững vàng, có

kinh nghiệm điều tra mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm này. Trong 5 năm trở lại đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng cho lực lượng

cán bộ điều tra, Điều tra viên của Cơ quan điều tra VKSND tối cao bước đầu

đã được quan tâm, tuy nhiên cũng chỉ ở chừng mực nhất định và còn phụ thuộc

vào các trường của Bộ Công an. Vì vậy chất lượng của đội ngũ Điều tra viên

chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tăng thêm. Để bảo đảm cho đội ngũ Điều tra

viên có năng lực, trình độ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới,

cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng

nghiệp vụ cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra gắn lý thuyết với thực hành, kỹ

năng điều tra, xác minh vụ án. Cụ thể:

- Xây dựng đội ngũ Điều tra trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động

công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, nâng cao tiêu chuẩn đạo đức, chính trị,

trình độ chuyên môn và kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Đồng thời

gắn với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho

90

đội ngũ công chức, viên chức trong ngành, đổi mới chính sách, chế độ đãi ngộ

cho Điều tra viên. Cần có chính sách đãi ngộ xứng đáng, giải quyết hợp lý lợi

ích cá nhân với tập thể để giữ cán bộ tốt, Điều tra viên tinh thông nghiệp vụ,

đảm bảo việc thực hiện chính sách và điều kiện vật chất cho hoạt động của Điều

tra viên.

- Mở rộng nguồn bổ nhiệm Điều tra viên và đổi mới công tác đánh giá,

quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm, khen thưởng và kỷ luật

Điều tra viên. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, thanh

tra, giám sát việc thực thi công vụ đối với đội ngũ Điều tra viên.

+ Nguồn cán bộ điều tra, Điều tra viên: cần đa dạng nguồn cán bộ để đáp

ứng với yêu cầu nhiệm vụ rất phức tạp, đòi hỏi có trình độ lý luận và thực tiễn

cao.

+ Số lượng cán bộ điều tra, Điều tra viên: với yêu cầu nhiệm vụ thực tế,

biên chế cán bộ, Điều tra viên của CQĐT cần phải được bổ sung, trong đó Điều

tra viên các cấp cần phải được chú trọng tăng cường để đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ trong tình hình mới.

- Vinh danh những Điều tra viên tiêu biểu, Điều tra viên giỏi để nhân

rộng, tạo sức lan tỏa, tạo động lực thi đua sôi nổi trong toàn ngành Kiểm sát.

Sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn đào tạo đối với Điều tra viên của ngành

Kiểm sát theo hướng thiết thực, tránh hình thức và phù hợp với thực tế.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ trong thời gian tới: để bảo đảm

cho đội ngũ Điều tra viên có năng lực, trình độ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm

vụ thì trong thời gian tới cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong công

tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra và học hỏi mô hình, kinh

nghiệm của nước ngoài. Mặt khác, cần đổi mới, tăng cường công tác đào tạo,

bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra trong Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm

sát của ngành Kiểm sát và mở rộng hợp tác liên kết đào tạo với Học Viện Cảnh

sát nhân dân Bộ Công an.

91

- Ngoài việc chuẩn hóa về đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính

trị, tư cách đạo đức và bản lĩnh chính trị, cần trang bị cho cán bộ, Điều tra viên

kiến thức hội nhập quốc tế và thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ công

tác điều tra:

+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tại Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ

kiểm sát, Học viện Cảnh sát nhân dân cho Điều tra viên, cán bộ điều tra của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao về các nội dung: Nghiệp vụ điều tra hình sự;

chiến lược, chiến thuật điều tra; kỹ năng điều tra tổng hợp; kỹ năng điều tra các

loại án cụ thể; các kiến thức bổ trợ cho nghiệp vụ điều tra...

+ Thường xuyên tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm về nghiệp vụ điều tra

cho Điều tra viên, cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao thông

qua các vụ án cụ thể đã thụ lý, khởi tố, điều tra.

+ Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về hoạt động điều tra của

VKSND thông qua việc xây dựng các đề tài khoa học, chuyên đề nghiệp vụ

nhằm nâng cao trình độ lý luận nhằm phục vụ tích cực hoạt động điều tra.

+ Tổ chức các Hội thảo khoa học nghiệp vụ về hoạt động điều tra của

VKSND, về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra VKSND tối cao với hoạt

động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát.

+ Tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm hoạt động điều tra của

CQĐT thuộc Viện kiểm sát, Viện Công tố các nước trên thế giới.

Trách nhiệm thực hiện: Vụ Tổ chức cán bộ VKSND tối cao, Cơ quan

điều tra VKSND tối cao.

3.3.4.2. Giải pháp cụ thể

Tập huấn nghiệp vụ điều tra cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra

- Nội dung tập huấn: Tiêu chí: Bảo đảm đúng quy định của pháp luật,

đồng thời gắn với thực tiễn hoạt động điều tra

- Hình thức tập huấn: Tiêu chí: Đa dạng, phong phú, có thể kết hợp trực

tiếp với trực tuyến.

92

- Phương pháp tập huấn: Tiêu chí: Kết hợp giữa các phương pháp như

giảng bài với đối thoại.

- Báo cáo viên: Tiêu chí: Bảo đảm nắm vững quy định của pháp luật, có

kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng tập huấn.

- Số lượng buổi tập huấn: Tiêu chí: Bảo đảm đáp ứng được nhu cầu của

Điều tra viên, Cán bộ điều tra, tiết kiệm, hiệu quả.

Trách nhiệm thực hiện

Cơ quan điều tra VKSND tối cao chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế và

Quản lý khoa học, Văn phòng, Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin

VKSND tối cao và các đơn vị có liên quan.

3.3.5. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và chế độ đãi ngộ đối

với Điều tra viên, Cán bộ điều tra và công chức

Cơ quan điều tra VKSND tối cao cùng với CQĐT Bộ Công an, CQĐTHS

Bộ Quốc phòng, được Luật Tổ chức CQĐTHS và Bộ luật TTHS năm 2015 điều

chỉnh. Có chức năng, nhiệm vụ giống nhau, nhưng kinh phí cấp cho hoạt động

điều tra của CQĐT Bộ Công an, Bộ Quốc phòng được Bộ Tài chính xếp vào

dạng kinh phí đặc thù và có quy định riêng về tiền lương, chế độ đãi ngộ đối

với lực lượng cán bộ, Điều tra viên, được cấp trang thiết bị, phương tiện chuyên

dụng, hiện đại phục vụ hoạt động điều tra. Còn kinh phí cấp cho hoạt động điều

tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao lại phân bổ theo kinh phí hành chính,

trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động điều tra vừa thiếu lại lạc hậu (bắt

đối tượng phạm tội nhưng lại không có công cụ hỗ trợ; không có trang thiết bị,

phương tiện chuyên dụng, hiện đại phục vụ trực ban hình sự hay áp dụng các

biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định của pháp luật…), trong khi đó

hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao mang tính chất đặc thù

và khó khăn, phức tạp hơn so với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Bộ

Công an, Bộ Quốc phòng, như: chỉ tổ chức ở Trung ương nhưng địa bàn hoạt

93

động rộng khắp trên cả nước, phải di chuyển xa, nhiều vụ, việc không thể ủy

thác điều tra được...

Để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ tăng thêm, Cơ quan điều tra VKSND tối

cao kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét tăng cường các điều kiện về kinh phí,

phương tiện, trang thiết bị nghiệp vụ cho hoạt động điều tra, theo hướng:

- Về kinh phí hoạt động điều tra: Bảo đảm kinh phí cho hoạt động kiểm

tra thông tin, xác minh nguồn tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự; xác

định kinh phí phục vụ hoạt động điều tra của CQĐT của VKSND tối cao mang

tính chất đặc thù như CQĐT chuyên trách khác (CQĐT trong Công an, CQĐT

trong Quân đội), vì vậy cần phải được chuyển từ kinh phí hành chính sang kinh

phí đặc thù phục vụ hoạt động kiểm tra thông tin; xác minh tố giác, tin báo về

tội phạm và điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền theo quy định (tiền án

phí); kinh phí thực hiện chế độ chi cho hoạt động cung cấp tin theo quy định

(tiền mật phí).

- Về phương tiện, trang thiết bị nghiệp vụ phục vụ hoạt động điều tra của

Cơ quan điều tra VKSND tối cao: Xác định phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật

nghiệp vụ đặc thù như CQĐT thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.

Đối với trang thiết bị ghi âm, ghi hình cơ động việc hỏi cung (đối với bị

can tại ngoại) và lấy lời khai bị hại, người làm chứng...(tiến hành ngoài trụ sở

CQĐT): Theo Đề án riêng về ghi âm, ghi hình có âm thanh của Bộ Công an

xây dựng. Đối với trang bị ô tô chuyên dùng: Hiện nay đã có phê duyệt của Bộ

tài chính, CQĐT được cấp 35 xe ô tô chuyên dùng.

Để xây dựng lực lượng Điều tra viên, Cán bộ điều tra có năng lực, đáp

ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao, căn cứ vào hoạt động đặc thù của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao: Thứ nhất tính chất công việc phức tạp, đòi hỏi

năng lực trình độ cao, hoạt động điều tra vừa có tính đặc thù của ngành Kiểm

sát vừa có tính đặc thù của các CQĐT khác; mặt khác trụ sở cơ quan độc lập

(không gắn liền với cấp huyện, cấp tỉnh như cơ quan tiến hành tố tụng khác).

94

Do vậy, cần có cơ chế đặc thù về lương, phụ cấp của Điều tra viên, Cán bộ điều

tra Cơ quan điều tra VKSND tối cao được áp dụng như lực lượng vũ trang; có

chế độ chính sách phù hợp cho đội ngũ cán bộ, Điều tra viên để thu hút được

người có năng lực; đồng thời, bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, Điều tra viên yên

tâm công tác, không vi phạm, tiêu cực, cần phải chú trọng quan tâm một số vấn

đề cơ bản như: Chế độ lương, phụ cấp của cán bộ, Điều tra viên cần được đảm

bảo phù hợp với hoạt động điều tra (phù hợp với các CQĐT khác thuộc Bộ

Công an, Bộ Quốc phòng). Cần có nhà công vụ cho đội ngũ Điều tra viên, cán

bộ. Các điều kiện bảo đảm khác, như: Chế độ công tác phí, ưu tiên phương tiện

giao thông... để hoàn thành nhiệm vụ.

3.3.6. Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát việc bảo đảm quyền

tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Thứ nhất, bản thân lãnh đạo luôn đi sâu, đi sát vào các hoạt động nghiệp

vụ, quan tâm, chỉ đạo, kiểm tra tiến trình giải quyết công việc của nhân viên

cấp dưới.

Thứ hai, bản thân người lãnh đạo, quản lý cần lựa chọn các các bộ, Điều

tra viên phù hợp để thực hiện việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị

- Tăng cường công tác tuyên truyền về chức năng nhiệm vụ, hoạt động

của CQĐT-VKSNDTC trên các kênh thông tin đại chúng, tạp chí và báo pháp

luật của nghành, giúp cho đông đảo quần chúng nhân dân hiểu rõ về vai trò, vị

trí, chức năng nhiệm vụ của CQĐT-VKSNDTC, qua đó chủ động cung cấp

thông tin vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền đến CQĐT-VKSNDTC được

kịp thời, giúp cho việc phát hiện, đấu tranh chống tội phạm trên lĩnh vực này

có hiệu quả;

- Tăng cường cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật… các hoạt

động ghi âm, ghi hình, nghe lén điện thoại... giúp cho công tác phát hiện, thu

thập và xử lý thông tin tội phạm có hiệu quả hơn. Phải xác định tính chất, hoạt

95

động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao có tính chất đặc thù như

hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và

những đặc thù riêng của Cơ quan điều tra VKSND tối cao;

- Thành lập Trung tâm xử lý, quản lý thông tin tội phạm theo hướng ứng

dụng triệt để công nghệ thông tin giúp cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

trong việc thu thập, theo dõi, phân loại, xử lý, quản lý thông tin được khoa học,

chính xác, có hệ thống, chủ động kịp thời và phục vụ thiết thực cho công tác

điều tra, xử lý tội phạm; đồng thời Trung tâm này giúp tăng cường việc chủ

động mở rộng trong phát hiện, thu thập các thông tin, nguồn tin về tội phạm

thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao. Qua đó giúp cho

đội ngũ cán bộ, công chức, điều tra viên làm công tác này có tính chuyên sâu

về nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay;

- Sơ kết, tổng kết tọa đàm trực tuyến hàng năm công tác thu thập, tiếp

nhận, quản lý và xử lý nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền. Qua đó, phát

hiện được những tồn tại, thiếu sót, hạn chế cần khắc phục trong công tác này;

đồng thời tổng kết được những phương pháp, biện pháp thu thập và xử lý thông

tin vi phạm về tội phạm. Thông qua công tác thực tiễn giải quyết để nâng cao

năng lực nghiệp vụ cũng như trình độ của đội ngũ cán bộ, điều tra viên trong

công tác này;

- Có cơ chế, hình thức khen thưởng về tinh thần và vật chất đối với những

cá nhân, đơn vị thực hiện tốt công tác phối hợp, phát hiện, thu thập tin báo về

tội phạm và đối tượng khác tạo sự khích lệ, động viên trong công tác này; Lấy

hiệu quả của công tác phối hợp, phát hiện, thu thập tin báo về tội phạm làm một

trong các tiêu chí đánh giá thi đua đối với cá nhân và đơn vị.

* Đối với quan hệ phối hợp giữa các Phòng nghiệp vụ thuộc Cơ quan

điều tra Viện KSND tối cao:

- Tăng cường tính chủ động của các phòng nghiệp vụ, của Điều tra viên

trực tiếp phát hiện, thu thập tin báo về tội phạm, trong đó mở rộng phát hiện,

96

thu thập những thông tin vi phạm, tội phạm mà đối tượng, người phạm tội thuộc

thẩm quyền mới của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; nhất là nhóm đối tượng

địa bàn cơ sở Công an xã, phường, thị trấn dễ liên quan đến vi phạm tội phạm

khi được tham gia vào khâu đầu của hoat động TTHS, trong tiếp nhận và xác

minh ban đầu nguồn tin tội phạm, chú trọng các địa bàn trọng điểm thường xảy

ra vi phạm, tội phạm; lưu ý các thông tin trên mạng xã hội, internet…để kịp

thời trong phát hiện vi phạm, tội phạm;

- Đổi mới phương pháp phát hiện, thu thập nguồn tin về tội phạm theo

hướng sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, xây dựng mạng lưới cộng tác viên, cơ

sở bí mật tại các ngành, lĩnh vực xảy ra nhiều vi phạm tội phạm giúp cho công

tác phát hiện vi phạm, tội phạm và đấu tranh xử lý tội phạm được chủ động, kịp

thời, nhanh chóng, có hiệu quả. Đây là một yêu cầu tất yếu đối với các Cơ quan

điều tra nói chung và đối với Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao nói riêng. Cơ

quan điều tra cần nghiên cứu theo hướng giao chỉ tiêu nhiệm vụ trong xây dựng

mạng lưới cộng tác viên, cơ sở bí mật cho các phòng nghiệp vụ và điều tra viên

để giúp công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt được hiệu quả cao.

* Đối với công tác phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao

với Viện kiểm sát các cấp và các cơ quan, tổ chức cá nhân khác:

- Phải xác định rõ ràng trách nhiệm của các đơn vị thuộc Viện kiếm sát

nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Theo đó, phải có cơ chế

rõ ràng xác định rõ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các đơn vị

thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có trách

nhiệm tiếp nhận, phát hiện nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao; trường hợp xác định nguồn tin về tội phạm thuộc

thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao thì chuyển ngay các tài

liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao để giải quyết theo

quy định của pháp luật. Yêu cầu VKS các cấp, đặc biệt là Viện KSND cấp

huyện chú trọng trong việc quản lý tình hình vi phạm, tội phạm xảy ra ở một

97

số chủ thể là đối tượng thuộc thẩm quyền mới của Cơ quan điều tra Viện KSND

tối cao như: Công an xã, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, các cơ

quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra hoặc do người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khác.

- Phối hợp với Viện KSND địa phương trong kiểm tra thông tin vi phạm,

tội phạm đối với những thông tin nội dung phản ánh giáp ranh giữa dấu hiệu vi

phạm, tội phạm nhưng chưa rõ, chưa có căn cứ để phân loại xử lý được cần

phải kiểm tra; những thông tin mà qua đánh giá Cơ quan điều tra có trực tiếp

thực hiện việc kiểm tra cũng khó có cơ sở để kết luận xử lý được vụ việc nhưng

vẫn cần phải qua kiểm tra để phân loại xử lý; việc phối hợp với địa phương

trong kiểm tra giúp cho việc thu thập thông tin tài liệu ban đầu để có cơ sở đánh

giá phân loại xử lý thông tin được chính xác, giảm tải được công việc và nhân

lực, kinh phí trong hoạt động kiểm tra phân loại xử lý thông tin vụ việc. Qua

đó, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa địa phương và Cơ quan điều tra Viện

KSND tối cao; nâng cao được trách nhiệm và tạo được vị thế cho VKSND các

địa phương với các cơ quan tư pháp liên quan trong thực hiện các hoạt động

nghiệp vụ.

- Phối hợp với các cơ quan tư pháp và với các cơ quan khác trong phòng

ngừa xử lý vi phạm, tội phạm; các cơ quan truyền thông báo chí trong tuyên

truyền về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và hoạt động của Cơ quan điều tra

Viện KSND tối cao. Qua đó, giúp cho công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm

trong lĩnh vực này được tốt hơn; giúp cho cán bộ, công chức trong các cơ quan

tư pháp và nhân dân có nhận thức đúng hơn, đầy đủ hơn về thẩm quyền, chức

năng, nhiệm vụ vai trò và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao

trong xử lý vi phạm, tội phạm lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp. Qua đó,

sẽ có những phát hiện phản ánh, tố giác tội phạm trong lĩnh vực này đến Cơ

quan điều tra Viện KSND tối cao hiệu quả hơn.

98

3.3.7.2. Giải pháp riêng đối với Phòng tiếp nhận, phân loại, xử lý và

quản lý thông tin về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện

KSND tối cao (Phòng 1).

Xây dựng “Giải pháp nâng cao chất lượng thu thập, tiếp nhận, quản lý

và xử lý nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền, đặc biệt là tội phạm tham

nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp” thuộc thẩm quyền của Cơ quan

điều tra Viện KSND tối cao, đảm bảo cho công tác phát hiện, thu thập, phân

loại, xử lý, quản lý thông tin vi phạm tội phạm được nhanh chóng, chính xác,

kịp thời, có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình

hiện nay, Cụ thể:

- Thứ nhất: Thực hiện nhiệm vụ công tác phân loại xử lý nhanh, sơ bộ

thông tin đầu vào:

+ Thông tin đến phòng 1 được thực hiện phân loại xử lý nhanh sơ bộ đầu

vào, qua đó xác định ngay những thông tin, đơn thư tố cáo có sự phản ảnh khá

rõ về dấu hiệu tội phạm, những thông tin, đơn thư tố cáo có tính chất nhạy cảm,

bức xúc nổi cộm được dư luận xã hội quan tâm, và những thông tin đơn thư tố

cáo được các cấp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Lãnh đạo Viện KSND

tối cao chuyển đến cũng như những thông tin, đơn thư được Lãnh đạo Cơ quan

điều tra quan tâm, chỉ đạo phải được thực hiện phân loại, xử lý ngay trong thời

gian 03 ngày làm việc từ khi tiếp nhận thông tin; các thông tin đơn thư khác

phải được tập chung, phân loại, xử lý xong trong thời gian không quá 15 ngày

làm việc.

+ Sắp xếp lại tổ chức, phân công lại nhiệm vụ cho cán bộ công chức,

điều tra viên trong phòng làm nhiệm vụ công tác tiếp nhận phân loại, xử lý,

quản lý thông tin tội phạm trong phòng cho phù hợp với năng lực, yêu cầu của

nhiệm vụ công tác; theo hướng Lãnh đạo Phòng (Đ/c Trưởng phòng chịu trách

nhiệm trong công tác phân loại nhanh sơ bộ thông tin đầu vào trước khi chuyển

đến các tổ chuyên môn nghiệp vụ thực hiện) để đảm bảo được yêu cầu các

99

thông tin quan trọng nêu trên được kịp thời nhanh chóng phân loại, xử lý trong

thời hạn 03 ngày.

- Thứ hai: Thực hiện nhiệm vụ công tác theo dõi phân loại, xử lý và quản

lý thông tin của Cơ quan điều tra:

+ Thông tin sau khi được Lãnh đạo phòng thực hiện phân loại nhanh, sơ

bộ đầu vào được chuyển lại bộ phận tiếp nhận, theo dõi phân loại, xử lý và quản

lý thông tin tội phạm ( Bộ phận tổng hợp phòng 1) để thực hiện việc sớt kiểm

tra thông tin, đơn trùng để phân loại xác định ra những thông tin, đơn đã được

phân loại xử lý theo nguyên tắc những thông tin quan trọng ( đã được phân loại

sơ bộ đầu vào) phải được thực hiện ngay và chuyển trước đến bộ phận xử lý

tiếp theo; việc xử lý tiếp theo được thực hiện như sau:

+ Các thông tin quan trọng (đã được phân loại sơ bộ đầu vào) cần phải

được xử lý ngay trong 3 ngày; và những thông tin tiếp nhận mới được chuyển

đến bộ phận theo dõi phân loại, xử lý thông tin đầu vào của cơ quan điều tra

(bộ phận tổng hợp) để vào sổ và vào máy tính theo dõi quản lý xử lý thông tin

chung; sau đó chuyển thông tin cho Điều tra viên phụ trách địa bàn để thực hiện

việc phân loại, đề xuất xử lý theo quy định, theo nguyên tắc Các thông tin quan

trọng (đã được phân loại sơ bộ đầu vào) phải được vào sổ, vào máy theo dõi

ngay và chuyển trước cho Điều tra viên thực hiện phân loại kịp thời xử lý;

Trường hợp Điều tra viên địa bàn phân loại do đi công tác không thể thực hiện

được việc phân loại xử lý ngay các thông tin trên thì việc phân loại đề xuất xử

lý ngay đối với các thông tin quan trọng trên được giao cho Điều tra viên tổ

tổng hợp làm công tác theo dõi phân loại xử lý thông tin của phòng 1 trực tiếp

thực hiện.

+ Đối với những thông tin, đơn sau khi kiểm tra, sớt trên máy xác định

là thông tin, đơn đã được xử lý (đơn trùng) hoặc đang do các phòng nghiệp vụ

đang thực hiện kiểm tra, xác minh ngồn tin, hoặc đang trong các vụ án cũng

100

như các đơn khiếu nại liên quan đến quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao thì thực hiện như sau:

Bộ phận tổng hợp kiểm tra sớt đơn trùng vào sổ, vào máy theo dõi đơn

trùng, sổ theo dõi chuyển thông tin đến các phòng nghiệp và chuyển thông tin

trên cho các điều tra viên địa bàn để phân loại xử lý theo quy định.

- Thứ ba: Thực hiện nhiệm vụ công tác phân loại, đề xuất xử lý thông

tin, kiểm tra thông tin vi phạm, tội phạm.

Điều tra viên được phân công nhiệm vụ địa bàn làm công tác phân loại;

sau khi tiếp nhận thông tin, đơn từ bộ phận tổng hợp của phòng 1 chuyển đến,

phải đọc và nghiên cứu kỹ nội dung phản ánh của thông tin, đơn trên cơ sở đó

đánh giá và đề xuất phân loại xử lý thông tin cho chính xác và phù hợp(các

thông tin, đơn quan trọng phải được nghiên cứu đề xuất xử lý trước) theo hướng

như sau:

+ Thông tin trùng không có nội dung gì mới thì đề xuất lãnh đạo Phòng,

lập danh sách trích ngang chuyển Vụ 12 xử lý; những thông tin, đơn tuy xác

định là trùng nhưng có nội dung phản ánh tố cáo mới liên quan đến vi phạm tội

phạm thuộc thẩm quyền thì thông báo lại bộ phận theo dõi phân loại xử lý thông

tin để vào sổ theo dõi quản lý thông tin mới và thực hiện việc đề xuất xử lý mới

thông tin trên theo quy định.

+ Thông tin không thuộc thẩm quyền, thông tin xác định không có dấu

hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì đề xuất chuyển đến Vụ 12 để xử lý theo

quy định; thông tin do các phòng nghiệp vụ đang kiểm tra, xác minh tố giác

hoặc trong các vụ án do các phòng thụ lý thì chuyển đến phòng khu vực đó để

xử lý; Thông tin liên quan đến khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao thì chuyển cho phòng 2 xử lý.

+ Thông tin có dấu hiệu vi phạm, xâm phạm hoạt động tư pháp thì đề

xuất Lãnh đạo phòng, Lãnh đạo Cơ quan Điều tra chuyển các phòng nghiệp vụ

thực hiện xác minh ngồn tin tội phạm

101

+ Thông tin chưa rõ dấu hiệu vi phạm, xâm phạm hoạt động tư pháp cần

kiểm tra để có cơ sở căn cứ phân loại xử lý thì đề xuất Lãnh đạo phòng, Lãnh

đạo cơ quan điều tra cho thực hiện việc kiểm tra thông tin trước khi đề xuất

phân loại xử lý thông tin trên theo hướng đề xuất: Phòng 1 trực tiếp kiểm tra

hoặc chuyển các Phòng nghiệp vụ khác kiểm tra hoặc Phối hợp với địa phương

để kiểm tra thông tin.

Thông tin do các Phòng nghiệp vụ và địa phương phối hợp kiểm tra;

Phòng 1 thực hiện việc kiểm tra theo dõi, đôn đốc để đảm bảo về thời gian việc

phân loại, xử lý thông tin ( Bộ phận tổng hợp của phòng thực hiện việc theo dõi

và kiểm tra đôn đốc; nếu việc phân loại được phân công theo địa bàn thì do các

Điều tra viên quản lý địa bàn đó thực hiện); thông tin kiểm tra sau khi đã chuyển

cho các phòng nghiệp vụ và các địa phương phối hợp kiểm tra, sau 20 ngày các

đơn vị chưa kết thúc thì thực hiện việc đôn đốc dưới hình thức điện thoại nhắc

việc 2-3 lần, quá thời hạn kiểm tra thông tin thì có thông báo bằng văn bản để

nhắc đối với các đơn vị trên.

Sau khi điều tra viên địa bàn thực hiện xong việc phân loại xử lý thông

tin và được Lãnh đạo Cơ quan điều tra phê duyệt nhất trí thì thông tin được

chuyển lại bộ phận tổng hợp phòng 1 (theo dõi xử lý phân loại thông tin) để

thực hiện vào sổ theo dõi xử lý, quản lý thông tin của Cơ quan điều tra trước

khi chuyển cho các phòng nghiệp vụ, các đơn vị của ngành xử lý thông tin trên

theo quy định.

- Việc phân loại xử lý thông tin sau khi có kết quả kiểm tra của các phòng

nghiệp vụ và kết quả phối hợp với địa phương trong kiểm tra thông tin:

+ Các thông tin qua kiểm tra có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì

ĐTV đề xuất lãnh đạo phòng, Lãnh đạo Cơ quan điều tra chuyển xác minh nguồn

tin về tội phạm theo quy định (thông tin kiểm tra do các phòng nghiệp vụ thực

hiện thì việc đề xuất, báo cáo lãnh đạo do phòng đó thực hiện đề xuất và gửi kết

thúc kiểm tra xử lý đối với thông tin về Phòng 1 để theo dõi kết thúc việc phân

102

loại, xử lý thông tin trên; thông tin do các địa phương phối hợp kiểm tra do Phòng

1 sẽ trực tiếp đề xuất xử lý, báo cáo trình Lãnh đạo phê duyệt).

+ Thông tin qua kiểm tra xác định không thuộc thẩm quyền, không có

dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo đề xuất Lãnh đạo cho chuyển

thông tin đến Vụ 12 để xử lý theo quy định của pháp luật ( các Phòng nghiệp

vụ kiểm tra thông tin trực tiếp làm Báo cáo đề xuất Lãnh đạo duyệt và làm văn

bản chuyển Vụ 12; và thông báo kết quả xử lý thông tin trên cho Phòng 1 để

thực hiện việc theo dõi, xử lý phân loại và quản lý thông tin). Về yêu cầu đối

với tất cả các hồ sơ kiểm tra thông tin, sau khi kết thúc chuyển đến Vụ 12 hoặc

trường hợp chuyển đến địa phương thì điều tra viên đều phải sao phô tô lưu hồ

sơ kiểm tra thông tin trên để phục vụ cho công tác kiểm tra và trả lời công dân

sau này; Phòng khu vực nào kiểm tra thì Phòng đó có trách nhiệm quản lý và

lưu trữ hồ sơ kiểm tra thông tin này theo quy đinh của đơn vị về chế độ lưu hồ

sơ nghiệp vụ; thông tin do Phòng 1 kiểm tra do Phòng 1 quản lý và lưu trữ.

- Thứ tư: Việc thực hiện chế độ báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu trong

công tác phân loại, xử lý thông tin tội phạm khi có yêu cầu:

+ Phòng 1 là tập trung đầu mối công tác phân loại, xử lý và quản lý thông

tin tội phạm của Cơ quan điều tra, chịu trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo

thông tin theo định kỳ quy định tuần, tháng, quý , năm về Phòng 2 và Vụ 6

VKSND tối cao theo quy chế phối hợp và kiểm sát trong hoạt động phân loại,

xư lý thông tin vi phạm tội phạm ( Bộ phận tổng hợp của Phòng 1 chịu trách

nhiệm báo cáo).

+ Việc báo cáo và cung cấp tài liệu xử lý thông tin tội phạm khi có yêu

cầu của Cơ quan điều tra trong công tác nghiệp vụ hoặc cung cấp tài liệu khi

có yêu cầu của Lãnh đạo Cơ quan điều tra và Lãnh đạo VKSND tối cao do

Phòng 1 chịu trách nhiệm thực hiện (Bộ phận tổng hợp Phòng 1 tra cứu lại kết

quả phân loại, xử lý thông tin để cung cấp các tài liệu khi có yêu cầu; Khi cung

cấp thông tin, chú ý cung cấp đầy đủ nội dung kết quả xử lý thông tin và họ tên,

103

đơn vị của điều tra viên được phân công chịu trách nhiệm phân loại, xử lý thông

tin trên);

Yêu cầu việc cung cấp thông tin của điều tra viên các Phòng nghiệp vụ,

phải có Phiếu yêu cầu nêu rõ về nội dung, mục đích cần cung cấp thông tin tài

liệu trên và chuyển đến Phòng 1, Lãnh đạo Phòng 1 phê duyệt chuyển Bộ phận

tổng hợp để kiểm tra, cung cấp tài liệu theo yêu cầu.

Đối với bộ phận trực ban hình sự, khi công dân có yêu cầu, đề nghị liên

quan đến việc xử lý thông tin, đơn; Yêu cầu điều tra viên làm nhiệm vụ trực

ban tiếp nhận ý kiến của công dân và hẹn thời gian để cung cấp, trả lời cho

công dân. Sau khi kết thúc việc trực ban hình sự thì có phiếu yêu cầu về phòng

1 cung cấp tài liệu liên quan đến xử lý thông tin, Lãnh đạo Phòng 1 phê duyệt

chuyển Bộ phận tổng hợp để kiểm tra, cung cấp tài liệu xử lý thông tin trên

chuyển lại trực ban để thông báo cho công dân biết kết quả việc xử lý đối với

thông tin trên.

104

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân của những tồn

tại, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp của công dân; tại Chương 3 của luận tác giả tập trung phân tích

những quan điểm và đề xuất một số các giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng

cao chất lượng trong công tác tiếp nhận, xác minh, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao như: hoàn

thiện pháp luật; nâng cao chất lượng của hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo điều hành;

về bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ

Điều tra viên, Cán bộ điều tra; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm

việc. Những giải pháp trên cần được triển khai và thực hiện đồng bộ, thống nhất

để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp nhận, bảo đảm quyền

tố giác, báo tin về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của công dân tin báo

trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

105

PHẦN KẾT LUẬN

Trong những năm qua, song song với sự phát triển nhanh chóng của xã

hội thì tình hình vi phạm, tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp gia tăng cả về

số lượng cũng như tính chất, mức độ, hậu quả ngày càng nghiêm trọng của các

loại tội phạm nói chung và các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng.

Tuy nhiên, việc phát hiện, xác minh, điều tra, xử lý tội phạm nhất là tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp lại gặp rất nhiều khó khăn; nguyên nhân một phần

do điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị và lực lượng của các cơ

quan điều tra còn nhiều khó khăn; chủ thể tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp là những người có kiến thức chuyên môn cao nên việc che giấu hành vi

vi phạm rất tinh vi, khó phát hiện; mặt khác phần nhiều người dân trình độ còn

hạn chế, nhiều trường hợp tâm lý tránh va chạm nên không tố giác tội phạm và

không hợp tác, làm việc với các cơ quan có thẩm quyền,…Do đó, để nâng cao

chất lượng, hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung

và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng thì cần phải có các đề tài

nghiên cứu, phân tích cụ thể để đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm bảo đảm

quyền tố giác về tội phạm của công dân.

Thông quan việc nghiên cứu đề tài “Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân tối cao”, tác giả đã nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định của

pháp luật. Qua đó luận văn đã làm rõ được khái niệm về tin báo, tố giác về tội

phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền

của Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong việc tiếp nhận, xác minh, giải quyết

tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp do công dân chuyển đến.

Trên cơ sở lý luận, tác giả nghiên cứu thực tiễn công tác bảo đảm quyền

tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND

tối cao trong giai đoạn 2015-2019. Luận văn đã nêu lên được kết quả trong

106

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ

quan điều tra VKSND tối cao. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích làm rõ những

tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền tố giác; chỉ ra được các nguyên nhân

chủ quan, khách quan; để từ đó đề ra các biện pháp, giải pháp thiết thực nâng

cao hiệu quả trong công tác bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp của công dân; Đó là nhóm giải pháp chung, nhóm giải pháp cụ

thể phải tuân thủ nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền con người, quyền

công dân để mọi hành vi phạm tội phải bị xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật; góp phần hiệu quả cho việc nghiên cứu để nâng cao công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao.

Những kết quả đã đạt được trong luận văn cho thấy có sự nỗ lực, cố gắng

của bản thân tác giả; sự giúp đỡ nghiêm túc và tinh thần đầy trách nhiệm của

các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học, các đồng nghiệp trong Cơ quan điều

tra VKSND tối cao và đặc biệt là sự giúp đỡ thầy giáo hướng dẫn luận văn này.

Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu và khả năng của bản thân tác giả; nên luận

văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả mong nhận

được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học và các đồng nghiệp để luận văn

được hoàn thiện hơn.

107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Các văn bản pháp luật

1. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.

2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

3. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

4. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các năm 1960, 1981, 2002, 2015.

5. Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

6. Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1962.

7. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989.

8. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 về việc thi hành Bộ luật

hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật thi

hành tạm giữ, tạm giam.

9. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

10. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020.

11. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020.

12. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các Tòa án và các

ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

13. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về thẩm quyền của Tòa án và sự

phân công giữa các nhân viên.

14. Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946 về tổ chức Tư pháp Công an.

15. Nghị định số 256/TTg ngày 01/07/1959 của Thủ tướng Chính phủ quy

định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố.

108

B. Các tài liệu tham khảo khác

16. Ngô Thị Quỳnh Anh (2008), “So sánh vị trí, chức năng, nhiệm vụ và tổ

chức bộ máy của Viện kiểm sát Việt Nam với cơ quan Công tố của các nước

theo truyền thống pháp luật án lệ (Anh, Hoa Kỳ)”, Hội thảo quốc tế: Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), tháng 12/2008, Hà Nội.

17. Phạm Thanh Bình (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015, Nxb Công an nhân dân.

18. Hoàng Thị Quỳnh Chi (2013), “Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự

Trung Quốc”, Thông tin khoa học kiểm sát.

19. Nguyễn Ngọc Chí (2013), “Tổ chức và hoạt động điều tra vụ án hình

sự của Viện kiểm sát/ Viện công tố ở một số nước trên thế giới – những kinh

nghiệm rút ra đối với việc đổi mới Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân”,

Hội thảo khoa học: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) – về chế định

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, tháng 9/2013, Hà Nội.

20. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự

Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Báo cáo tổng kết công tác các năm

2015, 2016, 2017, 2018, 2019.

22. Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Khổng Hà, Trần Minh Hưởng (2000), Tìm

hiểu Luật tố tụng hình sự, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

23. Minh Đạo (2014), “Về hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân”,

Hà Nội.

24. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Đỗ Văn Đương (2006), “Viện công tố Cộng hòa Pháp”, Thông tin khoa

học kiểm sát.

26. Đỗ Văn Đương (2013), “Quyền điều tra của Viện kiểm sát và sự cần

thiết phải giao trách nhiệm điều tra tội phạm về chức vụ, tham nhũng cho Cơ

109

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, Hội thảo khoa học: Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) – về chế định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân, tháng 9/2013, Hà Nội.

27. Đỗ Văn Đương (2014), “Sự cần thiết và định hướng sửa đổi tổ chức và

hoạt động điều tra của cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân”, Khoa

học kiểm sát.

28. Trần Ngọc Đường (2013), “Đổi mới Cơ quan điều tra của Viện kiểm

sát trong cải cách tư pháp đang tiến hành ở nước ta”, Hội thảo khoa học: Luật

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) – về chế định Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân, tháng 9/2013, Hà Nội.

29. Nguyễn Xuân Hà (2008), “Điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới”, Thông tin khoa học kiểm

sát.

30. Mai Thanh Hiếu (2013), “Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Pháp”,

Thông tin khoa học kiểm sát.

31. Lê Thị Huyền (2015), Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

32. Vũ Đăng Khoa (2017), “Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối

cao 55 năm xây dựng và trưởng thành”, Kiểm sát (08), tr. 9-19.

33. Nguyễn Hải Phong (chủ biên) (2014), Một số vấn đề về tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Hải Phong (2017), “Đổi mới tổ chức, hoạt động của Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình

hình mới”, Kiểm sát (08), tr. 2-8.

35. Lại Viết Quang (2013), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Kiểm sát

(11), tr.18-22.

110

36. Nguyễn Ngọc Quang (2013), “Những yêu cầu đặt ra đối với Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong đấu tranh phòng, chống tham

nhũng và tiêu cực trong hoạt động tư pháp”, Hội thảo khoa học: Thực trạng,

giải pháp phòng, chống tham nhũng và tiêu cực trong hoạt động tư pháp của

ngành Kiểm sát nhân dân, tháng 9/2013, Hà Nội.

37. Nguyễn Thị Thu Quỳ (2013), “Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự

Cộng hòa liên bang Đức”, Thông tin khoa học kiểm sát (5+6), tr. 76-82.

38. Nguyễn Tiến Sơn (2012), “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng

kết thực tiễn hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Kiểm sát (11), tr. 21.

39. Nguyễn Tiến Sơn (2013), “Quá trình hình thành và phát triển của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Một số bài học kinh nghiệm”,

Hội thảo khoa học: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) – về chế định

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, tháng 9/2013, Hà Nội.

40. Nguyễn Tiến Sơn (2017), “Những yêu cầu đặt ra khi Cơ quan điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện các luật mới về tư pháp hình sự”,

Kiểm sát (23), tr. 8-16.

41. Nguyễn Toàn Thắng, Nguyễn Tuấn Anh (2017), Nâng cao hiệu quả

công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm thuộc thẩm quyền Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, Kiểm sát,

(08), tr. 44-49. 22

42. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 40

43. Nông Xuân Trường (2007), Quy định về khởi tố, điều tra và truy tố theo

luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Thông tin khoa học

kiểm sát, (3+4), tr. 32-42. 41

44. Hoàng Anh Tuyên (2013), Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Hoa

Kỳ, Thông tin khoa học kiểm sát, (5+6), tr. 134.

111

45. Viện Khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Một

số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ,

Hà Nội.

46. Viện Khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Bộ

luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà

Nội.

47. Viện Khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Bộ

luật tố tụng hình sự Nhật Bản, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.

48. Viện Khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Bộ

luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo),

Hà Nội.

49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Chỉ thị số 01/2000/CT-

VKSNDTC của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác điều

tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày

06/12/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, Hà Nội.

51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày

20/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác điều

tra của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2018, Hà Nội.

52. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015) - Tình hình tội phạm năm 2015,

Hà Nội.

53. Nguyễn Tất Viễn (1996), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong

luật hình sự Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Luật học.

54. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

112

55. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003, Nxb Chình trị quốc gia, Hà Nội.

56. Đề án Tăng cường năng lực Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

tối cao năm 2019, Hà Nội, tr. 21 - 71.

57. Trần Long Hân (2017), “Vai trò của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân tối cao trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, luận

văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia, tr. 9 - 70.