
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 238 -
BẢO HỘ THƯƠNG HIỆU NÔNG SẢN VIỆT NAM TẠI THỊ
TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI
ThS. Đỗ Thị Mai Hoàng Hà
Khoa Thuế-Hải Quan - Trường Đại học Tài chính – Marketing
Đặt vấn đề
Bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với
nông sản – sản phẩm chủ lực của Việt Nam. Bởi lẽ doanh nghiệp muốn xác lập
được thị trường ở nước ngoài thì phải có chiến lược tiếp cận và có kế hoạch về
nhãn hiệu độc quyền tại thị trường đó. Tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp
chưa ý thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài mà chỉ
chú trọng đến tiếp thị, bán hàng. “Khả năng tài chính hạn chế, quy mô doanh
nghiệp vừa và nhỏ, không có nhiều kinh nghiệm ở sân chơi quốc tế là những hạn
chế lớn của doanh nghiệp Việt trong khai thác cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ tại
nước ngoài”.
Từ khóa: bảo vệ thương hiệu, nông sản./.
1 Tầm quan trọng của việc bảo hộ thương hiệu
1.1 Thương hiệu
Thương hiệu có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng về căn bản nó
mang tính phân biệt hoặc chỉ dẫn đến một nguồn gốc thương mại của hàng
hóa/dịch vụ, thể hiện niềm tin của người tiêu dùng đối với một sản phẩm cụ thể
và thậm chí trong một số trường hợp nó còn liên hệ tới hình ảnh của một quốc
gia. Dưới góc độ pháp lý, một thương hiệu có thể được bảo hộ dưới nhiều dạng
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ khác nhau, ví dụ như Nhãn hiệu, Tên thương mại,
Chỉ dẫn địa lý, …
Các đối tượng xấu lợi dụng 2 nguyên tắc dưới đây để xác lập quyền sở hữu
cho mình nhằm chiếm đoạt thương hiệu của Việt Nam, cụ thể:
(i) Nguyên tắc giới hạn quyền độc quyền theo lãnh thổ. Vì đặc trưng của
quyền sở hữu công nghiệp (chẳng hạn như quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, …) là bị giới hạn theo nguyên tắc lãnh thổ, nghĩa là

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 239 -
đăng ký ở đâu thì chỉ được hưởng quyền độc quyền ở lãnh thổ đó mà không mặc
nhiên phát sinh hiệu lực ở nước khác
(ii) Nguyên tắc ai nộp đơn đăng ký trước thì được cấp trước. Hầu hết luật
nhãn hiệu các nước trên thế giới đều quy định chỉ có đơn đăng ký nhãn hiệu nào
được nộp sớm nhất trong số các đơn đăng ký nhãn hiệu đó thì mới được cấp đăng
ký bảo hộ.
1.2 Bảo hộ thương hiệu
Theo luật pháp quốc tế và quốc gia hiện hành về căn bản hiện nay chỉ có 2
phương thức đăng ký bảo hộ ở nước ngoài:
(i) "Đăng ký quốc tế" nghĩa là nộp 1 đơn để được bảo hộ ở nhiều nước
cùng một lúc. Đăng ký quốc tế nêu trên có nghĩa là thực hiện việc bảo hộ thương
hiệu ở phạm vi toàn cầu theo Hệ thống Madrid (gồm Thoả ước Madrid và Nghị
định thư Madrid). Hệ thống Madrid mang tính chất là một thoả thuận đa phương
giữa các quốc gia theo đó cho phép chủ nhãn hiệu có thể nộp 1 đơn đăng ký duy
nhất để có cơ hội được bảo hộ đồng thời ở trên 90 quốc gia/vùng.
(ii) “Đăng ký quốc gia" nghĩa là mỗi quốc gia phải nộp 1 đơn độc lập.
1.3 Các công ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã
tham gia
Đến nay, Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ước quốc tế về SHTT và ký
kết nhiều Hiệp ước với các quốc gia khác
59
. Trong số các điều ước quốc tế, 3 Điều
ước đa phương có các quy định liên quan trực tiếp đến các vấn đề về nhãn hiệu
mà các doanh nghiệp có thể thường phải xem xét tuân thủ và vận dụng trong kinh
doanh là: Công ước Paris, Thỏa ước và Nghị định thư Madrid và Hiệp định
TRIPS.
59
Việt Nam cũng tham gia vào các Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa (TLT); Hiệp định Lisbon về Bảo
hộ tên gọi xuất xứ và Đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ, Thỏa ước Vienna về phân loại quốc tế các yếu tố
hình của nhãn hiệu, Thỏa ước Locarno về phân loại quốc tế cho kiểu dáng công nghiệp, Hiệp định khung
ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ…
Các Hiệp định song phương mà Việt Nam ký kết về sở hữu trí tuệ: Hiệp định song phương Việt – M
(BTA); Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và M (phần sở hữu trí tuệ; Hiệp định
Việt Nam – Thụy S về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; Hiệp định đối tác
kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (phần sở hữu trí tuệ) …

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 240 -
1.3.1 Công ước Paris
Công ước Paris quy định rằng đối với việc bảo hộ sở hữu công nghiệp, mỗi
nước thành viên phải dành cho công dân của các nước thành viên khác sự bảo hộ
tương tự như sự bảo hộ dành cho công dân của mình. Chế độ đối xử quốc gia
tương đương cũng phải được dành cho công dân của những nước không phải là
thành viên của Công ước Paris nếu họ cư trú tại một nước thành viên hoặc nếu họ
có cơ sở kinh doanh tại một nước thành viên. Công ước cũng đặt ra những ngoại
lệ nhất định. Các quy định của luật pháp quốc gia liên quan đến thủ tục xét xử và
thủ tục hành chính, thẩm quyền xét xử, việc lựa chọn địa chỉ giao dịch hoặc chỉ
định đại diện được bảo lưu.
Công ước Paris quy định quyền ưu tiên đối với sáng chế, mẫu hữu ích,
nhãn hiệu (nhãn hiệu tập thể) và kiểu dáng công nghiệp. Cụ thể là trên cơ sở một
đơn hợp lệ đầu tiên đã được nộp tại một trong số các nước thành viên, trong một
thời hạn nhất định (12 tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng đối với
nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp) người nộp đơn có thể nộp đơn yêu cầu bảo
hộ tại bất cứ nước thành viên nào khác và các đơn nộp sau sẽ được coi như đã
được nộp vào cùng ngày với ngày nộp đơn đầu tiên. Một trong những lợi ích thiết
thực nhất của quy định này là khi người nộp đơn muốn đạt được sự bảo hộ ở một
số nước, họ không buộc phải nộp đồng thời tất cả các đơn tại nước xuất xứ và các
nước khác mà có đến 6 hoặc 12 tháng để quyết định xem nên nộp đơn yêu cầu
bảo hộ ở những nước nào và tiến hành thủ tục nộp đơn ở các nước được chọn lựa.
Công ước Paris không quy định các điều kiện nộp đơn và đăng ký nhãn
hiệu mà dành việc này cho luật quốc gia của các nước thành viên. Một khi nhãn
hiệu được đăng ký tại một nước thành viên, đăng ký đó sẽ độc lập với đăng ký có
thể có tại bất cứ nước thành viên nào khác, kể cả nước xuất xứ. Do đó, nếu đăng
ký nhãn hiệu bị mất hiệu lực tại một nước thành viên thì cũng sẽ không ảnh hưởng
đến hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu đó tại các nước thành viên khác.
1.3.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPS)
Đây là hiệp định duy nhất đầu tiên thực sự mang tính quốc tế đã đưa ra các
chuẩn mực tối thiểu về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. TRIPS đặt nền tảng cho một
hạ tầng cơ sở vững chắc và hiện đại trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ cho cộng
đồng quốc tế.

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 241 -
Đối tượng bảo hộ của Công ước bao gồm sáng chế, giải pháp hữu ích (mẫu
hữu ích), kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên
thương mại, chỉ dẫn nguồn góc hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, quyền chống cạnh
tranh lành mạnh. Công dân của bất kì nước thành viên nào khác nào cũng được
hưởng mọi quyền lợi tại tất cả các nước thành viên khác mà luật tương ứng của
các nước đó quy định hoặc sẽ quy định cho công dân nước mình.
1.3.3 Thỏa ước Madrid
Theo Thỏa ước này, công dân cũa nước thành viên Thỏa ước có thể đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu của mình tại nhiều nước thành viên bằng cách nộp một đơn
duy nhất cho Văn phòng quốc tế của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Tuy
nhiên, doanh nghiệp cần đáp ứng điều kiện là đã được cấp Giấy đăng ký nhãn
hiệu tại nước sở tại. Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký nhãn hiệu (còn
gọi là nước được chỉ định). Nước được chỉ định phải xem xét để đưa ra quyết
định chấp nhận hay từ chối cấp Giấy đăng ký nhãn hiệu trong thời hạn 1 năm.
Nếu sau 1 năm mà nước được chỉ định không có ý kiến thì mặc nhiên xem như
nước đó đồng ý bảo hộ nhãn hiệu.
Thủ tục xét đơn đăng ký theo Thỏa ước Madrid được tiến hành độc lập tại
mỗi nước thành viên. Việc từ chối bảo hộ của một nước thành viên không làm
ảnh hưởng đến hiệu lực bảo hộ ở các nước còn lại. Nhãn hiệu đăng ký quốc tế có
hiệu lực bảo hộ giống như nhãn hiệu được đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia
thành viên. Thông thường, trong vòng 12 tháng kể từ khi đơn được nộp hợp lệ,
nhãn hiệu đăng ký quốc tế sẽ được chấp nhận bảo hộ ở nước được chỉ định trong
đơn (nếu đơn không bị nước được chỉ định từ chối bảo hộ trong thời hạn quy định
trên).
1.3.4 Nghị định thư Madrid
Nghị định thư Madrid là một hiệp định về thủ tục lập hồ sơ chứ không phải
là hiệp định điều chỉnh về mặt nội dung. Nghị định thư Madrid đã ra đời vì một
số quốc gia gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện Thỏa ước Madrid. Điều
đnày được coi là một bước cải thiện hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế.
Khi cơ quan bảo hộ nhãn hiệu ở một quốc gia được lựa chọn đồng ý bảo
hộ thì nhãn hiệu đó sẽ được bảo hộ trong toàn hệ thống tương tự như cơ quan này

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 242 -
đã đăng ký. Nghị định thư này cho phép người sở hữu đăng ký trên phạm vi quốc
tế chỉ bằng một hồ sơ duy nhất, trả tiền một lần trước khi chuyển nhượng một
nhãn hiệu ở tất cả mọi quốc gia tham gia ký kết. Việc gia hạn đăng ký cũng chỉ
có duy nhất một thủ tục đơn giản. Việc đăng ký trên phạm vi quốc tế có thời hạn
10 năm và thời gian gia hạn mới là 10 năm. Những người sở hữu nhãn hiệu có
thể lựa chọn thêm một số quốc gia nữa nếu họ quyết định tìm cách bảo hộ ở nhiều
quốc gia thành viên hơn hoặc nếu có thêm nhiều quốc gia mới gia nhập nghị định
thư.
Nếu việc đăng ký cơ bản - hoặc việc đăng ký làm cơ sở cho đăng ký quốc
tế - bị hủy vì bất kỳ lý do gì trong năm năm đầu tiên thì người đăng ký quốc tế
chuyển việc đăng ký đó thành một loạt các hồ sơ đăng ký ở các quốc gia tham gia
ký kết như đã lựa chọn. Các đơn đăng ký này sẽ giữ nguyên ngày ưu tiên như đã
nêu trong hồ sơ đăng ký quốc tế ban đầu ở mỗi nước. Người sở hữu cũng bảo lưu
quyền ở mỗi quốc gia thành viên, ngay cả khi không thực hiện được đăng ký quốc
tế.
Vì Việt Nam là thành viên của cả Thoả ước Madrid và Nghị định thư
Madrid do vậy các điều kiện tiên quyết nhằm nộp đơn quốc tế theo Hệ thống
Madrid dành cho các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tồn tại dưới các dạng sau:
(i) Trường hợp các nước yêu cầu bảo hộ là thành viên của cả Thoả ước
Madrid và Nghị định thư Madrid hoặc trong số các nước yêu cầu bảo hộ có ít nhất
một nước chỉ tham gia Nghị định thư Protocol thì doanh nghiệp có thể nộp đơn
đăng ký quốc tế ngay sau thời điểm nhãn hiệu của doanh nghiệp đã được nộp
đơn tại Việt Nam. Ví dụ: Nhãn hiệu A được nộp đơn tại Việt Nam ngày 30/9/2009
thì ngày 1/10/2009 doanh nghiệp có thể nộp một đơn đăng ký quốc tế duy nhất
yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu đó tại các nước thành viên khác
(ii) Trường hợp các nước mà doanh nghiệp yêu cầu bảo hộ có chứa ít nhất
1 nước chỉ là thành viên của riêng Thoả ước Madrid thì doanh nghiệp chỉ có thể
nộp đơn đăng ký quốc tế ngay sau thời điểm nhãn hiệu của doanh nghiệp đã được
bảo hộ tại Việt Nam. Ví dụ: Nhãn hiệu A được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu số 25799 ngày 30/9/2009 thì ngày 1/10/2009 doanh nghiệp có thể nộp
một đơn đăng ký quốc tế duy nhất yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu đó tại các nước chỉ
tham gia riêng Thoả ước Madrid.