HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VÕ THANH XUÂN
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY Chuyên ngành
: Văn hóa học
Mã số : 60 31 06 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS LÊ TRUNG KIÊN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ Võ Thanh Xuân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
11 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI Ở TỈNH KIÊN GIANG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 11
1.2. Giá trị văn hóa của lễ hội trong đời sống cộng đồng 20
1.3. Truyền thống văn hóa tỉnh Kiên Giang 23
35
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG 2.1. Sự ra đời của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực 35
2.2. Các giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực 49
2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc
60 Nguyễn Trung Trực hiện nay
2.4. Đánh giá chung 63
Chương 3: XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA LỄ HỘI VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC
68
NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY
3.1. Xu hướng vận động của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực 68
3.2. Những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
3.3. Một số giải pháp 3.4. Một số kiến nghị 72 75 92
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97 100
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
USD : Đô la Mỹ
WON : Đơn vị tiền tệ Hàn Quốc
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền văn hóa Việt Nam tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành
nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của ông cha ta. Ngoài ý nghĩa góp phần
tạo nên sự cố kết cộng đồng, hướng về cội nguồn giúp cân bằng đời sống tâm
linh đồng thời hàm chứa trong đó nhiều giá trị văn hóa truyền thống mà nổi bật
là giá trị giáo dục đạo đức, giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân ta.
Khắp các địa phương trong cả nước ta thấy ở mỗi gia đình đều có bàn
thờ tổ tiên, dòng họ có nhà thờ họ, cộng đồng làng thì thờ thành hoàng. Thành
hoàng chính là vị thần cai quản che chở cho cả làng thường là người có công
khai phá lập nghiệp cho dân làng, hoặc các Anh hùng dân tộc đã sinh hay mất
ở làng. Với quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” dân ta luôn trân trọng, biết
ơn những người đã xả thân vì dân vì nước. Những phong tục thờ cúng đó trở
thành lễ hội và lễ hội đó đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa của
cộng đồng.
Hàng năm, trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội được tổ chức với nhiều
hình thức và quy mô khác nhau. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị
riêng nhưng bao giờ cũng là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc biệt
mang tính tập thể, cố kết cộng đồng dân tộc, giáo dục đạo đức con người
hướng về cội nguồn, hướng về cái cao cả thiêng liêng của dân tộc.
Lễ hội không chỉ là một không gian, một thời điểm, một hoạt động để
các thành viên được thỏa mãn nhu cầu cộng sinh mà còn là một thành tố cấu
thành nên bản sắc văn hóa của một cộng đồng. Trong lễ hội nhiều hoạt động
mang đậm nét truyền thống với phần lễ nhiều ý nghĩa và phần hội với các
hoạt động đa dạng, phong phú đã tạo nên tính đặc thù của văn hóa cộng đồng.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần bắt nguồn và phát
triển từ thực tiễn hoạt động của đời sống xã hội, sự giao lưu, tiếp biến của văn
hóa cộng đồng. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá
truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống
2
đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển
lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ
quả của cả quá trình lịch sử không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là
tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong chiều dài lịch sử của
bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở
thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thỏa nguyện
qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống
vật chất, tinh thần trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử. Lễ hội biểu đạt
những sáng tạo văn hóa được tích lũy và trao truyền qua nhiều thế hệ, in dấu
trong các nghi lễ, nghi thức tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, văn chương
nghệ thuật, lễ phục, ẩm thực, cúng tế, trò chơi, trò diển dân gian…
Lễ hội đáp ứng nhu cầu một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng miền, dân tộc; đồng thời là
cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là hình thức giáo dục, tri ân công đức các Anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và
giữ nước đấu tranh giải phóng dân tộc. Nó là tài sản vô giá trong kho tàng di sản
văn hóa phi vật thể, là sản phẩm tinh thần của nhân dân được hình thành và phát
triển trong quá trình lịch sử. Chính vì thế lễ hội góp phần bảo tồn các giá trị văn
hóa truyền thống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đối với tỉnh Kiên Giang, ngoài các giá trị nêu trên lễ hội còn trở thành
một nguồn lực quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, là
phương tiện hữu hiệu để quảng bá, giới thiệu văn hóa, vùng đất con người
Kiên Giang, tạo nên thương hiệu du lịch đến đông đảo nhân dân cả nước và
bạn bè quốc tế.
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở phía Tây Nam của Việt Nam. Với diện tích tự nhiên 6.346 km2. Dân số 1.683.149
người. Là tỉnh có địa hình đồng bằng, rừng núi, biển và hải đảo. Kiên Giang
được nhiều người biết đến là vùng đất với nhiều danh lam thắng cảnh và địa
3
danh lịch sử như: Hà Tiên, Phú Quốc, vườn Quốc Gia U Minh Thượng, di
tích nhà tù Phú Quốc…Toàn tỉnh hiện có 360 cơ sở thờ tự, 43 danh thắng - di
tích lịch sử văn hóa được xếp hạng. Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang có 389 lễ hội trong đó có 235 lễ hội tôn giáo, 31 lễ hội dân gian,
62 lễ hội lịch sử cách mạng và một số lễ hội khác. Đặc biệt hàng năm, cứ vào
ngày 26, 27 và 28 tháng 8 âm lịch, lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày hy sinh
của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được tổ chức trang trọng nhằm tri
ân và tôn vinh đức tài, chiến công của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực,
giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường chống
ngoại xâm, bảo vệ đất nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian của nhân
dân; đồng thời là dịp để bà con nhân dân trong và ngoài tỉnh tham gia các hoạt
động giao lưu văn hóa, tăng cường tình đoàn kết gắn bó của các dân tộc sinh
sống trong cộng đồng, giới thiệu, quảng bá tiềm năng phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Lễ hội truyền thống Nguyễn Trung Trực đã có sức lan
tỏa ngày càng rộng, mỗi năm số lượt người dự lễ hội ngày càng tăng; nếu
năm 2005 có 400 ngàn người tham gia lễ hội đến năm 2012 có hơn 800
ngàn lượt người tham gia lễ hội [106]. Nét độc đáo mỗi khi nói đến lễ hội
Nguyễn Trung Trực hàng năm là trước ngày chính thức diễn ra lễ hội,
người dân khắp nơi về đây để làm công quả, chung tay sửa sang đình thờ,
dựng trại, đắp lò nấu cơm đãi ăn miễn phí cho tất cả du khách đến tham gia
lễ hội bằng tấm lòng tôn kính, thành tâm chăm lo ngày giỗ của Cụ Nguyễn.
Chỉ nhìn vào nguồn thực phẩm đem dâng cúng, kinh phí đóng góp của các
tổ chức, cá nhân mới thấy sức đóng góp của người dân rất lớn. Điều đáng
nói trong lễ hội Anh hùng Nguyễn Trung Trực là tinh thần của những
người tham dự lễ hội. Dân cư khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về
dự lễ hội như là trở về gia đình mình, làm giỗ ông bà mình. Vì thế, tính
cộng cảm, cộng mệnh, cộng sinh được thể hiện rất rõ nét trong lễ hội này.
Đây là lễ hội mang tính cộng đồng rất cao và là nét đẹp văn hóa vô cùng
độc đáo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
4
Tuy hàng năm lễ hội thu hút lượng khách rất lớn nhưng chỉ diễn ra trong
thời gian ngắn và quy mô tổ chức chưa tương xứng, độc đáo, hấp dẫn du khách
đến với Kiên Giang. Phần nội dung tuy được cải tiến đổi mới, nhưng phần hội
vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn gây nhàm chán cho người dự lễ. Các trò
chơi dân gian còn hạn chế làm cho nét đẹp văn hóa truyền thống vốn có của các
dân tộc đang dần bị mai một. Việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia lễ
hội, thực hiện quy định của lễ hội còn hạn chế. Từ đó chưa thấy được mình cần
phải làm gì để hưởng lợi bền vững khi biết cách giữ gìn bản sắc văn hóa, môi
trường sinh thái và có trách nhiệm, hành vi văn minh. Tình trạng mua bán lấn
chiếm vỉa hè, lòng lề đường, giữ gìn an ninh trật tự, mua bán lưu hành ấn phẩm
văn hóa không được phép xuất bản…vẫn còn xảy ra tại lễ hội.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI viết:
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ, về bảo tồn phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn
hóa, văn nghệ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa với
phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá
sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng đặc biệt là thế hệ trẻ
và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa [28, tr.225].
Trong bối cảnh ấy, nghiên cứu việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa lễ hội
Anh hùng Nguyễn Trung Trực nhằm giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn về cuộc
đời, thân thế và sự nghiệp cũng như giá trị của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực là một việc làm có tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ
hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang hiện nay”
làm luận văn tốt nghiệp bậc cao học ngành Văn hóa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội đã được rất
nhiều học giả từ xưa đến nay nghiên cứu và giới thiệu dưới nhiều phương
5
pháp, mục đích và góc độ khác nhau. Trong những năm gần đây và đặc biệt
kể từ khi Nghị quyết TW 5 khóa VIII ra đời Đảng và Nhà nước đã quan tâm
sâu sắc đến việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
thì ngày càng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lễ hội, ý nghĩa và
giá trị trong lễ hội được công bố.
Có thể đếm được một khối lượng khổng lồ hàng ngàn đầu sách, bài
báo, chuyên đề khoa học, nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về vấn đề này như:
Việt Nam văn hóa sử cương của tác giả Đào Duy Anh, Lễ hội truyền thống và
hiện đại của tác giả Thu Linh - Đặng Văn Lung, Lễ hội truyền thống trong
đời sống xã hội hiện đại, của các tác giả GS. Đinh Gia Khánh - GS.PTS Lê
Hữu Tầng…, Đình miếu và lễ hội dân gian của tác giả Sơn Nam, 60 lễ hội
truyền thống Việt Nam của tác giả Thạch Phương - Lê Trung Vũ, Một số giải
pháp quản lý lễ hội dân gian của tác giả Hoàng Nam, Văn hóa ẩm thực trong
lễ hội truyền thống Việt Nam của TS. Nguyễn Quang Lê… Trong quá trình
miêu tả các lễ hội, đi sâu giải mã về tín ngưỡng, tâm linh, các tác giả đã
nghiên cứu về các hoạt động văn hóa trong lễ hội tạo nên một nét đẹp đa dạng
phong phú giàu tính nhân văn sâu sắc.
Đối với đề tài nghiên cứu lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
ở Tỉnh Kiên Giang hiện nay chưa có nhiều. Chỉ có thể tìm thấy hình ảnh của
cuộc khởi nghĩa và thủ lĩnh Nguyễn Trung Trực qua một số thư tịch và các
công trình nghiên cứu chủ yếu sau:
Lịch sử 80 năm chống Pháp của Trần Huy Liệu (2003), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu lịch sử đấu tranh chống Pháp của nhân
dân Việt Nam từ năm 1858 đến khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập.
Dựa vào tài liệu này tác giả có thể tìm hiểu bối cảnh lịch sử đất nước ở thế kỉ
XIX, đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược trong đó có khởi
nghĩa của Nguyễn Trung Trực.
Đại cương lịch sử Việt Nam - tập II, Đinh Xuân Lâm (Chủ biên)
(2006), Nxb Giáo dục. Ở chương I - Phần Một các tác giả đã nghiên cứu lịch
6
sử Việt Nam từ 1858 - 1896. Ở tài liệu này quá trình đấu tranh chống xâm lược
của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp được miêu tả một cách khá chi tiết.
Nhưng cuộc kháng chiến của Nguyễn Trung Trực không được đề cập nhiều.
Ở lĩnh vực nghiên cứu về thân thế cũng như sự nghiệp về Anh hùng
Nguyễn Trung Trực có thể kể đến những tác phẩm của Nhà giáo Lê Quang
Khai (bút danh Vĩnh Xuyên) ở Kiên Giang. Đó là:
Nguyễn Trung Trực (thân thế và sự nghiệp), Nxb Mũi Cà Mau, 2000 và
Nguyễn Trung Trực - Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn nghệ, TP HCM, 2008.
Cả hai tài liệu này cơ bản về nội dung nghiên cứu là giống nhau. Tác giả đã
giới thiệu về tiểu sử, gia phả, sự nghiệp cũng như một số truyền thuyết được
người dân địa phương truyền miệng về Nguyễn Trung Trực một cách khá chi
tiết. Đây là nguồn tài liệu rất có giá trị cho những người muốn nghiên cứu về
Anh hùng Nguyễn Trung Trực.
Nguyễn Trung Trực (diễn ca), Nxb Mũi Cà Mau, 2000. Trong đó tác
giả miêu tả lại tất cả cuộc đời, sự nghiệp, những địa danh, nhân vật cũng như
những sự kiện lịch sử có liên quan đến Nguyễn Trung Trực. Đây là quyển
sách mà tác giả Vĩnh Xuyên thể hiện lịch sử thông qua thơ ca, bằng cách này
lịch sử được tái hiện một cách dễ đọc, dễ hiểu dễ nhớ nhưng vẫn đảm bảo
được sự thật lịch sử.
Tuy nhiên, ở các tác phẩm này, tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu chi
tiết cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực ở các nơi khác mà chủ yếu là
miêu tả lại hai chiến thắng tiêu biểu của Nguyễn Trung Trực là đốt tàu giặc
trên sông Nhật Tảo và đánh chiếm đồn Rạch Giá.
Nguyễn Trung Trực - Anh hùng kháng chiến chống Pháp của Giang
Minh Đoán (1991) viết trong quá trình sưu tập tài 1iệu, đi khảo cứu một số
đình, đền, các di tích thờ phụng cụ Nguyễn trên đất Rạch Giá - Hà Tiên cũ,
cùng những chuyện ghi chép được từ các kỳ lão - Nxb TP.HCM. Tác giả cũng
trình bày về tiểu sử, chiến công của cụ Nguyễn.
Công trình Tìm hiểu Kiên Giang của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh
Kiên Giang do Dương Tấn Phát chủ biên (1986). Đây là nguồn tài liệu rất quí
7
cho những người muốn nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát
triển của tỉnh Kiên Giang trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, tài liệu cũng có
một phần trình bày về cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực tại Kiên
Giang cũng như sự thờ cúng Ông ở địa phương.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nguyễn Trung Trực do Bảo tàng Kiên Giang
tổ chức (1989). Tham dự hội thảo có các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, khoa
học và những người quan tâm đến cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng Nguyễn
Trung Trực. Tuy nhiên, trong tham luận của những người tham dự hội thảo, có
những ý kiến khác nhau về một vấn đề chẳng hạn về tiểu sử, quê hương, hoạt
động... đây là nguồn tư liệu rất có giá trị trong việc nghiên cứu sâu hơn về
Nguyễn Trung Trực và cuộc kháng chiến của Ông ở miền Tây Nam bộ.
Bản thảo kỷ yếu hội thảo về Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (2009) với nhiều ý kiến đề xuất
phát huy vai trò của lễ hội đối với đời sống người dân Kiên Giang nhằm xây
dựng lễ hội trở thành lễ hội tiêu biểu của cả nước.
Tất cả các công trình kể trên chỉ có thể tham khảo để tìm hiểu về thân
thế và cuộc đời sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Chưa có
công trình nào nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
nhằm góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của tỉnh Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ
- Sưu tầm, khảo sát các tư liệu liên quan đến lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực; xác định ý nghĩa lịch sử - văn hóa và những nét đẹp độc
đáo trong lễ hội.
- Phân tích thực trạng vấn đề khai thác, bảo tồn giá trị văn hóa trong lễ
hội này.
8
- Đề xuất một số giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ, thiết thực, góp
phần bảo tồn phát huy vốn văn hóa trong lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu: lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
- Giới hạn về phạm vi không gian nghiên cứu: là các giá trị văn hóa tiêu
biểu trong lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang.
- Giới hạn về phạm vi thời gian nghiên cứu: Đánh giá hoạt động văn
hóa của lễ hội từ năm 1998 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về văn hóa - xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để xem xét đánh giá giá trị văn hóa của lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang.
Phương pháp cụ thể: Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
liên ngành, đa ngành như: văn hóa học, dân tộc học, xã hội học, quản lý văn hóa;
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp nghiên cứu tư liệu,...
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp:
Phương pháp tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, thư tịch của Pháp, các tác
giả Việt Nam là những nhà sử học theo phương pháp luận Mácxit, hay các
9
nhà sử học Miền Nam dưới nhiều góc độ khác. Phương pháp đối chiếu, so
sánh giữa các nguồn tư liệu, từ đó tiếp tục phân tích rút ra nhận thức. Phương
pháp điền dã, nghiên cứu trên thực địa, thu thập tư liệu, phương pháp phỏng
vấn chuyên sâu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên giới thiệu một cách có hệ thống đầy đủ
giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực; những đề
xuất trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng
dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Thông qua luận văn nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học góp
phần minh chứng được tính phong phú, đặc sắc của văn hóa lễ hội dân gian
của từng vùng miền ở nước ta;
Kết quả đề tài nghiên cứu là kênh tham khảo giúp cho nhân dân địa
phương hiểu đúng nội dung, ý nghĩa, giá trị văn hóa, lịch sử qua các hoạt
động và tính cộng đồng trong lễ hội ở địa phương mình, qua đó nâng cao tính
đoàn kết, cố kết cộng đồng, tình yêu quê hương, góp phần vào việc giáo dục
truyền thống yêu nước, tính năng động sáng tạo, giữ gìn nếp sống văn hóa
trong lễ hội hôm nay. Dự báo xu hướng vận động và phát triển của lễ hội
nhằm đưa ra những kiến nghị góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Làm tài liệu tham khảo cho những tác giả quan tâm đến lĩnh vực văn
hóa lễ hội ở tỉnh Kiên Giang, cũng như giá trị, vai trò của tinh thần gắn kết
cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ các giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội.
Thông qua nội dung của luận văn, người đọc sẽ tìm hiểu được một số
giá trị văn hóa tiêu biểu của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực .
Những xu hướng, dự báo, đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá
10
trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực góp phần giữ gìn
giá trị di sản văn hóa của tỉnh. Từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Kiên Giang một cách bền vững.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.
11
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI
Ở TỈNH KIÊN GIANG
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
1.1.1. Văn hóa và di sản văn hóa
Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng
tạo ra nhằm phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển. Do cách tiếp cận, góc độ
nghiên cứu trên từng lĩnh vực khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về
Văn hóa. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Năm
1982, Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của liên hiệp quốc
(UNESCO) đã tổ chức Hội nghị về văn hóa ở Mexico và đã đưa ra một định
nghĩa chung nhất về văn hóa:
Văn hóa theo nghĩa chung nhất là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của
một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng [97].
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Hồ
Chí Minh đã viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [60, tr.431].
12
Như vậy, nói đến văn hóa bao gồm cả vật chất và tinh thần. Văn hóa
vật chất là toàn bộ sản phẩm vật chất mà con người sáng tạo ra như các công
trình điêu khắc, kiến trúc; công cụ lao động sản xuất và sinh hoạt; thức ăn,
trang sức, các phương tiện vận chuyển…các sản phẩm văn hóa ở dạng vật
chất ấy gọi là văn hóa vật thể.
Văn hóa tinh thần là toàn bộ các sản phẩm do con người sáng tạo ra
như: văn học và nghệ thuật, các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo…
đây chính là dạng văn hóa phi vật chất còn gọi là văn hóa phi vật thể.
Luật di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xác
định: di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật
thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam [71, tr.32].
Đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, nghị
quyết trung ương 5 khóa 8 cho rằng: di sản vǎn hóa là tài sản vô giá, gắn kết
cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá
trị mới và giao lưu vǎn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy
những giá trị vǎn hóa truyền thống (bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng,
bao gồm cả vǎn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng
những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.
Trong những năm gần đây, vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa được đặc biệt quan tâm. Đảng và Nhà nước đã xác định di sản văn hóa
Việt Nam chính là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là
một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Khi đề cập đến một nền văn hóa, người ta thường quan tâm đến những
giá trị đặc sắc của nền văn hóa đó. Hay nói cách khác là bản sắc và giá trị của
nó tạo nên sự khác biệt giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác, giữa dân
tộc này với dân tộc khác.
13
Trong những giá trị đó thì di sản văn hóa có sự lan tỏa và thu hút đặc
biệt sự quan tâm của cộng đồng. Bởi vì nó chính là toàn bộ quá trình lao
động, sáng tạo của các thế hệ đi trước để lại. Trong di sản văn hóa được chia
ra là di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng; không
ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diển và hình thức khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, di vật, bảo vật quốc gia [70, tr.33].
Mặc dù được phân chia thành hai loại: văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể
nhưng 2 loại này luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó mật thiết lẫn nhau.
Vì vậy, trong công tác bảo tồn các di sản văn hóa cần phải tiến hành
một cách song song thì mới mang lại giá trị thiết thực.
PGS.TS Đặng Văn Bài trong vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa của lễ hội truyền thống cho rằng: Nhận diện di sản văn hóa là tiền đề
khoa học cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội. Từ góc độ di
sản văn hóa có thể khẳng định, lễ hội - một yếu tố văn hóa phi vật thể đã và
đang có những đóng góp quan trọng vào việc tạo lập, duy trì và phát huy “sức
mạnh tinh thần Đại Việt”, với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và với lòng tự
tôn dân tộc, ý thức liên kết cộng đồng…
1.1.2. Quan niệm về bảo tồn
Theo từ điển tiếng Việt: “bảo tồn” là “giữ lại không để cho mất đi” [94,
tr.261]. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo
dạng thức vốn có của nó, bảo tồn là không để mai một không để thay đổi,
biến hóa hay biến thái.
Quan niệm của GS.TS. Trần Ngọc Thêm thì: Bảo tồn chính là hoạt
động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại,
14
hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện
trạng và hãm xuống cấp của kết cấu đó [79, tr.289].
Đề cập đến vấn đề này, GS.TS. Ngô Đức Thịnh quan niệm bảo tồn là
những nổ lực nhằm gìn giữ các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có (truyền
thống) của mỗi dân tộc, quốc gia [84, tr.252].
Khi con người hiểu được những tác động trong cuộc sống sẽ làm ảnh
hưởng đến quá trình tồn tại của các giá trị văn hóa thì họ đã nghĩ đến việc bảo
tồn. Do đó, trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn di sản văn hóa xuất hiện
ngay từ khi con người ý thức được giá trị của di sản văn hóa trong đời sống,
đồng thời hiểu được mối nguy hại do tác động của thiên nhiên và chính con
người gây ra, họ đã không ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn.
Công tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm
các hoạt động như: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục
hồi, quy hoạch bảo tồn. Tuy nhiên, cần phải hiểu bảo tồn di sản văn hóa là
việc bảo vệ, giữ gìn những giá trị liên quan từ quá khứ đến hiện tại làm cho di
sản văn hóa giàu có hơn và tất yếu, cái được bảo tồn phải phù hợp với thời đại
để nó có thể tiếp tục song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc sống. Bảo tồn
chính là những nổ lực nhằm đảm bảo sự an toàn, phát triển qua việc giới
thiệu, trưng bày, khôi phục, tôn tạo, quảng bá và phát triển nhằm phục vụ các
hoạt động tiến bộ của con người trong xã hội.
1.1.3. Quan niệm về phát huy
Phát huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt
được lan tỏa và tiếp tục nảy nở, lan rộng, nhân lên từ ít đến nhiều, từ hẹp đến
rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa
sáng tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [94, tr.664].
Như vậy có thể hiểu rằng phát huy chính là việc làm cho cái hay, cái
đẹp tiếp tục phát triển một cách có hiệu quả. Vấn đề phát huy xuất phát từ nhu
cầu thực tế, con người mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều
người cùng biết đến hoặc đem về những lợi ích kinh tế thiết thực. Phát huy
15
cũng hiểu là phát triển những giá trị tốt đẹp, những thế mạnh của sự vật, hiện
tượng. Phát huy giá trị di sản văn hóa là một hoạt động có tính đồng bộ. Đòi
hỏi có sự tham gia của liên ngành, có tiêu chí chung, mục đích là nhằm phục
vụ cho sự tiến bộ của xã hội, cho việc phát triển du lịch bền vững và góp phần
quan trọng trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc đồng thời là nhịp cầu nối với các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Cách thức phát huy của mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau, điều đó tùy
thuộc vào văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng tất cả
các hoạt động này điều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm tôn vinh vẽ
đẹp và phát triển các giá trị văn hóa đó. Hình thức chủ đạo của phát huy là đề
cao các giá trị văn hóa vốn có của nó. Đồng thời tăng cường quảng bá hình
ảnh của di sản trên mọi phương diện nhằm khai thác, thu hút khách đến tham
quan, đầu tư. Từ đó giúp cho việc phục hồi tối đa các giá trị văn hóa truyền
thống, tạo cơ hội giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau góp phần hiểu biết
lẫn nhau và tăng cường mối quan hệ quốc tế vì hòa bình, vì sự phát triển của
xã hội. Mặt khác, nếu biết phát huy lợi thế của di sản văn hóa thì đây được
xem là một tiềm lực kinh tế.
1.1.4. Quan niệm về giá trị văn hóa của lễ hội
1.1.4.1. Khái niệm giá trị
Trước hết, giá trị xã hội là một khái niệm thuộc về văn hóa. Xã hội học
văn hóa là chuyên ngành tiếp cận và nghiên cứu nhiều về vấn đề này. Theo
quan điểm của nhà nghiên cứu Đoàn Văn Chúc thì giá trị xã hội được xem xét
trong hệ thống các khái niệm khác như : Tiêu chuẩn (criterion) - Chuẩn mực
(norm) - Giá trị (value). Trong đó, giá trị là cái ao ước, là biểu hiện nhu cầu
của cá nhân hay nhóm xã hội, trở thành mục đích hành động của cá nhân và
nhóm xã hội đó. Giá trị có vai trò định hướng chung cho hành động. Chuẩn
mực là một bước cụ thể hoá cái giá trị. Nó là quy tắc cư xử, quy định cách
thức hành động của cá nhân và nhóm. Nó biểu hiện dưới dạng các thể chế
(institution) thành văn (như luật của nhà nước) hay không thành văn (như
phong tục, tập quán…). Còn các tiêu chuẩn chính là những khuôn mẫu ứng
16
xử trong các tình huống cụ thể cho các cá nhân và nhóm xã hội. Nó là cái gắn
với thực tế vô cùng đa dạng và phong phú của đời sống. Nó bảo cá nhân hay
nhóm xã hội phải làm gì, như thế nào.
Ngoài ra, giá trị còn có hàng trăm định nghĩa khác. Ví dụ: nhà Nhân
học C.Kluckhohn (1905-1960) theo đó giá trị là “quan niệm thầm kín hay bộc
lộ về cái ao ước, riêng của một cá nhân hay một nhóm, chi phối đến sự lựa
chọn các phương thức, các phương tiện và các mục đích khả thể của hành
động”. Giá trị có thể được phân loại theo nhiều cách. Đó là: giá trị vật chất và
giá trị tinh thần. Chúng ta có thể dựa vào hai lĩnh vực cơ bản của đời sống con
người mà phân ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Các giá trị về vật
chất như giàu có, khoẻ mạnh, sống lâu…Các giá trị về tinh thần như giá trị về
thờ cúng tổ tiên, giá trị thờ thần (ví dụ khi hành lễ phải tôn nghiêm, ăn mặc
quần áo truyền thống, làm theo những nghi thức được quy định)…Phân loại
giá trị dựa vào việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Chúng ta có các hệ giá trị:
Giá trị thuộc lĩnh vực tự nhiên như sức khoẻ, môi trường, tuổi thọ;
giá trị kinh tế (giàu có, sang trọng, biết làm ăn...); giá trị tri thức
(hiểu biết, học vấn...); giá trị tâm linh (tôn giáo, tín ngưỡng...); Giá
trị chính trị (hệ tư tưởng, cách tổ chức...) [34, tr.25-26].
Ở nước ta hiện nay thường dùng thuật ngữ giá trị là để chỉ phẩm chất,
phẩm giá, đức tính (giá trị đạo đức). Giá trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng,
cái đẹp, nhưng không nên và cũng không thể “đạo đức hóa” toàn bộ các giá trị.
Bởi lẽ, chỉ riêng cái tốt đã là thuộc tính của rất nhiều các giá trị khác nhau chứ
không đơn thuần là thuộc tính riêng của đạo đức. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể
được coi là “có giá trị”, dù đó là vật thể hay tư tưởng, là thực vật hay vật ảo nếu
nó được các thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như một biểu tượng quan
trọng trong đời sống tinh thần của họ và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ.
Giá trị có thể là lý tưởng xã hội cần vươn tới, là mục tiêu chính trị cần
đạt được, là sự đam mê nghề nghiệp, là danh dự, tình yêu, sức khỏe, tiền bạc,
du lịch, vui chơi, giải trí. Giá trị là nhân tố nền tảng góp phần quyết định nhận
17
thức và hành động các nhân cách; đóng vai trò điều chỉnh các nguyện vọng và
hành động của con người và cộng đồng; là chỗ dựa để đánh giá hành động của
người khác và để định đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng đồng.
Do đó, giá trị xác định tiêu chuẩn của thang bậc xã hội. Hệ giá trị (hay bảng
giá trị) là một tập hợp các phạm trù giá trị khác nhau, được cấu trúc theo
những thứ bậc khác nhau, và có mối liên hệ có tính lịch sử cụ thể với nhau để
thực hiện một hay một số chức năng nhất định. Nó có tính chất phát triển nội
tại và có khả năng chuyển hóa sang một hệ thống khác, nhằm thích ứng với
điều kiện và môi trường lịch sử - xã hội.
Hạt nhân của mỗi nền văn hóa là hệ thống giá trị. Có thể coi hệ thống giá
trị là chỉ số đánh giá trình độ và tính chất đã đạt được của một nền văn hóa.
1.1.4.2. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa của nhân dân, mang đậm
phong tục tập quán và bản sắc văn hóa của từng vùng, miền khác nhau. Nó đã
ăn sâu vào tiềm thức của tất cả mổi người trên mỗi quốc gia, dân tộc.
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa, quan niệm khác
nhau về lễ hội. Trên thế giới khi nghiên cứu những đặc tính và ý nghĩa của lễ
hội ví dụ như ở nước Nga, M.Bachie (trong Lễ hội một nét đẹp trong sinh
hoạt văn hóa cộng đồng) cho rằng: Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái
hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và chiến đấu
của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội
được nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế
giới của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của
những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai
thoát ly tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ
đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả.
Nói đến lễ hội trong quyển “Việt Nam văn hóa sử cương” học giả Đào
Duy Anh thì gọi là đại hội (vào đám hay vào hội). Còn Toan Ánh trong cuốn
“Hội hè đình đám” thì quan niệm hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội
18
họp tại các thôn xã nhân dịp vào đám và trong dịp vào đám này có nhiều trò
mua vui cho dân thôn giải trí.
Cách quan niệm trên đã nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của hoạt động vui
chơi sinh hoạt tập thể có ý nghĩa giải trí, các yếu tố thuộc về nghi thức mang
tính tâm linh tín ngưỡng thì chưa được đề cập sâu.
Các nhà nghiên cứu như Đinh Gia Khánh, Lê Hồng Lý, Nguyễn Khắc
Dương, thì coi đó là hội lễ, coi danh từ hội lễ như một thuật ngữ văn hóa. Ý
nghĩa của thuật ngữ này được xác định trên cơ sở ý nghĩa của hai thành tố hội
và lễ. Hội là sự tập hợp đông người trong một sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Lễ là tín ngưỡng (các niềm tin thiêng liêng) và các nghi thức đặc thù gắn với
các tín ngưỡng ấy trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Như vậy, lễ hội có thể có nhiều cách gọi khác nhau nhưng cơ bản thống
nhất và tập trung ở từ “lễ hội”. Xét về mặt nghĩa của từ, nó bao gồm hai thành
tố “lễ” và “hội”.
Trong “Từ điển tiếng Việt” do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên: Lễ là
những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu một kỷ niệm, một sự việc sự kiện
nào đó. Hội là cuộc vui, tổ chức chung cho đông đảo người dự theo phong tục
hoặc nhân dịp đặc biệt [68, tr.222].
Việc phân tích các quan niệm về lễ hội trên dựa vào cấu trúc lễ hội,
theo đó lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội tuy nhiên cách phân chia này chỉ
mang tính tương đối. Lễ hội là một hiện tượng văn hóa xã hội tổng thể, do
vậy nếu phân chia lễ và hội một cách máy móc cơ học thì sẽ dẫn đến không
thể hiểu được bản chất của lễ hội thậm chí hiểu sai lệch về lễ hội.
Như vậy lễ trong lễ hội cần phải hiểu là nghi thức, cách thức tiến hành
những quy tắc, luật lệ nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu kỷ niệm
một sự kiện, nhân vật nào đó với mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện với
mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những
đối tượng siêu hình mà người ta thờ cúng. Đó là những sinh hoạt tinh thần của
các cá nhân hay tập thể, là sinh hoạt cả cộng đồng người trong đời sống tín
ngưỡng, tâm linh, đồng thời cũng là cách ứng xử của các tầng lớp nhân dân
19
dành cho thần, hướng về thần trong mối quan hệ “Người - Thần” vốn luôn tồn
tại trong tâm thức và hành động của con người. Từ những phân tích trên nhằm
hiểu đúng bản chất của “lễ”, tránh cách hiểu chưa đúng, hoặc những quan
niệm thông tục coi lễ chỉ là lễ bái, lễ vật, lễ lạt…
Xét về mặt cấu trúc và cội nguồn thì lễ và hội luôn gắn chặt với nhau,
không có lễ thì không có hội và hội ở đây cũng mang tính nghi lễ chứ không
phải hội chỉ là “đám vui chơi đông người”. Nhìn một cách tổng thể, thì lễ hội
thuộc phạm trù cái thiêng của thế giới thiêng liêng. Ngôn ngữ lễ hội là ngôn
ngữ biểu tượng, vượt lên trên đời sống hiện hữu thường nhật. Vì vậy, phần
hội luôn gắn với phần lễ, là bộ phận phái sinh của phần lễ, nó gắn với cái
thiêng liêng với vị thần, nhân vật mà con người thờ phụng. Các sinh hoạt vui
chơi, giải trí, trò diễn trong các lễ hội như đua thuyền, các trò diễn mang tính
phồn thực…thì nó vẫn mang tính nghi lễ phong tục chứ không phải trò, chơi
trò diễn thuần túy trần tục, mà trò diễn ở đây đã được thiêng hóa. Theo GS,TS
Ngô Đức Thịnh cho rằng:
Lễ hội là một hiện tượng tổng thể, không phải thực thể chia đôi
(phần lễ, phần hội) một cách tách biệt như một số học giả quan
niệm mà nó hình thành trên cơ sở cốt lõi nghi lễ, tín ngưỡng nào đó
(thường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử, hay một thần linh nghề
nghiệp, thần linh huyền thoại…) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các
hiện tượng sinh hoạt văn hóa phái sinh để tạo nên một tổng thể xã
hội. Cho nên trong lễ hội phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội
là phần phái sinh tích hợp [84, tr.336].
Đối với người dân Việt Nam, lễ hội là một trong những loại hình sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng lâu đời nhất. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và
khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử.
Lễ hội là một tổng thể thống nhất không thể chia tách. Lễ là phần tín
ngưỡng, là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người. Còn hội là
phần tập hợp vui chơi giải trí, là đời sống văn hóa thường nhật, phần đời của
20
mỗi con người, của cộng đồng. Hội gắn liền với lễ và chịu sự quy định nhất
định của lễ, có lễ mới có hội.
1.2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần đặc biệt mang tính
tập thể phản ánh nhiều mặt của đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội của cộng
đồng. Nó là sản phẩm tinh thần, là di sản văn hoá phi vật thể có giá trị to lớn
trong đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội trong đời sống xã hội hiện nay
có thể khái quát thành năm giá trị cơ bản: Giá trị cố kết cộng đồng dân tộc,
giá trị giáo dục, giá trị tâm linh, giá trị bảo tồn nền văn hoá dân tộc, giá trị
kinh tế. Từ các giá trị đó cho thấy, vai trò của lễ hội có giá trị rất lớn trong đời
sống văn hóa hiện nay. Qua lễ hội hoạt động tinh thần gắn kết mọi người đến
với nhau để cùng chung một niềm tin cùng hướng về tổ tông dòng tộc, cùng
chung một thần linh, thành hoàng.
Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng gắn với ngôi đình, mái chùa cùng
với lễ hội là cái nôi giữ gìn bảo tồn văn hoá Việt Nam. Lễ hội là một hình
thức tái hiện cuộc sống quá khứ thông qua các hoạt động tế lễ, các trò diễn.
Bản chất lễ hội nói lên việc ứng xử của con người trong đời sống văn hóa
cộng đồng. Quá trình con người ứng xử với thần linh thể hiện ý thức về cội
nguồn đó là phần lễ. Phần hội, mọi người gặp gỡ, vui chơi với nhau tạo thành
nét văn hóa đặc sắc. Lễ hội với sự tham gia của nhiều cá nhân, nhiều tổ chức
xã hội, một mặt đã tạo nên tinh thần đoàn kết, sự cố kết cộng đồng nhưng
đằng sau nó cũng đã ngầm ẩn những mâu thuẫn, xung đột, va chạm giữa các
cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với các tổ chức…Trên thực tế, các xung
đột trên xét cho cùng chính là sự mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái
thiêng và cái trần tục, giữa việc bảo lưu và việc cải tiến…Vấn đề đặt ra là làm
sao chúng ta có thể dung hòa được các mối quan hệ xã hội phức tạp đó để lễ
hội thực sự là môi trường cho con người cùng nhau hưởng thụ, thỏa mãn nhu
cầu tâm linh của mình.
Các hoạt động ấy trong lễ hội không những tái hiện cuộc sống mà nó
góp phần giữ gìn và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, được lưu giữ từ đời này
21
sang đời khác. Nói một cách khác lễ hội là kết quả của quá trình lịch sử hoá
quá khứ và hiện tại, kết hợp quá trình huyền thoại hoá những nhân vật là sự
kiện lịch sử được nhân dân thờ phụng. Đồng thời còn là kết quả của quá trình
sân khấu hoá đời sống xã hội và quá trình xã hội hoá trong tiến trình lịch sử.
Quá trình mô phỏng tái hiện cuộc sống quá khứ và những nhân vật sự kiện
lịch sử trong lễ hội đã đạt đến tính xã hội hoá cao. Hình thức và nội dung của
lễ hội phản ánh khá đầy đủ và sinh động đời sống vật chất là tinh thần xã hội
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đồng thời qua quá trình hình thành và tồn
tại, lễ hội đã tác động mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn thể cộng
đồng trong một khu vực làng xã, một vùng, một dân tộc, một quốc gia, tuỳ
theo tính chất và mức độ của lễ hội ấy. Và như vậy lễ hội góp phần bảo tồn
văn hoá dân tộc ngay trong chính tâm thức của cộng đồng.
Tính cố kết cộng đồng ấy thể hiện qua sự cộng mệnh và cộng cảm.
Cộng mệnh là sự gắn bó giữa con người trong cộng đồng thông qua vận mệnh
của cộng đồng, thể hiện ở việc cả làng cùng suy tôn, cùng tôn thờ một sức
mạnh siêu nhiên bảo vệ cho sự tồn vong của cả cộng đồng. Đó là Đức quốc
Tổ Hùng Vương trong lễ hội Đền Hùng; Thành hoàng làng trong các lễ hội
Đình; Đức Phật, Thánh Mẫu trong các lễ hội, tôn giáo. Cộng cảm là sự thể
hiện có chung thái độ tình cảm của các cá nhân và cả tập thể trong ứng xử văn
hoá với tự nhiên, thần thánh và con người.
Trong lễ hội các hoạt động của lễ và hội đều thể hiện tính cộng mệnh
và cộng cảm, tính quần thể. Các lễ hội còn thấm đượm tinh thần đoàn kết, dân
chủ và nhân bản sâu sắc. Khi tham dự lễ hội đứng trước thần linh hay nhân
vật thiêng liêng thì dù là người tổ chức hay người dân tham gia lễ hội hay bất
kỳ cương vị nào cũng đều bình đẳng trước thánh thần và bình đẳng với nhau
trong tư cách người tham gia. Bất kể một lễ hội nào cho dù là lễ hội nông
nghiệp, lễ hội lịch sử, lễ hội tôn giáo suy tôn các vị thần linh hay Anh hùng
dân tộc thì các lễ hội ấy bao giờ cũng là lễ hội của một cộng đồng; biểu
dương các giá trị văn hoá và sức mạnh của cộng đồng trên mọi bình diện.
“Mọi hoạt động diễn ra trong các lễ hội ấy đều thể hiện tính cố kết cộng đồng,
22
mang tính biểu trưng nhằm kêu gọi, tập hợp quần chúng nhân dân trong một
vòng tay lớn" [73, tr.74]. Bởi vậy, tính cộng đồng và cố kết cộng đồng là nét
đặc trưng và là giá trị văn hoá tiêu biểu nhất của lễ hội truyền thống. Lễ hội
truyền thống là biểu hiện của hai quá trình: lịch sử hóa và huyền thoại hoá
những nhân vật được nhân dân thờ phụng.
Lễ hội là hoạt động văn hoá tinh thần thể hiện tình cảm con người với
tổ tiên, thần thánh để cầu mong mọi lực lượng siêu nhiên che chở phù hộ cho
con người. Cũng từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên giúp con người không bao giờ
quên cội nguồn, con người đến với lễ hội là đến với lòng thành kính tổ tiên và
các bậc tiền nhân, nhắc nhở mọi người nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của
mình với ông bà, tổ tiên, dòng tộc. Do vậy lễ hội có giá trị lớn trong việc giáo
dục đạo đức giáo dục truyền thống lịch sử của làng bản quê hương đất nước
đối với mọi thành viên tham gia lễ hội.
Chính vì vậy mà điều 25 luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi,
bổ sung năm 2009 đã nêu lên những định hướng lớn nhằm bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa của lễ hội như sau:
Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội
truyền thống thông qua các biện pháp sau đây:
1. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội;
2. Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân
gian truyền thống gắn với lễ hội;
3. Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền thống;
4. Khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước và
nước ngoài về nguồn gốc, nội dung, giá trị truyền thống tiêu biểu,
độc đáo của lễ hội [71, tr.44].
Bảo tồn lễ hội chính là giữ gìn, lưu lại những giá trị văn hóa của lễ hội.
Phát triển là vận động theo quy luật khách quan, đem lại những biến đổi các
giá trị văn hóa của lễ hội nhằm vươn tới cái đẹp hơn cho cuộc sống của con
người. Bảo tồn và phát triển lễ hội nhằm làm cho các giá trị văn hóa được lưu
giữ và phát triển đúng hướng. Thông qua phát triển, con người nhận thức và
23
thực hiện hoạt động bảo tồn các giá trị văn hóa của lễ hội nhằm thể hiện bản
sắc riêng của mình.
Thông qua lễ hội, các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được
khơi dậy, nâng cao mức hưởng thụ của mọi người trong xã hội. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc mở rộng giao lưu văn hóa và phát triển du
lịch là nhu cầu thiết yếu của mỗi quốc gia, dân tộc. Lễ hội cũng là nhân tố
chịu sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa, các yếu tố của cơ
chế kinh tế thị trường dẫn đến những biến đổi về nội dung, hình thức và quy mô
tổ chức của nó. Vì vậy bảo tồn và phát huy lễ hội có ý nghĩa rất quan trọng trong
đời sống của nhân dân ta. Bảo tồn và phát huy lễ hội là hoạt động quan trọng
góp phần bảo vệ giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bảo tồn và phát huy
luôn gắn liền với nhau trong việc xây dựng và phát triển văn hóa.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, vấn đề bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa lễ hội phải được thực hiện một cách khoa học, đòi
hỏi những kiến thức chuyên sâu, sự phối hợp liên ngành và sự tham gia của
đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó vai trò quản lý nhà nước cũng hết
sức cần thiết. Bảo tồn dựa vào mô hình: bảo tồn y nguyên, bảo tồn trên cơ sở
kế thừa và bảo tồn - phát triển.
1.3. TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA TỈNH KIÊN GIANG
1.3.1. Đặc điểm về địa lý kinh tế
Tỉnh Kiên Giang ở toạ độ địa lý 10032' vĩ độ Bắc, 9023' kinh độ Ðông,
cách thủ đô Hà Nội 1.976 km. Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông
Cửu Long - phía Tây Nam của Tổ quốc; phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia;
phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu; phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh An
Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang; phía Tây giáp Vịnh Thái Lan. Vị
trí địa lý của Kiên Giang có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã
hội, là cửa ngõ hướng ra biển Tây của tỉnh cũng như của vùng đồng bằng sông
Cửu Long, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển, đảo và giao lưu với
các nước trong khu vực và quốc tế với các ngành mũi nhọn như du lịch, thương
mại, dịch vụ công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản…[106].
24
Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, thị, thành phố: Thành
phố Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương; huyện Hòn Đất, huyện Tân
Hiệp, huyện Châu Thành, huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện An
Biên, huyện An Minh, huyện Vĩnh Thuận, huyện Phú Quốc, huyện Kiên Hải,
huyện U Minh Thượng và huyện Giang Thành.
Kiên Giang có tổng diện tích tự nhiên 6.346,27 km2. Theo kết quả điều tra ngày 01/04/2009, dân số tỉnh Kiên Giang là 1.683.149 người, mật độ
267 người/km², khu vực nông thôn 73,1%, thành thị 26,9%; dân tộc chủ yếu
là người Kinh, Khmer, Hoa. Dân số của tỉnh phân bố không đều, thường tập
trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch, sông ngòi và một số đảo, quy mô
dân số đến năm 2010 dự kiến dưới 1,8 triệu người [106].
Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên của Kiên Giang là
634.627,21 ha, trong đó: Nhóm đất nông nghiệp 575.697,49 ha chiếm 90,71%
đất tự nhiên (riêng đất lúa 354.011,93 ha chiếm 61,49% đất nông nghiệp);
nhóm đất phi nông nghiệp 53.238,38 ha, chiếm 8,39% diện tích tự nhiên;
nhóm đất chưa sử dụng 5.691,34 ha, chiếm 0,90% diện tích tự nhiên; đất có
mặt nước ven biển 13.781,11 ha (là chỉ tiêu quan sát không tính vào diện tích
đất tự nhiên) [106].
Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt khá dồi dào, nhưng đến mùa mưa (từ
tháng 5 đến tháng 10) phần lớn nước mặt của tỉnh đều bị nhiễm phèn mặn, do
vị trí ở cuối nguồn nước ngọt của nhánh sông Hậu, nhưng lại ở đầu nguồn
nước mặn của vịnh Rạch Giá. Toàn tỉnh có 3 con sông chảy qua: Sông Cái
Lớn (60 km), sông Cái Bé (70 km) và sông Giang Thành (27,5 km) và hệ
thống kênh rạch chủ yếu để tiêu nước về mùa lũ và giao thông đi lại, đồng
thời có tác dụng tưới nước vào mùa khô [106].
Tài nguyên biển: Kiên Giang có 200 km bờ biển với ngư trường khai thác thủy sản rộng 63.290 km2. Biển Kiên Giang có 143 hòn đảo, với 105 hòn đảo nổi lớn, nhỏ, trong đó có 43 hòn đảo có dân cư sinh sống; nhiều cửa sông, kênh
rạch đổ ra biển, tạo nguồn thức ăn tự nhiên phong phú cung cấp cho các loài hải
sản cư trú và sinh sản, là ngư trường khai thác trọng điểm của cả nước [106].
25
Tài nguyên khoáng sản: Có thể nói Kiên Giang là tỉnh có nguồn khoáng
sản dồi dào bậc nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua thăm dò điều tra
địa chất tuy chưa đầy đủ nhưng đã xác định được 152 điểm quặng và mỏ của
23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như: Nhóm nhiên liệu (than bùn), nhóm
không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất sét…), nhóm kim loại (sắt, Laterit
sắt…), nhóm đá bán quý (huyền thạch anh - opal…), trong đó chiếm chủ yếu
là khoáng sản không kim loại dùng sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng [106].
Tiềm năng du lịch: Kiên Giang có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử nổi
tiếng như: Hòn Chông, Hòn Trẹm, Hòn Phụ Tử, núi Mo So, bãi biển Mũi
Nai,Thạch Động, Lăng Mạc Cửu, Đông Hồ, Hòn Đất, rừng U Minh, đảo Phú
Quốc… Để khai thác có hiệu quả tiềm năng phát triển du lịch, Kiên Giang đã
xây dựng 4 vùng du lịch trọng điểm như:
* Phú Quốc: có địa hình độc đáo gồm dãy núi nối liền chạy từ Bắc
xuống Nam đảo, có rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú, có
nhiều bãi tắm đẹp như Bãi Trường (dài 20 km), Bãi Cửa Lấp - Bà Kèo, Bãi
Sao, Bãi Đại, Bãi Hòn Thơm... và xung quanh còn có 26 đảo lớn nhỏ khác
nhau. Phú Quốc có truyền thống văn hóa lâu đời và nhiều đặc sản nổi tiếng,
như: nước mắm phú Quốc, hồ tiêu, ngọc trai, rượu sim, cá trích, nấm tràm...
Chính từ sự phong phú, đa dạng của Phú Quốc, hàng năm khách du lịch đến
Phú Quốc tăng nhanh, năm 2008 đã thu hút trên 200.000 lượt khách du lịch,
trong đó khách quốc tế trên 55.000 lượt [106].
* Vùng Hà Tiên - Kiên Lương: Nhiều thắng cảnh biển, núi non của Hà
Tiên - Kiên Lương như: Mũi Nai, Thạch Động, núi Tô Châu, núi Đá Dựng,
đầm Đông Hồ, di tích lịch sử văn hoá núi Bình San, chùa Hang, hòn Phụ Tử,
bãi Dương, núi MoSo, hòn Trẹm, quần đảo Hải Tặc và đảo Bà Lụa rất thích
hợp cho phát triển du lịch tham quan thắng cảnh, nghỉ dưỡng. Hà Tiên có
truyền thống lịch sử văn hóa, văn học - nghệ thuật, với những lễ hội cổ truyền
như Tết Nguyên tiêu, kỷ niệm ngày thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các, lễ giỗ
Mạc Cửu, chùa Phù Dung, đình Thành Hoàng… Hiện nay, Kiên Giang đã có
tour du lịch đến nước bạn Campuchia qua đường cửa khẩu Quốc tế Hà Tiên.
26
Đây là cánh cửa mở ra để vùng Kiên Lương - Hà Tiên nối liền với các nước
Đông Nam Á; đồng thời mở tuyến du lịch xuyên ba nước, từ Phú Quốc đến
Shianouk Ville (Campuchia) và tỉnh Chanthaburi (Thái Lan) bằng đường biển
và đường bộ [106].
* Thành phố Rạch Giá và vùng phụ cận: Thành phố Rạch Giá là trung
tâm hành chính của tỉnh Kiên Giang, có bờ biển dài 7 km, giao thông thủy, bộ
và hàng không rất thuận tiện. Rạch Giá có cơ sở hạ tầng tốt, nhiều di tích lịch
sử văn hóa, là điểm dừng chân để đi tiếp đến Hà Tiên, Phú Quốc và các vùng
khác trong tỉnh. Do đó, có lợi thế trong phát triển các dịch vụ như: lưu trú, ăn
uống, các dịch vụ vui chơi giải trí về đêm; có 3 hệ thống siêu thị quy mô lớn
đảm bảo nhu cầu mua sắm của người dân thành phố và du khách (siêu thị
Citimart, Metro và siêu thị Co.op Mart Rạch Sỏi). Thành phố Rạch Giá là nơi
đầu tiên ở Việt Nam tiến hành việc lấn biển để xây dựng đô thị mới. Khu lấn
biển mở rộng thành phố thành một trong những khu đô thị mới lớn nhất vùng
Tây Nam bộ. Một số khu vực phụ cận của Rạch Giá như huyện đảo Kiên Hải,
Hòn Đất, U Minh Thượng cũng có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Kiên
Hải đang khai thác các tour khám phá biển đảo đi - về trong ngày. Đây là
vùng thắng cảnh biển - đảo với đặc thù nghề truyền thống đi biển, làm nước
mắm, chế biến hải sản, tạo thành nét sinh hoạt văn hóa riêng biệt. Khu du lịch
Hòn Đất đang hoàn chỉnh và hoàn thiện những công trình văn hóa tại khu mộ
Anh hùng liệt sĩ Phan Thị Ràng (chị Sứ), xây dựng khu trưng bày một số hiện
vật chứng tích chiến tranh tại khu phát sóng truyền hình của tỉnh trên đỉnh
Hòn Me… [106].
* Vùng U Minh Thượng: Với đặc thù sinh thái rừng tràm ngập nước trên
đất than bùn, Vườn Quốc gia U Minh Thượng - khu căn cứ địa cách mạng,
khu dự trữ sinh quyển thế giới, đã mở cửa phục vụ khách tham quan du lịch
sinh thái. Khu du lịch Vườn Quốc gia U Minh Thượng phục vụ khách tham
quan du lịch sinh thái kết hợp với tìm hiểu văn hóa nhân văn sông nước vùng U
Minh Thượng và du lịch nghiên cứu di chỉ khảo cổ Ốc Eo - Phù Nam (Cạnh
Đền, Nền Vua, Kè Một). Quần thể di tích căn cứ địa cách mạng U Minh Thượng
27
với di tích Ngã Ba Cây Bàng, Ngã Ba Tàu, Thứ Mười Một, Rừng tràm Ban Biện
Phú, khu tập kết 200 ngày kinh xáng Chắc Băng, Khu di tích Ranh Hạt (Vĩnh
Thuận) - đây là nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Kiên Giang
là điểm thu hút du khách tìm hiểu lịch sử cách mạng…
Ngoài 4 vùng du lịch trọng điểm, Kiên Giang hiện có khu Dự trữ sinh quyển
với diện tích hơn 1,1 triệu hec ta. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang chứa đựng sự
phong phú, đa dạng và đặc sắc về cảnh quan và hệ sinh thái, có giá trị lớn về mặt
nghiên cứu, cũng như du lịch. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang trùm lên địa
phận các huyện Phú Quốc, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận, Kiên Lương
và Kiên Hải, gồm 3 vùng lõi thuộc Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Vườn Quốc
gia Phú Quốc và rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương, Kiên Hải [106].
1.3.2. Đặc điểm văn hóa truyền thống
Kiên Giang cũng là một trong số các tỉnh có nhiều di tích, hiện đã công
nhận được 43 di tích và được phân loại như sau:
Di tích lịch sử - văn hóa: Các di tích tiêu biểu thuộc loại này Kiên Giang
có chùa Tam Bảo, đình Vĩnh Hòa, đình Thạnh Hòa, đình Nam Thái…
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của Anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này
như đền thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, Nhà lưu niệm Thi sĩ
Đông Hồ, Mộ Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt, Mộ Anh hùng lực lượng vũ trang
Phan Thị Ràng, Mai Hồng Hạnh…
- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của
các thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như
khu di tích cách mạng Hòn Đất, khu di tích căn cứ địa U Minh Thượng, di
tích cách mạng Núi Mo So, Chùa Xà Xía, Chùa Phật Lớn, Tháp 4 Sư liệt sĩ,
Nhà Tù Phú Quốc, Nhà tù Hà Tiên…
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Các di tích tiêu biểu loại này ở Kiên Giang có chùa Bà Thiên Hậu, Miếu
Quan Thánh Đế, chùa Phật Lớn, chùa Sóc Xoài, Nhà cổ Bảo tàng, Mộ Hội
Đồng Suông v.v…
28
Di tích khảo cổ
Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu
các giai đoạn phát triển của các nền văn hoá khảo cổ. Di tích khảo cổ ở Kiên
Giang là những di chỉ lưu giữ những dấu tích về quá trình hình thành, phát
triển của người Việt cổ trên đất Kiên Giang mà đa phần thuộc về nền văn hóa
Óc Eo bao gồm hang động, gò đồi, giồng đất… Các hiện vật khai quật từ các
di chỉ khảo cổ trên được lưu giữ trong Bảo tàng tỉnh. Di chỉ khảo cổ ở Kiên
Giang được chia làm 3 loại di chỉ cư trú và di chỉ mộ táng điển hình như di
chỉ khảo cổ Giồng Xoài, Đá Nổi, Nền Chùa, Cạnh Đền…[107].
Di tích thắng cảnh
- Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như danh lam thắng cảnh Thạch
Động, Đá Dựng, Núi Bình San, Bãi Dương-Hòn Phụ Tử, Bãi Mũi Nai…
- Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa
dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng
những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất. Khu dự trữ
sinh quyển Kiên Giang bao trùm liên địa bàn các huyện Phú Quốc, An Minh,
Vĩnh Thuận, Kiên Lương và Kiên Hải. Có 3 vùng lõi thuộc các Vườn Quốc
gia U Minh Thượng, Phú quốc và rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên
Hải. Khu dự trữ sinh quyển thế giới Kiên Giang có sáu hệ sinh thái đặc thù,
hệ động thực vật có khoảng 2.340 loài, trong đó 1.480 loài thực vật với 116
loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ và 57 loài đặc hữu; khoảng 860 loài
động vật với 78 loài quý hiếm, 36 loài đặc hữu [107].
1.3.3. Văn hóa lễ hội ở tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang là vùng đất đa dạng về địa hình và phong phú về di sản văn
hóa. Toàn tỉnh hiện có hơn 360 cơ sở thờ tự, 43 danh thắng - di tích lịch sử
văn hóa được xếp hạng. Hiện nay, toàn tỉnh có 389 lễ hội, trong đó có 235 lễ
hội tôn giáo, 31 lễ hội dân gian, 62 lễ hội lịch sử cách mạng và một số lễ hội
khác. Đặc biệt có 9 lễ hội tiêu biểu thu hút hàng ngàn du khách trong và ngoài
tỉnh đến với Kiên Giang.
29
Lễ hội Tao Đàn Chiêu Anh Các - Hà Tiên
Đã nhiều năm qua, mỗi dịp Tết Nguyên tiêu, rằm tháng Giêng hàng
năm, tại Lăng Mạc Cửu, Hà Tiên lại tổ chức Lễ hội kỷ niệm Tao đàn Chiêu
Anh Các. Vào mùa xuân năm Bính Thìn 1736, tại trấn Hà Tiên xưa, Tổng
binh đại đô đốc Mạc Thiên Tích, hiệu Sĩ Lân đã cùng 32 danh sĩ tài hoa
đương thời lập nên Tao Đàn Chiêu Anh Các. Không chỉ là nơi tập trung sáng
tác, đàm luận văn thơ mà còn là nơi đào tạo nhân tài, cổ vũ tinh thần yêu
nước, mở mang văn hóa của một trấn xa xôi. Hình thành trong giai đoạn phát
triển rực rỡ nhất của Hà Tiên xưa, Tao đàn Chiêu Anh Các sản sinh ra một
khối lượng văn chương khá đồ sộ, trong đó có tuyệt tác “Hà Tiên Thập vịnh”
với hơn 300 bài thơ bằng chữ Nôm. Lễ hội có nhiều hoạt động phong phú, đa
dạng như: dâng hương tế Trời Đất, thi họa thơ Chiêu Anh Các, thi ứng tác câu
đối, thi sáng tác thơ mới, viết thư pháp... Lễ hội trùng với Ngày thơ Việt Nam
nên có rất đông những người yêu thơ, văn nghệ sĩ Nam Bộ và du khách về
đây dự lễ [107].
Lễ hội Oóc-om-bok - Gò Quao
Lễ hội Oóc-om-bok hay còn gọi là lễ cúng Trăng được tổ chức thống
nhất vào đêm 15/10 âm lịch. Các vật cúng trong lễ hội là cốm dẹp, khoai, đậu,
dừa… Đồng bào phật tử tập hợp lại xung quanh sân chánh điện, chờ đến khi
mặt trăng lên đến đỉnh là mọi người đều khấn vái để tưởng nhớ đến công ơn
của mặt trăng. Người Khmer coi mặt trăng như là một vị thần điều tiết mùa
màng, đã giúp cho họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt sôi nổi
nhất trong những ngày này là hội đua ghe ngo. Kể từ năm 2007, lễ hội Oóc -
om - bok được nâng lên thành Ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc Khmer tỉnh
Kiên Giang đã khẳng định quy mô và chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Ngày hội có nhiều loại hình hoạt động đa dạng, phong phú được chọn lọc;
kết hợp tính dân tộc, tính hiện đại, tính cộng đồng và độc đáo tạo ra một
không gian đầy ắp hương vị, sắc màu đậm đà và rực rỡ của đồng bào dân tộc
Khmer Kiên Giang [107].
30
Lễ hội giỗ 4 nhà sư liệt sĩ - Châu Thành
Cứ vào ngày 10/6 dương lịch hàng năm, tại Tháp 4 sư, nằm ở xã Vĩnh
Hòa Hiệp, huyện Châu Thành các vị sư sãi ở các nơi trong tỉnh tập trung về
tiến hành làm lễ cầu siêu cho 4 vị sư người Khmer: Danh Hùng, Danh
Hom, Danh Tấp, Danh Hoi. Bốn vị sư đã hy sinh anh dũng trong cuộc biểu
tình chống Mỹ và bọn tay sai vào năm 1974 tại Rạch Giá. Cuộc biểu tình
đã gây nên tiếng vang lớn làm cho địch hoang mang và không dám bắt sư
sãi đi lính nữa. Tháp 4 sư liệt sĩ đã được công nhận là di tích lịch sử cấp
Quốc gia. Đây là lễ hội truyền thống cách mạng lớn nhất của đồng bào dân
tộc Khmer trong tỉnh [107].
Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương - Tân Hiệp
Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10-3 âm lịch chính thức trở thành
ngày Quốc lễ, ngày hội lớn quy tụ cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ở
Kiên Giang, hàng năm cứ đến ngày 10/3, hàng chục ngàn người con đang sinh
sống, học tập, làm việc ở mảnh đất Kiên Giang và các tỉnh, thành trong khu
vực đều hội tụ về Tân Hiệp dâng một nén nhang thành kính lên Quốc Tổ Vua
Hùng. Đền Hùng quốc tổ huyện Tân Hiệp do người dân ấp Đông Bình tự
nguyện đóng góp thành lập từ năm 1957. Đền ban đầu chỉ bằng vật liệu đơn
sơ, nhằm làm nơi thờ cúng các vị Vua Hùng và nhớ về đất tổ. Lễ hội diễn ra
trong hai ngày (mùng 9-10/3 âm lịch). Phần hội được tổ chức vào ngày 09/3
âm lịch với các hoạt động văn hóa, văn nghệ và nhiều trò chơi dân gian. Hoạt
động diễn ra tưng bừng, náo nhiệt trong khuôn viên đền. Buổi sáng ngày 10/3
âm lịch nghi lễ tưởng niệm các Vua Hùng được tổ chức trang trọng theo nghi
thức hàng năm. Qua các hoạt động trên, nhằm giáo dục truyền thống “Uống
nước nhớ nguồn” cho các thế hệ trẻ và ý chí đoàn kết tự lực vươn lên xây
dựng quê hương Kiên Giang ngày càng giàu đẹp [107].
Lễ hội giỗ đức khai trấn Mạc Cửu - Hà Tiên
Đã trở thành truyền thống hàng năm, Hà Tiên đều tổ chức lễ hội giỗ
đức khai trấn Mạc Cửu, là người có công đầu trong việc khai phá nên vùng
đất Hà Tiên cách đây đã hơn 300 năm. Vào đầu thế kỷ thứ 18, Mạc Cửu trên
31
đường tha hương lập nghiệp, ông đã đặt chân đến Hà Tiên, còn gọi là Phương
Thành, một vùng đất có vị trí thông thương thuận lợi, phong cảnh hữu tình.
Ông đã quyết định dừng chân nơi đây bắt đầu cho công cuộc mở đất. Phần lễ
được giữ theo thông lệ với các nghi lễ truyền thống như cúng tiền hiền, hậu
hiền, chiêm bái. Tại Đền thờ họ Mạc, mọi người tổ chức lễ thỉnh sắc và dâng
hương tại Tượng đài Mạc Cửu. Ngoài ra phần hội được mở rộng với các hoạt
động phong phú như: Hội chợ thương mại, biểu diễn võ thuật, biểu diễn lân
sư rồng, biểu diễn văn nghệ và các trò chơi dân gian…[107].
Lễ hội Phan Thị Ràng (Chị Sứ) - Hòn Đất
Lễ hội kỷ niệm ngày hy sinh của Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân Dân
Phan Thị Ràng diễn ra từ ngày 07 đến ngày 09/01 dương lịch hàng năm tại khu
di tích lịch sử Hòn Đất. Phần hội diễn ra trong hai ngày 07-08/01, với nhiều hoạt
động như: chương văn nghệ của các đoàn nghệ thuật, thi tìm hiểu “Lịch sử Hòn
Đất Kiên Giang” và “Nữ Anh hùng liệt sỹ Phan Thị Ràng”; hội chợ; triển lãm
ảnh; chiếu phim phóng sự về Hòn Đất; tọa đàm; các trò chơi dân gian; giải bóng
chuyền, giải Việt dã và giải đua bò... Đêm ngày 08/01 là chương trình sân khấu
hóa khai mạc lễ hội để phục vụ công chúng trong tỉnh.
Phần lễ dâng hương diễn ra vào sáng ngày 09/01, với màn trống hội
khai lễ. Sau đó là sự tham gia của các đoàn đại biểu mang theo mâm ngũ quả,
đọc diễn văn chào mừng và ôn lại truyền thống lịch sử của Hòn Đất cùng nữ
Anh hùng liệt sỹ Phan Thị Ràng. Kỷ niệm 50 năm ngày hy sinh của Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân Phan Thị Ràng (9/1/1962-9/1/2012) lần đầu tiên
huyện Hòn Đất tổ chức nâng cấp quy mô cấp lễ hội và thu hút đông đảo quần
chúng nhân dân trong khu vực về dự [107].
Lễ hội chị Mai Thị Nương (Giồng Riềng)
Nhằm tôn vinh công lao to lớn của các chiến sỹ cách mạng đã hy sinh
vì độc lập tự do của Tổ quốc, trong đó Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân liệt sỹ Mai Thị Nương là một biểu tượng tiêu biểu của Giồng Riềng,
qua đó giáo dục cho cán bộ và nhân dân trong huyện, nhất là thế hệ trẻ
nhận thức sâu sắc về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân
32
tộc, ý thức tự lực, tự cường, tấm gương anh dũng hy sinh của Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân liệt sỹ Mai Thị Nương, từ đó ra sức làm việc và
cống hiến, góp phần xây dựng quê hương Giồng Riềng ngày càng giàu đẹp.
Lễ hội diển ra trong hai ngày 11,12 tháng 10 hàng năm nhằm kỷ niệm ngày
hy sinh của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Liệt sỹ Mai Thị
Nương (Mai Thị Hồng Hạnh) (12/10/1960). Phần lễ được diễn ra vào ngày
12-10, gồm lễ cúng chánh bái - tế lễ, dâng phẩm tế lễ. Phần hội diễn ra từ
ngày 9 đến 11-10, với các hoạt động như: giải đua ghe ngo; triển lãm ảnh
ngoài trời; chương trình văn nghệ; giải bóng đá mini nữ, trò chơi dân gian
kéo co, nhảy bao, hội thi ẩm thực; giải bóng chuyền nông dân và biểu diễn
múa lân - sư - rồng… Riêng đại biểu mời dự lễ giỗ khoảng 800 người. Lễ
dâng hương với màn trống hội khai lễ, hoạt cảnh sân khấu gồm 3 chương
rạng danh nữ Anh hùng Mai Thị Nương. Sau đó ôn lại truyền thống lịch sử
của Giồng Riềng và nữ Anh hùng liệt sỹ Mai Thị Nương, đọc lời tưởng
niệm và sự tham gia của các đoàn đại biểu lãnh đạo tỉnh, địa phương và
đông đảo quần chúng nhân dân về thắp hương tưởng nhớ nữ Anh hùng đã
hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc [107].
Lễ hội Nghinh Ông - Kiên Hải
Lễ hội Nghinh Ông là một nét đẹp văn hóa của người dân đất đảo Lại
Sơn - Kiên Hải được tổ chức long trọng, trang nghiêm hàng năm vào ngày
15 - 16 tháng 10 (âm lịch) để bày tỏ sự tri ân, sự phù trợ của cá Ông và các
vị tiền nhân đã có công mở đất. Tập tục thờ cá Ông là nét sinh hoạt văn hóa
đặc trưng của cư dân miền duyên hải. Lễ cúng cá Ông ở Lại Sơn tồn tại
hơn 100 năm. Đây cũng là loại hình lễ hội cầu ngư, cầu cho mưa thuận gió
hòa, làm ăn trên biển thuận lợi, là dịp để bà con tổng kết lại những chuyến
đi biển trong năm. Phần lễ là lễ cúng thỉnh (cung nghinh) các vị thần. Lễ
Nghinh Ông và Chánh tế được tiến hành với sự tham gia đông đảo của tất
cả ngư dân trên đảo. Ngoài ra, phần hội còn có các trò chơi dân gian như
bịt mắt đập niêu, đua xuồng chèo, kéo co, thi ẩm thực với các món ăn miền
biển, và hoạt động đờn ca tài tử [107].
33
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực – Kiên Giang
Nguyễn Trung Trực, vị Anh hùng dân tộc mà tên tuổi gắn liền với
những chiến công vang dội đã đi vào trang sử hào hùng, đó là: trận đốt cháy
tàu Espérance trên vàm Nhật Tảo năm 1861 và lần đầu tiên tiêu diệt đồn lũy
đầu não của giặc Pháp ngay tại tỉnh lỵ Rạch Giá vào năm 1868. Nhà thơ yêu
nước Huỳnh Mẫn Đạt đã tự hào ca ngợi khí phách Anh hùng của Nguyễn
Trung Trực “Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa/ Kiếm bạt Kiên Giang khấp
quỷ thần”, thể hiện ý chí độc lập tự do của người dân phương Nam nói riêng,
dân tộc Việt Nam nói chung. Ở tỉnh Kiên Giang có khoảng 15 đền thờ Cụ
Nguyễn tại thành phố Rạch Giá, xã Mỹ Lâm (huyện Hòn Đất), đình Tà Niên
(huyện Châu Thành)…
Với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, hàng năm, vào ngày 26, 27
và 28 tháng Tám (âm lịch), nhân dân Kiên Giang và đồng bào khắp nơi lại hội
tụ về đây tổ chức kỷ niệm ngày hy sinh của Cụ để bày tỏ lòng tri ân, thành
kính đối với người con bất khuất, kiên trung của đất nước. Nhiều năm qua, Lễ
hội truyền thống Nguyễn Trung Trực đã có sức lan toả ngày càng rộng, từ
một lễ giỗ bình thường đã được nâng lên thành lễ hội.
Lễ hội gồm hai phần, phần nghi lễ trang trọng và thành kính theo nghi
thức cổ truyền như: lễ dâng hương, lễ thượng đài kỳ, lễ tế đàn cả, rước sắc
thần; phần hội có nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ sôi động, hấp dẫn: trò
chơi dân gian, đua xuồng, đập nồi, biểu diễn võ thuật, chơi cờ người, thi múa
Lân - Sư - Rồng, thả đèn hoa đăng, thi ẩm thực, triển lãm thư pháp, triển lãm
ảnh đường phố, giao lưu văn nghệ giữa 03 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer... Mỗi
năm số lượng người dân về dự lễ hội ngày càng tăng. Năm 2006 có hơn 500
ngàn, năm 2007 có gần 600 ngàn, năm 2008 có hơn 600 ngàn và năm 2009 có
750 ngàn, năm 2011 có trên 1 triệu lượt người tham dự [106].
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực mang những nét văn hóa
đặc sắc và là lễ hội có quy mô lớn nhất của tỉnh Kiên Giang. So với các lễ hội
khác thì đây là lễ hội có quy mô hoành tráng, thể hiện những nét đặc trưng
của tính cộng mệnh, cộng cảm, cộng sinh với nhiều hoạt động đa dạng, phong
34
phú, ý nghĩa. Lễ hội mang nhiều yếu tố tích cực, những giá trị nhân văn sâu
sắc nhằm giáo dục con người hướng tới những giá trị chân – thiện – mỹ, đó là
tinh thần cộng đồng, tinh thần tương thân, tương ái, tinh thần đoàn kết xây
dựng quê hương đất nước, đồng thời giáo dục con người đạo lý “Uống nước
nhớ nguồn”, đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nó góp phần giáo dục
truyền thống yêu nước của nhân dân ta, làm thỏa mản nhu cầu tín ngưỡng
trong đời sống tinh thần của họ. Có thể thấy, hiếm có một lễ hội nào mà người
dân lại tự giác cùng nhau chia sẻ các giá trị tinh thần và vật chất như lễ hội
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng phổ biến và đậm đà
bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, là
sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá
trình lịch sử; có giá trị đặc biệt trong sự cố kết cộng đồng ngày càng bền chặt
hơn; đồng thời, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là hình thức giáo dục,
chuyển giao cho các thế hệ sau hiểu được công lao của tổ tiên, tỏ lòng tri ân
công đức của các vị Anh hùng dân tộc, các bậc tiền bối đã có công dựng nước,
giữ nước và đấu tranh giải phóng dân tộc. Việc tổ chức lễ hội còn góp phần tích
cực trong giao lưu với các nền văn hóa thế giới, tạo nền tảng vững chắc cho văn
hoá Việt Nam có sức mạnh chống lại sự ảnh hưởng tiêu cực của văn hoá ngoại
lai. Lễ hội góp phần làm giàu các giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Là một tỉnh có điều kiện tự nhiên, địa lý kinh tế quan trọng với nhiều lễ
hội phong phú đa dạng. Văn hóa truyền thống ở Kiên Giang đã góp phần
không nhỏ trong việc làm giàu các giá trị văn hóa của dân tộc. Vì vậy, các giá
trị văn hóa đó cần phải được bảo tồn và phát huy nhằm tiếp tục xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
35
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC
Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY
2.1. SỰ RA ĐỜI CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC
2.1.1. Tiểu sử Nguyễn Trung Trực
Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, tục gọi “Quản Chơn”
hay “Quản Lịch”, sinh năm Mậu Tuất (1838) tại Bình Nhật, huyện Cửu An,
phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là ấp 1, xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh
Long An). Cha của Nguyễn Trung Trực là ông Nguyễn Văn Phụng (có tài liệu
ghi là Nguyễn Trung Thăng hoặc Nguyễn Cao Thăng), cháu nội ông Nguyễn
Văn Đạo, quê gốc xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát,
trấn Bình Định (nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình
Định). Mẹ của ông Nguyễn là bà Tô Kim Hồng. Nguyễn Trung Trực là con cả
trong gia đình có 7 người con. Ông được học hành cả văn lẫn võ. Về võ, ông
được đào tạo tại một lò võ ở Rạch Bảo Định, chung với Huỳnh Công Tấn và
Nguyễn Văn Điền. Dựa vào tính tình cương trực, chơn chất hay cưu mang
giúp đỡ kẻ thế cô, thầy đặt cho ông tên chữ Hán là “Trực” (tính tình cương
trực, thẳng thắng).
Tỉnh Rạch Giá thuộc trấn Hà Tiên được thành lập năm 1708, sau này
được chia thành một số tỉnh thuộc Lục Tỉnh. Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp
chiếm vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh trong đó có Rạch Giá. Năm Kỷ Mùi (1859)
thực dân Pháp đã chiếm tới thành Gia Định. Năm Tân Dậu (1861), Trương
Định lúc đó giữ chức Phó Quản Cơ Gia Định đã chiêu mộ nghĩa sỹ được gần
6000 người, lập ra sáu cơ tổ chức đánh giặc Pháp xâm lược. Vua Tự Đức
phong cho Trương Định chức Quản Cơ, rồi thăng chức Phó Lãnh binh Gia
Định. Ông phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Tri Phương đánh giặc ở Đại
Đồng - phía tây Sài Gòn thu được khá nhiều vũ khí của giặc, chiếm được đồn
và cầm cự được một thời gian. Sau khi đại đồn bị thất thủ, quân của triều đình
36
theo lệnh rút về Biên Hòa. Trương Định cho thu quân về đóng đồn ở xứ Gò
Thượng, thuộc huyện Tân Hòa (Tiền Giang) để cũng cố lực lượng. Tại đây,
Nguyễn Trung Trực đã gia nhập nghĩa quân chống Pháp do Trương Định lãnh
đạo. Với lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc Ông đã bộc lộ tài năng, đức
độ của một thủ lĩnh xuất sắc trong hàng ngũ nghĩa quân nên được Trương
Định trọng dụng, cất nhắc giao cho làm Quyền Sung quản binh đạo.
Ngày 10-12-1861 Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân lập nên chiến
công vang dội, đốt cháy tàu Espérance trên vàm Nhật Tảo làm thiệt mạng 17 tên
địch. Sau chiến thắng này hàng loạt cuộc tấn công khác đánh vào tàu địch liên
tiếp nổ ra ở Bến Lức, sông Trà... làm cho lực lượng hải quân Pháp lúng túng, bị
động. Một viên tướng Pháp từng đánh giá chiến thắng Nhật Tảo là "Khúc nhạc
mở đầu cho cuộc tổng công kích hầu như toàn bộ các đồn lũy của người Pháp”.
Ngày 16-6-1868, ông chỉ huy nghĩa quân kết hợp với nội ứng tấn công
đồn Rạch Giá. Tất cả giặc Pháp và lính tay sai giữ đồn đều bị nghĩa quân giết
sạch. Sau chiến công vang dội của Nguyễn Trung Trực, giặc Pháp điên cuồng
truy sát ông cùng nghĩa quân. Chúng tàn sát 700 người dân Rạch Giá để trả
thù trận tấn công đồn Rạch Giá. Tên Việt gian Trần Bá Lộc được cử từ Cái Bè
đến Rạch Giá đối phó với Nguyễn Trung Trực. Hắn đặt giải thưởng 500 đồng
cho ai bắt được hoặc dâng thủ cấp của ông. Độc ác hơn nữa, hắn còn cho bắt
sống mẹ của ông khi ông từ Hòn Chông ra Phú Quốc. Ngày 19-9-1868 tên
quan tư của Pháp cùng tên đội trưởng và 125 lính mã tà tấn công Hàm Ninh,
nghĩa quân nghi binh để tiêu hao sinh lực địch rồi cuối cùng đẩy chúng rút
chạy khỏi Hàm Ninh. Bọn giặc gọi thêm viện binh và quay sang tấn công
Dương Đông, Phú Đông, An Thái, Phước Lộc.
Nguyễn Trung Trực quyết định tập trung nghĩa quân đánh trận từ cánh
đồng tràm đến bãi ông Lang. Qua trận chiến đấu ác liệt, ông bị thương và ngất
đi, không may ông bị sa vào tay giặc. Chúng cấp tốc đưa ông về Dương Đông,
sau đó rút quân. Giặc Pháp bắt được ông, chúng giở trò đối xử tử tế. Chúng giải
ông từ Rạch Giá lên Sài Gòn bằng tàu Hải Âu, suốt chặng đường dài hơn một
ngày đêm, tên Việt gian Huỳnh Công Tấn cố hết sức khuyên ông theo Pháp để
37
hưởng chức tước, lợi lộc. Ông gác ngoài tai và khẳng khái nói: "Tôi chỉ muốn
làm một chức thôi, chức gì mà có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây”.
Đến Sài Gòn, Nguyễn Trung Trực bị giam tại khám lớn. Sau cuộc hỏi
cung, thấy không dụ hàng được ông, Pháp Soái bực tức nói: "Ông Lịch, dù
ông sống hay chết, binh lực Pháp cũng sẽ tận diệt quân phiến loạn xứ này".
Nguyễn Trung Trực ung dung mỉm cười đưa tay chỉ ra sân cỏ xanh ôn tồn
đáp: "Thưa Pháp Soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài trừ cho hết cỏ trên
mặt đất thì chừng đó mới mong trừ diệt được những người ái quốc mà ngài
giận dữ coi là quân phiến loạn”.
Đô đốc Nam kỳ bấy giờ là Ohiê, thấy không thuyết phục được Nguyễn
Trung Trực theo Pháp nên đã tuyên án xử tử ông cùng một số nghĩa quân
khác, bản án được thi hành tại Rạch Giá. Ngày 27-10-1868, thực dân Pháp
đưa Nguyễn Trung Trực ra pháp trường (nay là Bưu điện Thành Phố Rạch
Giá). Nhân dân Tà Niên dệt gấp chiếu bông trải kín con đường ông Nguyễn ra
pháp trường. Bất chấp bọn giặc cấm ngặt, nhân dân vẫn đổ ra pháp trường, ai
nấy mắt đỏ hoe. Tại pháp trường, đồng bào đã đặt sẵn một bàn thờ có lư
hương và bày mâm cơm, một đĩa trái cây. Trước bàn thờ, mọi người quì
xuống lạy ba lạy làm lễ tạ ơn ông. Nguyễn Trung Trực yêu cầu thực dân pháp
cởi trói và không bịt mắt để cụ nhìn đồng bào và quê hương trước giờ phút
“ra đi”. Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt cụ, trải xuống đất một chiếc chiếu
thật đẹp cho cụ bước đứng giữa. Ông Nguyễn hiên ngang, dõng dạc trước
quân thù [ 74 ].
2.1.2. Chiến công tiêu biểu
Trong tám năm lãnh đạo phong trào khởi nghĩa (1861 - 1868), Nguyễn
Trung Trực đã nêu cao tinh thần yêu nước bất khuất, đấu tranh anh dũng vì sự
sống còn của dân tộc và làm nên những chiến công oanh liệt chưa từng có
trong buổi đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng “Hỏa hồng Nhật
Tảo” (năm 1861) và trận “Kiếm bạt Kiên Giang” (năm 1868) mãi mãi là những
kỳ tích vang dội trong lòng người dân Việt cũng như câu nói bất hủ của ông:
“Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh tây”. Đã
38
trở thành chân lý đấu tranh chống kẻ thù xâm lược của dân tộc ta. Đó là khí
phách yêu nước của một con người tiêu biểu cho một dân tộc Anh hùng.
Đốt tàu Pháp ở vàm sông Nhật Tảo
Quân Pháp đem quân chiếm Gia Định (18/2/1859). Hai năm sau chúng
lại đánh đại đồn Chí Hòa (25/2/1861) và thừa thắng đánh lấy Định Tường
(Mỹ Tho) (12/4/1861). Quân triều đình phải rút lui về Vĩnh Long, lúc này
Nguyễn Trung Trực lui về Tân An.
Lúc bấy giờ, quân Pháp có lợi thế nhiều về vũ khí như tàu chiến và đại
bác hiện đại, lại thêm triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, chúng càng quyết
chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây Nam Bộ. Trên bộ, nơi nào chiếm được thì lập
ngay xã tề và xây dựng đồn bót. Dưới sông, chúng cho tàu thủy lớn, nhỏ tuần
tra thuyền ghe qua lại. Chúng lấy cớ là ngăn chặn nghĩa quân làm loạn.
Nhưng đó là cái cớ để thu gom tiền bạc, lúa thóc của nhân dân.
Tại ngã ba, đầu sông Nhật Tảo và sông Vàm Cỏ Đông, chúng đặt một
chiếc tiểu hạm tên là Espérance (Hy Vọng) nằm án ngữ nơi đó để đón thuyền
ghe qua lại tra xét. Tiểu hạm Espérance là “một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng
chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại bác
cùng nhiều vũ khí đa năng" [49, tr.76]. Đây là một trong những tàu thuộc hàng
bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ. Chỉ huy trưởng tàu này là Trung úy Hải
quân tên Parfait, còn chỉ huy phó là một thiếu úy (không rõ tên). Dưới tàu có
trang bị một khẩu đại bác với 25 quân lính Pháp và đầy đủ súng ống, đạn dược.
Trên bờ sông có đóng một cái đồn với 20 lính Mã tà canh gác bảo vệ tàu.
Đây là một bước cản rất lớn cho sự hoạt động của nghĩa quân. Nguyễn
Trung Trực biết rõ thế nên bằng mọi cách Ông quyết tiêu diệt con tàu này.
Qua nhiều ngày nghiên cứu tình hình địch khá chính xác, ông liền chuẩn bị
kế hoạch thực hiện. Vào trưa ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng phó
quản binh Huỳnh Khắc Nhượng và Nguyễn Văn Quang tổ chức cuộc phục
kích đốt cháy tàu Espérance. Trận này nghĩa quân toàn thắng, dìm được hải
hạm Esperance chìm sâu dưới lòng sông Vàm Cỏ “mang theo 17 tên giặc
xâm lăng, nghĩa quân hi sinh bốn người” [33, tr.17].
39
Đây là chiến công vang dội trong những năm đầu chống thực dân
Pháp. Lần đầu tiên nhóm dân chài bằng vũ khí thô sơ và mưu trí đã tiêu diệt
được chiến hạm của Pháp được trang bị vũ khí hiện đại. Chính vì vậy mà
thực dân Pháp cay cú đốt hàng loạt nhà, chặt phá cây cối của làng Nhựt Tảo
để trả thù và dựng bia kỷ niệm thất bại ngay tại vàm Nhựt Tảo.
Quả thật chiến công đốt tàu Espérance tác động mạnh tinh thần chiến
đấu của nghĩa quân vì từ nay nghĩa quân không còn xem tàu chiến của Pháp
là bất khả xâm phạm nữa và tin tưởng tầm vông, mã tấu cũng là vũ khí tinh
nhuệ nếu biết kết hợp với mưu lược và nghiên cứu tường tận địa hình địa vật.
Còn với Pháp, viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi
đây là: “một sự kiện đau đớn” làm người An Nam phấn chấn và gây xúc
động, đau lòng sâu sắc trong lòng người Pháp” [49, tr.11].
Đánh chiếm đồn Kiên Giang.
Sau khi chiếm được Hà Tiên và Kiên Giang ngày 24/6/1867, thực dân
Pháp liền nâng chợ Rạch Giá, vốn là huyện lỵ Kiên Giang lên cấp hành chính
tỉnh lỵ Rạch Giá, quản hạt luôn cả vùng Cà Mau (huyện Long Xuyên cũ). Chúng tổ chức ra ban hội tề và đội lính mã tà với ý đồ “lấy người bản xứ trị người bản xứ”. Chúng lập ra ty thương chánh để vơ vét các loại thuế thương
mại. Trong sông, rạch chúng cho canô suốt ngày chạy khắp nơi đón ghe
thuyền xét tra thu thuế. Gần vàm biển Rạch Giá, chúng xây một đồn lớn
thành bằng đất, giữa là trại lính mã tà, trại lính Pháp. Đứng đầu bộ máy đàn
áp là tên Chánh Phèn khét tiếng gian ác.
Sau khi được vua Tự Đức phong chức Thành Thụ úy trấn nhậm Hà
Tiên, Nguyễn Trung Trực đến Hà Tiên nhậm chức thì quân Pháp đã chiếm
Hà Tiên mất rồi. Nguyễn Trung Trực liền lui về Hòn Chông lập căn cứ chống
Pháp với khẩu hiệu “dân chúng tự vệ”.
Hòn Chông là một mũi đất nằm trong đất liền, cách Hà Tiên 20 km về
phía Nam. Đường vào Hòn Chông hiểm trở, xung quanh có núi rừng và biển
bao bọc. Nguyễn Trung Trực thu thập 50 binh sĩ của triều đình đóng ở đồn Hòn
Trẹm, chiêu mộ dân đinh nhập ngũ, tất cả đều hưởng ứng. Hòn Chông là căn cứ
chính của nghĩa quân. Sau đó Nguyễn Trung Trực liên hệ với các lãnh tụ nghĩa
40
quân địa phương thành lập lực lượng kháng chiến lâu dài. Ở Rạch Giá có Lâm
Quang Ky, ở Minh Lương có Xã Lý, ở Phú Quốc có Quản Thứ, Tổng Điền, Xã
Ngợi... Ông còn vận động một số người Hoa, người Kh’mer như cô Ba Đỏ cùng
tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra còn nhiều binh sĩ chịu
làm nội ứng giúp nghĩa quân phối hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào.
Nguyễn Trung Trực làm chủ tướng, Lâm Quang Ky làm Phó tướng.
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo cũng rất
rộng lớn từ Cà Mau đến Hà Tiên, Phú Quốc và vùng núi Sập (An Giang).
Ông có ba trường luyện võ cho nghĩa quân: Tà Niên (Rạch Giá), Hòn Chông
(Hà Tiên) và Sân Chim (U Minh). Ông cũng thường đi khắp nơi như Cái
Nước, Chắc Băng, Thầy Ngươn, Tân Hội, Vĩnh Trạch để thuyết giải bối cảnh
lịch sử cho đồng bào nghe, đồng thời vận động những người có cùng chí
hướng tham gia đánh đuổi giặc xâm lăng, giành lại quê hương đất nước. Đến
đâu ông cũng rất được nhân dân yêu mến và kính phục.
Đến 12 giờ đêm ngày 16/6/1868, nghĩa quân thầm lội qua sông bò lên
bờ, tiến sát vào thành đồn không gây tiếng động, nằm im lặng chờ giờ xuất
kích. Nghĩa quân phục kích ngoài vách đồn đến 4 giờ sáng. Chờ giặc uể oải
ngủ yên, Nguyễn Trung Trực men đến cổng gác chính, thấy hai tên lính gác
đang ngủ gà ngủ gật Ông dùng kiếm đâm chết rồi phát lệnh tấn công. Nghĩa
quân nghe tiếng lệnh, đồng bật dậy phi thân qua vách đồn vào trong tìm diệt
địch. Một số lính mã tà trong đồn vì có vận động trước nên cũng tham gia
ứng chiến. Tên Chủ tỉnh Chánh Phèn đêm khuya đang ngon giấc, nghe tiếng
động giật mình thức dậy vừa chạy ra khỏi cửa cũng bị mũi kiếm của Nguyễn
Trung Trực đâm vào tim làm hắn ngã gục, giẫy giụa rồi chết. Ngọn lửa của
nghĩa quân đốt doanh trại giặc bừng sáng rực cả một góc trời.
Tiếng reo hò chiến thắng làm vang động khu phố chợ Rạch Giá về
đêm. Trận này nghĩa quân giết được 15 tên sĩ quan Pháp. Trong đó có tên
Chủ tỉnh Chánh Phèn, Trung úy Sauterne, Thiếu úy Gamard và bắt sống
thêm 60 tên lính nữa, trong đó có tên Chonh - thông ngôn của Pháp. Số tù
binh này sau đó được Nguyễn Trung Trực tha chết.
41
Sau hai ngày (18/6/1868), quân Pháp mới hay tin đồn Kiên Giang đã
mất về tay Nguyễn Trung Trực. Chúng hốt hoảng, tức giận liền kéo viện quân
từ Mỹ Tho, Vĩnh Long đi tiếp viện. Trong đoàn quân này ngoài Trung tá hải
quân Leonard Ansart, còn có hai tên phản quốc Trần Bá Lộc và Đỗ Hữu
Phương. Chúng dùng tất cả vũ lực ồ ạt tấn công phục thù. Vì thế yếu, Nguyễn
Trung Trực đành phải rút lui về Hòn Chông rồi ra Phú Quốc tiếp tục chống kẻ thù
đến ngày hi sinh. Khi Nguyễn Trung Trực rút lui để đồn lại cho Phó tướng Lâm
Quang Ky giữ. Ông Lâm Quang Ky quyết liệt chống cự với Pháp được ít lâu rồi
cũng bị chúng bắt chặt đầu đem bêu giữa chợ để răn đe dân chúng [33, tr.26 ].
2.1.3. Ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo
Nhìn lại sự nghiệp kháng chiến của Nguyễn Trung Trực mà tiêu biểu là
hai chiến thắng đốt tàu Pháp ở vàm sông Nhật Tảo và đánh đồn Tây Kiên
Giang, chúng ta càng thấy rõ hơn tài năng, mưu lược của Ông. Nguyễn Trung
Trực đúng là vị Anh hùng đầy can đảm, táo bạo. Ông áp dụng chiến thuật
thần tốc trong mọi thế trận với quyết tâm diệt địch tại trung tâm đầu não của
chúng. Tuy sử dụng số quân ít ỏi với phương tiện chiến đấu thô sơ bằng giáo,
mác nhưng nghĩa quân đã thắng được kẻ địch có lực lượng hùng hậu, với
phương tiện chiến tranh hiện đại như tàu sắt và súng đạn tầm xa. Nguyễn
Trung Trực thật là một tướng tài, đầy thông minh và can đảm!
Đây thực sự là cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở miền Tây Nam bộ khi thực
dân Pháp đã chiếm được Nam kỳ lục tỉnh. Với chiến công Nhật Tảo, lần đầu
tiên trong lịch sử chống Pháp, ta đã đốt cháy một tàu chiến địch. Với chiến
công đánh đồn Kiên Giang, ta đã đánh thẳng vào đồn giặc ở ngay trung tâm
đầu não của chúng, kiểm soát và làm chủ tỉnh lỵ trong nhiều ngày. Cả hai
trường hợp đều nói lên sự mưu trí, dũng cảm, táo bạo, quyết tâm cao độ của
nghĩa quân. Chính thực dân Pháp cũng phải thừa nhận rằng việc Nguyễn
Trung Trực và nghĩa quân hạ đồn Kiên Giang là một “biến cố bi thảm, mà
hậu quả có thể làm tổn thương đến uy tín của người Pháp ở Việt Nam”.
Cuộc khởi nghĩa cũng nổi bật lên ở tính chất nhân dân đậm nét. Lãnh
tụ Nguyễn Trung Trực xuất thân từ thành phần dân chài, có lẽ nhờ thế mà dễ
42
thu hút nghĩa quân hầu hết là những người lao động. Trong quá trình xây
dựng lực lượng và chiến đấu ở Hòn Chông, Phú Quốc, cuộc khởi nghĩa đã
phát động được lực lượng nông dân và ngư dân gia nhập nghĩa quân, đóng
góp lương thực, xây dựng doanh trại, đào đắp công sự, phòng gian bảo mật,
theo dõi cung cấp địch tình, móc nối nhân dân làm nội ứng trong hàng ngũ
địch. Quần chúng dưới sự lãnh đạo và tài chỉ huy của Nguyễn Trung Trực đã
tỏ rõ tấm lòng yêu nước nồng nàn, không nề gian khổ hi sinh, quyết “một mất
một còn với giặc”.
Chiến công táo bạo đốt tàu địch ở Nhật Tảo, tiêu diệt đồn Kiên Giang
sở dĩ thành công còn có nguyên nhân quan trọng là nhờ biết làm binh vận,
vận động được một số lính mã tà làm nội ứng cho trận tấn công đồn. Sau khi
đồn bị diệt, số mã tà còn lại đã tự nguyện gia nhập nghĩa quân.
Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực còn chứng tỏ sự đoàn kết
chặt chẽ giữa đồng bào Việt và đồng bào Kh’mer. Cuộc khởi nghĩa đã diễn ra
trên địa bàn Rạch Giá - Hà Tiên là nơi đồng bào Kh’mer chiếm một tỉ lệ lớn
trong cư dân. Trong chiến công diệt đồn và trong các cuộc hành quân chiến
đấu có sự tham gia trực tiếp của đồng bào Kh’mer ở căn cứ Hòn Chông, ở Tà
Niên là nơi tập trung cất giấu nghĩa quân, từ đó xuất phát tiến về Rạch Giá
diệt đồn giặc, nghĩa quân cũng đã được đồng bào Kh’mer giúp phát hiện và
bắt giam kẻ gian theo địch cũng như trong việc theo dõi tình hình địch.
Trong tâm trí của mỗi người dân Kiên Giang đều dành cho Nguyễn
Trung Trực một vị trí trang trọng đến thiêng liêng. Cuộc đời, sự nghiệp,
chiến công của Nguyễn Trung Trực còn lưu truyền mãi cho đến những thế
hệ sau. Chiến công kiếm bạt Kiên Giang mãi mãi vang lên bản Anh hùng
ca của nhân dân Kiên Giang nửa cuối thế kỉ XIX, Nguyễn Trung Trực mãi
mãi là niềm tự hào của nhân dân địa phương, là biểu tượng về người Anh
hùng xả thân cứu nước, làm vẻ vang cho Tổ quốc Việt Nam, cho quê
hương. Câu nói của Nguyễn Trung Trực mãi mãi vang dội trong lòng
người dân Việt: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết
người Nam đánh tây” [33, tr.40].
43
2.1.4. Lịch sử hình thành đình thần và lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được tổ chức hàng năm
tại đình thờ chính là “Đình thần Nguyễn Trung Trực”. Đây là một trong
những ngôi đình cổ gắn liền với lịch sử văn hóa của cư dân Rạch Giá. Khởi
đầu đây là miếu cất để thờ Cá Ông được gọi là “Lăng Ông Nam Hải”. Sau
này trở thành đình thờ Thành hoàng bổn cảnh của làng Vân Tập. Hiện đình
còn lưu giữ 02 bản sắc phong: “Sắc phong Thành hoàng bổn cảnh” (sắc
phong thần Thành hoàng bổn cảnh của làng Vân Tập) và “sắc Đại Càn quốc
gia Nam Hải đại tướng quân tôn thần - Tự Đức ngũ niên ngày 29 tháng 11
năm Nhâm Tý” (sắc phong thần Nam Hải), được ghi vào năm Tự Đức thứ
năm (1852). Sau khi Nguyễn Trung Trực bị xử chém tử hình, người dân ở
Kiên Giang đã bí mật lập bài vị thờ ông tại đây và hàng năm đến ngày giỗ đều
tổ chức cúng cơm theo phong tục cổ truyền nhưng dưới danh nghĩa lễ cầu an.
Đến năm 1881, các hương chức làng và nhiều người trong vạn lưới
thấy đình bị hư hỏng nặng nên bàn bạc vận động xây dựng lại ngôi đình. Diện tích xây dựng lại ngôi đình khoảng 120 m2 có chiều dài 20 m, ngang 9m, cột tròn bằng cây sơn đá, xuyên kèo bằng cây thao lao, nền lót gạch tàu. Sau khi
xây dựng xong ngôi đình, ban hương chức làng Vĩnh Thanh Vân cũng là ban
quản lý ngôi đình này gọi là đình làng Vĩnh Thanh Vân (Vĩnh Thanh Vân là
tên của 03 làng nhập lại : Vĩnh Hòa, Thanh Lương, Vân Tập).
Trải qua hơn 80 năm ngôi đình bị xuống cấp (từ 1881 đến 1964) nên
ban quản lý đình mới vận động nhân dân đóng góp xây lại ngôi đình. Đình
được khởi công xây dựng ngày 20/11/1964 và khánh thành vào ngày
24/02/1970 do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết kế. Nhân dịp này, nhân dân
địa phương đã tạc tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng đen, đặt trước khu
“chợ nhà lồng” Rạch Giá, hằng năm đều tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể.
Năm 1972 xây dựng hoàn tất cổng đình và từ đó đến nay đình chính thức
mang tên “Đình thần Nguyễn Trung Trực”. Hiện nay đình thờ Anh hùng dân
tộc nguyễn Trung Trực ở phía Tây của trung tâm thành phố Rạch Giá, trên
44
đường Nguyễn Công Trứ. Mặt đình quay ra cửa biển và cách biển Rạch Giá
độ vài trăm mét.
Đình Nguyễn Trung Trực được xây theo kiểu chữ tam, gồm có chánh
điện, Đông lang và Tây lang. Cột kèo bằng bêtông, mái lợp ngói. Cổng đình
có ba cửa (dạng cổng tam quan). Phía trước chánh điện có đặt một lư hương
lớn, lúc nào cũng nghi ngút khói hương và một bức tượng Nguyễn Trung
Trực đúc bằng đồng đen. Bên cạnh đình có cây đa cổ thụ quanh năm tỏa
bóng. Cổng đình khang trang, hai bên là đôi câu đối bằng chữ quốc ngữ được
đắp nổi sơn vàng trên nền đỏ nổi bật với hai câu thơ của Huỳnh Mẫn Đạt ca
ngợi chiến công hiển hách của người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp qủy thần. [74, tr.29].
Trên nóc mái đình được trang trí cảnh “lưỡng long tranh trân châu”,
các góc mái đắp hình lá cúc tần cách điệu và hình rồng. Tất cả các mảng phù
điêu trên được làm bằng xi măng cẩn những mảnh gốm nhiều màu rất đẹp. Cửa
đình có hai cột đắp nổi hình rồng uốn lượn từ dưới lên quấn quanh cột, biểu
tượng cho uy quyền và sức mạnh. Trong đình có 10 cây cột bằng bêtông, mỗi
cột có chân đế hình bát giác, phía trên hình bát giác có đắp nổi hai lớp cánh sen.
Phần bày trí thờ trong chánh điện có rất nhiều bài vị thờ như: phía
ngoài là bài vị chánh soái đại càn, di ảnh Nguyễn Trung Trực, chư vị hội
đồng trăm quan cựu thần, thờ tiền hiền, đồng bào nghĩa quân liệt sĩ. Phía
trong có ba ngai thờ chính của đình, chính giữa là ngai thờ của Nguyễn Trung
Trực, bên trái là ngai thờ cụ phó cơ Nguyễn Hiền Điều, phó lãnh binh Lâm
Quang Ky, bên phải là ngai thờ thần Nam Hải Đại Tướng Quân. Đứng sát đất
trước ngai thờ Nguyễn Trung Trực là tượng hai con hạc cỡi rùa, mỗi con cao
khoảng 2,5m, miệng ngậm chuỗi hạt. Trên nóc là bức hoành phi có ghi bốn
chữ: “Anh khí như hồng”, có nghĩa là khí tiết của người Anh hùng rực rỡ như
cầu vòng bảy sắc.
Trong khuôn viên đình thần Nguyễn Trung Trực là nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của cụ có diện tích trên 250 m2, mô phỏng theo kiến trúc
45
truyền thống. Khánh thành ngày 03 tháng 08 năm 2013 nhân kỷ niệm 145 năm
ngày hi sinh của ông. Chủ đề chính của nhà trưng bày là 02 chiến công nổi tiếng
của Nguyễn Trung Trực thông qua 02 mô hình trận đánh tàu ở Vàm Nhựt Tảo
và trận đánh đồn Kiên Giang. Một số hình ảnh và hiện vật sưu tầm được như nồi
đồng, mãnh ván thuyền, ngọn giáo...cùng một số tặng vật do khách thập phương
hiến tặng được trưng bày phục vụ khách tham quan mỗi ngày.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
Người dân tỉnh Kiên Giang luôn quý trọng và cảm phục đức độ, tài
năng, lòng dũng cảm, chiến đấu quên mình hi sinh vì dân, vì nước của Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Nhưng trước năm 1975 chưa lần nào tổ
chức lễ cúng giỗ long trọng.
Ngày 7 và 8 tháng 10 năm 1988, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang tổ
chức hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực nhân kỷ niệm 120 năm ngày hi sinh của ông. Sau hội thảo này,
Ủy ban nhân dân tỉnh chính thức đưa lễ giổ cụ Nguyễn thành lễ hội tiêu biểu
của tỉnh và cùng với Ban bảo vệ đình thần Nguyễn Trung Trực tổ chức lễ giổ
hàng năm rất trang nghiêm, long trọng. Từ năm 1988, lễ giỗ Anh hùng
Nguyễn Trung Trực đã trở thành lễ hội của thành phố Rạch Giá, của tỉnh
Kiên Giang và nhân dân nhiều tỉnh trong khu vực.
Xuất phát từ truyền thống tín ngưỡng thần quyền của văn hóa dân
gian, biểu hiện dưới hình thức thờ cúng tổ tiên, thần thánh và các vị Anh hùng
dân tộc, Anh hùng Nguyễn Trung Trực được nhân dân tôn vinh như một vị thần
bảo vệ quê hương đất nước. Trải qua tháng năm, tinh thần yêu nước Nguyễn
Trung Trực được dân gian hóa ít nhiều qua những câu chuyện truyền miệng.
Chính điều đó là một trong những yếu tố khiến cho tín ngưỡng dân gian về ông
sâu đậm thêm, tạo cơ sở vững chắc cho sự hình thành lễ hội lớn mang tên ông.
Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, hàng năm, cứ vào ngày 26,
27 và 28 tháng 8 (âm lịch), lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày hy sinh của Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được tổ chức trang trọng; người dân Kiên
Giang và đồng bào khắp nơi lại hội tụ về đây để bày tỏ lòng tri ân, thành kính,
46
tôn vinh đức tài, chiến công của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực - vị
thần do chính nhân dân phong tặng. Nét độc đáo mỗi khi nói đến lễ hội
Nguyễn Trung Trực hàng năm là trước ngày chính thức diễn ra lễ hội, người
dân khắp nơi về đây để làm công quả, chung tay sửa sang đình thờ, dựng trại,
đắp lò nấu cơm bằng tấm lòng tôn kính, thành tâm chăm lo ngày giỗ của cụ
Nguyễn. Đây là một mô hình lễ hội độc đáo của khu vực mang tính cộng đồng
rất cao, người đi hội cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng hưởng thụ những thành
quả lao động mà mình đã góp phần trong lễ hội và khi ốm đau được khám bệnh,
cấp thuốc miễn phí, bố trí chỗ nghỉ miễn phí. Đặc biệt là sau lễ giỗ, những sản
vật dâng cúng của nhân dân đều được sử dụng để cứu tế cho dân nghèo, các bếp
ăn từ thiện trong bệnh viện, các trung tâm bảo trợ xã hội…
Để thực hiện tốt kế hoạch phục vụ lễ hội, Ban tổ chức lễ hội còn lập ra
Ban điều hành lễ hội, trong đó có các Tiểu ban có trách nhiệm thực hiện đúng kế
hoạch, chương trình lễ hội do Ban tổ chức đề ra. Ban bảo vệ di tích đình Nguyễn
Trung Trực - thành phố Rạch Giá đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ
phận tham gia phục vụ công tác tiếp tân, tiếp đãi, quản trị hành chính, hậu cần,
bảo vệ an ninh trật tự và bố trí lực lượng tham gia phục vụ lễ thỉnh sắc thần,
dâng hương, lễ thượng đài kỳ và các lễ tế theo nghi thức cổ truyền… Nhằm đảm
bảo các điều kiện tốt nhất cho người dân và du khách về dự lễ giỗ cụ Nguyễn;
đặc biệt đáp ứng nhu cầu ăn nghỉ của du khách trong thời gian diễn ra lễ hội;
Ban bảo vệ di tích đình Nguyễn Trung Trực đã mời các đơn vị mạnh thường
quân, các tổ chức xã hội đến dự họp để vận động, triển khai chỉ tiêu, kế hoạch
đóng góp lương thực, thực phẩm của từng đơn vị nhằm phục vụ tốt cho lễ hội.
Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá đã phát động phong trào bảo vệ môi
trường sống, môi trường du lịch trên địa bàn thành phố. Công tác bảo vệ trật tự,
an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng cháy chữa cháy được các
cơ quan, đơn vị chuẩn bị chu đáo. Tất cả các công việc chăm lo hậu cần và tiếp
đón khách đã được phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị, cá nhân. Các
ban ngành liên quan có trách nhiệm chuẩn bị cơ sở vật chất, điều kiện tốt nhất để
phục vụ cho cuộc diễu hành và tổ chức lễ hội tại đình an toàn và trật tự.
47
Về phía dân chúng, trước lễ hội, từ khắp nơi hàng trăm người già trẻ,
lớn bé... đến để lo những việc như: dựng cổng chào, nhà tạm để những người
ở xa đến dự lễ hội có chỗ trú, nơi tiếp tân, trại nấu cơm phục vụ suốt thời gian
lễ hội, làm vệ sinh, trang hoàng đình, lau chùi đồ thờ tự, chuẩn bị cờ lọng.
Ngay từ rất sớm, không khí lễ hội đã ngập tràn với các tấm pa-nô, băng rôn,
khẩu hiệu, cờ phướn, hàng ngàn đèn lồng treo theo các trục lộ trung tâm và
các điểm diễn ra lễ hội. Cả nội ô thành phố Rạch Giá lung linh dưới những
ánh đèn lồng đỏ, vàng, vừa gây ấn tượng đẹp, vừa tạo không khí trang
nghiêm, ấm cúng, thể hiện sự biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với tấm gương
hy sinh vì nước của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Chương trình lễ hội chính thức diễn ra trong 03 ngày: ngày thứ 1 - Tiên
Thường; ngày thứ 2 - Chính Lễ; ngày thứ 03 - Hậu Thường (xem phụ lục 2).
Cùng với phần lễ là phần hội. Lúc này bên ngoài cổng đình bắt đầu các
trò chơi dân gian. Tuỳ theo đặc điểm của từng năm, quy mô tổ chức trò chơi
sẽ có nhiều hoặc ít. Lễ hội Nguyễn Trung Trực thừa hưởng nhiều lớp văn hóa
từ cổ xưa đến hiện đại, nên các sinh hoạt hội hè cũng có những thay đổi nhất
định về hình thức và nội dung. Trong lễ hội còn có các các hoạt động biểu
diễn nghệ thuật cải lương, hát bội, đờn ca tài tử, trò chơi dân gian diễn ra
xuyên suốt trong ba ngày ở nhiều địa điểm trên địa bàn thành phố. Một số trò
chơi dân gian với qui mô lớn như: đua xuồng ba lá, hội hoa đăng. Các trò chơi
dân gian như: đập nồi, nhảy bao, kéo co, đẩy gậy, đấu cờ... được tổ chức
thường mang tính cộng đồng, khéo léo hơn là ý nghĩa tôn giáo và phồn thực.
Trò diễn thu hút người tham gia đông đảo nhất là hội thi múa lân. Vốn
xuất xứ từ đồng bào người Hoa với ý nghĩa tôn giáo, nhưng qua sự giao thoa
văn hóa suốt quá trình hội nhập hàng trăm năm của đồng bào người Hoa và
cộng đồng các dân tộc anh em ở đồng bằng sông Cửu Long, múa lân đã trở
thành trò diễn chung của mọi dân tộc trong dịp lễ tết.
Càng về sau, hoạt động hội càng được tổ chức qui mô, hoành tráng, thu
hút hơn. Phần hội diễn ra với không gian rộng với nhiều hoạt động phong
phú, đa dạng, kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, nghệ thuật truyền
thống với các loại hình nghệ thuật hiện đại. Đặc biệt, ngoài các hoạt động vốn
48
có, mỗi năm mỗi mới lại có nhiều nội dung mới, không kém phần độc đáo,
hấp dẫn, có nhiều hoạt động lần đầu tiên tổ chức trong khuôn khổ lễ hội và
được đánh giá cao.
Trước khi lễ hội bắt đầu, đã có nhiều hoạt động được tổ chức như
chương trình biểu diễn thư pháp và triển lãm ảnh về thân thế và sự nghiệp của
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, Hội chợ - triển lãm “Văn hóa -
Thương mại - Du lịch”, Hội chợ văn hóa ẩm thực và phố đi bộ ngày càng mở
rộng không gian và quy mô hơn với hàng trăm món ăn đa dạng, phong phú
của nhiều vùng miền trong cả nước. Cũng chính từ những món ăn đồng quê
ấy đã góp phần gợi nhắc cho mỗi người ý thức, tình cảm hướng về cội nguồn,
tình yêu quê hương, đất nước. Góp phần bảo tồn và phát triển những giá trị
văn hóa truyền thống miền sông nước Nam Bộ, góp phần bảo tồn và phát
triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong những ngày lễ hội, khu vực Công viên tượng đài Nguyễn Trung
Trực và trên những con đường đến đền thờ Cụ, du khách được thưởng thức
cuộc triển lãm ảnh đường phố chủ đề “Kiên Giang - Đất nước - Con người”
có quy mô hơn 200 tác phẩm được phóng trên khổ lớn, giới thiệu đến đông
đảo quần chúng, nhân dân và du khách gần xa hiểu thêm về quê hương - đất
nước con người Kiên Giang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hội thi tìm hiểu thân thế và sự nghiệp Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực được tổ chức. Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu cuộc đời hoạt động
của Cụ Nguyễn, hội thi góp phần giáo dục truyền thống yêu nước chống ngoại
xâm, truyền thống và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ trẻ.
Các hoạt động diễn ra trong lễ hội đã khơi dậy được truyền thống tri ân
và tôn vinh công lao to lớn của người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực,
góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Là dịp để nhân
dân khắp nơi tham gia các hoạt động giao lưu văn hóa, tăng cường khối đại đoàn
kết các dân tộc, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong quá
trình hội nhập và phát triển, và cũng là dịp để Kiên Giang giới thiệu, quảng bá
tiềm năng, lợi thế về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
49
Lễ hội Nguyễn Trung Trực kết thúc vào chiều ngày 29 tháng Tám âm
lịch trong sự tiếc rẻ của khách thập phương. Trước lúc rời lễ hội, mọi người
đều thắp nhang khấn nguyện trước mộ cụ Nguyễn một lần nữa. Nhiều người
còn cố tìm mua di ảnh của cụ Nguyễn để mang về thờ cùng tổ tiên của mình.
Tất cả đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa tinh thần của người dân, góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của lễ hội.
Trong 3 ngày diễn ra lễ hội, khách dù ở xa hay ở gần đều không bỏ lở
dịp được ăn bữa cơm chay của lễ hội. Người ta quan niệm rằng, cơm đình là
cái lộc do thần thánh ban cho, ai được ăn suốt năm sẽ gặp may mắn.
Việc tổ chức các bữa cơm trong ngày lễ hội là một tập quán lâu đời, có
thể gặp ở bất kỳ sinh hoạt, lễ hội, đình đám nào tại đồng bằng sông Cửu
Long, tập quán mang tính phồn thực này là sản phẩm của nền văn minh lúa
nước thuộc về những lớp văn hóa xa xưa. Bữa cơm đình còn phản ánh phần
nào tài tổ chức cũng như tài ẩm thực của người dân Nam Bộ, họ biết khéo léo
thu vén sao cho bữa ăn đông người nhưng không trở nên quá ồn ào, chật hẹp.
Mâm cơm đình đầy màu sắc và hương vị được chế biến toàn bằng rau, củ,
quả... những thứ "cây nhà lá vườn" đặc sản Nam Bộ. Công việc phục vụ bữa
ăn, dù người lớn hay trẻ nhỏ đều phục vụ như nhau [4, tr.4].
2.2. CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC
NGUYỄN TRUNG TRỰC
2.2.1. Giá trị thỏa mãn nhu cầu tinh thần
Là giá trị thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương.
Mọi người đến với lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đều mang
trong mình một tâm linh hướng về cõi siêu nhiên. Những người đã xả thân vì
tổ quốc, “sống khôn, thác linh”. Họ gạt bỏ những bộn bề trong cuộc sống
thường ngày, những lo toan, bon chen, tính toán. Họ đến lễ hội với tâm thế
của những người “phàm tục” mong muốn được “ơn trên” ban phước, “chứng
giám” cho tấm lòng thành. Là nơi họ có thể trút những suy tư, cầu lấy may
mắn cho gia đình, cho bản thân, đây là điều mà tiền bạc dù nhiều đến bao
nhiêu cũng không bao giờ mua được. Đến với lễ hội Nguyễn Trung Trực
50
người dân ai ai cũng hồ hỡi, vui mừng như quên đi hết âu lo, cực nhọc thường
ngày hòa nhập vào không khí thiêng liêng của lễ hội. Với bà con xa gần khắp
các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, lễ hội còn là nơi họ gặp gỡ, thăm hỏi
quan tâm lẫn nhau. Những giá trị tinh thần to lớn đó trở thành niềm vui và
động lực trong cuộc sống của họ.
Bởi vậy không có gì khó hiểu khi hàng ngàn đồng bào cả nước từ hàng
chục năm nay thường xuyên đến chiêm bái đền thờ cụ Nguyễn với khát vọng
cầu mong dồi dào sức khỏe, làm ăn phát đạt. Đối với tín ngưỡng dân gian
chính là ước nguyện vươn tới một thế giới an lạc; cầu xin “tai qua nạn khỏi”,
hoặc tìm kiếm một niềm an ủi để làm vơi bớt nỗi đau khổ của trần gian, hay
vui vẻ chấp nhận vì hiểu điều đó như được an bày, quyết định bởi lực lượng
siêu nhiên.
Đến với lễ hội chính là tìm lại bản sắc văn hóa dân tộc, con người được
hòa mình trong không khí từng bừng của lễ hội và trải nghiệm trong môi
trường văn hóa thân quen. Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
mang đến cho người tham gia lễ hội một không gian mới, một cuộc sống mới
thông qua các diễn xướng, trò chơi dân gian truyền thống, từ những trang
phục đẹp trong lễ hội, đến cách giao tiếp văn hóa mang lại cho con người
trạng thái thăng hoa từ cuộc sống hiện thực.Bên cạnh đời sống vật chất, đời
sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của
con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân, thiện, mỹ - cái mà con
người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín
ngưỡng. Tin rằng sẽ được cụ Nguyễn phù trợ, giúp đỡ cho cuộc sống của
mình và gia đình. Con người luôn có nhu cầu lớn về đời sống vật chất và tinh
thần. Bên cạnh cuộc sống vật chất, cuộc sống hiện thực thì các yếu tố thuộc
về lĩnh vực tinh thần là nhu cầu không thể thiếu, nó giúp con người cân bằng
trong đời sống thực tại. Trong cuộc sống thế tục, con người đôi khi bất lực
trước sức mạnh tự nhiên, có lúc họ bế tắc trong sự giải thoát và phải tìm đến
nguồn sức mạnh tinh thần, tìm đến sự che chở phù hộ của tổ tiên dòng tộc,
của thành hoàng, của các vị thần, từ đó giúp họ có niềm tin tạo nên động lực,
51
sức mạnh để vượt qua khó khăn trong lao động sản xuất và cuộc sống. Ông
Bùi Văn Thành phó ban bảo vệ di tích đình thần cho biết: rất nhiều người
mang lễ vật đến đình nhân lễ giỗ cụ Nguyễn họ nói với ông đây chính là sản
phẩm họ tự trồng để mang đến lễ giỗ. Cứ vào vụ mùa họ chừa một phần đất
nho nhỏ hẳn hoi để gieo trồng riêng các sản vật chờ đến lễ giỗ cụ Nguyễn là
thu hoạch. Họ cho rằng nhờ ông Nguyễn phù hộ mà mùa màng tươi tốt, làm
ăn khấm khá nên phải đến lễ hội để tạ ơn.
2.2.2. Giá trị giáo dục truyền thống
Giáo dục truyền thống chính là giá trị quan trọng nhất trong lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Lễ hội nhằm tưởng nhớ đến sự chiến đấu
hi sinh anh dũng của cụ Nguyễn và các nghĩa sĩ đối với đất nước điều đó đã
chứng tỏ cho giá trị giáo dục truyền thống mà lễ hội mang lại. Với những thế
hệ sau họ khó có thể hiểu được những vất vả, những hi sinh của thế hệ cha
ông làm nên cuộc chiến tranh vĩ đại giành độc lập cho dân tộc. Việc giáo dục
truyền thống không thể chỉ qua sách vở, giáo điều. Ngược lại đến với lễ hội
mọi người được trực tiếp thấy, trực tiếp nghe những câu chuyện về cuộc
chiến đấu anh dũng của nghĩa quân.
Những nghi thức cúng tế, những trò chơi dân gian truyền thống trong
lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực thường có nguồn gốc xuất
phát từ cuộc đời, sự nghiệp và những chiến công tiêu biểu của ông. Tất cả
những “tích” như vậy đều có hạt nhân cơ bản là mong ước, sở nguyện của
đông đảo các tầng lớp nhân dân. Lễ hội cụ Nguyễn còn là kết quả quá trình
sân khấu hoá đời sống xã hội, là sự mô phỏng, tái hiện lại hình ảnh của các
nghĩa sỹ tham đánh tàu Pháp, đánh đồn Kiên Giang dưới hình thức sân
khấu hóa (phụ lục ảnh 7,8). Vì vậy mọi người đến với lễ hội còn được hiểu
thêm về quá trình chiến đấu, hi sinh bảo vệ đất nước của cha ông. Đến với
lễ hội là tìm đến một “bảo tàng lịch sử sống” một “kho báu sống” về lịch
sử hào hùng của dân tộc.
Thông qua kịch bản sân khấu hóa, các hiện vật trưng bày...Tất cả mọi
người sẽ ý thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống độc lập, tự chủ ngày hôm
52
nay. Từ đó, bồi dưỡng lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, tinh thần
chiến đấu sẵn sàng hi sinh khi Tổ quốc cần. Ông Mai Văn Huỳnh, Phó chủ
tịch Ủy Ban Nhân dân Tỉnh Kiên Giang cho rằng: “Tấm gương chói lọi của
người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực xuất thân từ dân chài, áo vải đã
góp phần giáo dục thế hệ trẻ hôm nay và mai sau truyền thống yêu nước, tinh
thần quật cường chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước của cha ông”. [106].
2.2.3. Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng
Đây là giá trị mang bản sắc và đặc trưng rất riêng và độc đáo của lễ hội
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Những năm gần đây hàng triệu lượt
người từ Bình Định, Long An, Vĩnh Long, An Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc
Trăng… về tham dự Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Người
dân đi cúng giỗ cụ Nguyễn muốn dâng hương, dâng tấm lòng thành lên cụ
bằng những việc làm cụ thể, như: Mang phẩm vật đến cúng, tham gia phục vụ
và ăn một bữa cơm cúng, thưởng thức nghệ thuật truyền thống bên ngoài
đình. Bắt đầu từ tháng 8 âm lịch, người dân khắp nơi đã đến đình Nguyễn
Trung Trực thay nhau làm công đức (phụ lục ảnh 21, 28).
Dân cư khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về dự lễ hội như là trở
về gia đình mình, làm giỗ ông bà mình. Vì thế, tính cộng cảm, cộng mệnh,
cộng sinh được thể hiện rất rõ nét trong lễ hội này. Những người dân về dự lễ
hội theo tiếng gọi của truyền thống văn hóa dân tộc: uống nước nhớ nguồn,
tưởng nhớ một vị Anh hùng dân tộc đã hy sinh vì dân, vì nước. Trên mảnh đất
mà vị Anh hùng đó ngã xuống, người dân tự nguyện chung tay tổ chức lễ hội,
không tính toán thiệt hơn. Ai có của góp của, ai có sức góp sức.
Còn người dân Kiên Giang thì thể hiện tinh thần của những người chủ
nhà đầy hào hiệp, hiếu khách. Vào dịp lễ hội, xung quanh khu vực đình cụ
Nguyễn, bên bờ sông Kiên của thành phố Rạch Giá đầy thơ mộng, người dân
treo biển: tắm, giặt, vệ sinh miễn phí. Họ sẵn sàng phục vụ khách thập
phương với thái độ chân tình, cởi mở như đón người thân về lễ giỗ ông bà
mình. Vì vậy mà cảnh chặt chém khách du lịch đến tham quan hầu như không
diễn ra. Đâu chỉ dừng lại ở việc mang cúng thực phẩm, cứ đến gần ngày giỗ
53
cụ Nguyễn là các chậu hoa, bàn ghế, chén, đũa, bếp ga… được hàng trăm lượt
người mang đến tặng cho đình. Nhiều gia đình ở khắp nơi đã thờ cụ Nguyễn ở
trên bàn thờ gia đình. Anh Lý Thắng Lợi ở Huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên
Giang cho biết: Gia đình anh thờ cụ Nguyễn trên bàn thờ gia tiên từ lâu, xem
ông như ông bà của mình. Đến ngày giỗ ông, cũng làm đám giỗ như tập tục
cúng ông bà của dân tộc ta. Mỗi lúc khó khăn thắp nén hương cầu ông phù trợ
(phụ lục ảnh 26, 27).
Trước khu vực sân đình là cảnh khám chữa bệnh, hốt thuốc nam miễn
phí (phụ lục ảnh 20). Tất cả người dân tham gia lễ hội đều được phục vụ cơm
chay, uống nước thuốc và nếu có nhu cầu xin một phần “lộc” của ông mang
về đều được đáp ứng. Không khí ở đây nhộn nhịp chẳng khác gì ở nhà của
mình, người ta tự nguyện phục vụ từ việc dọn dẹp, sắp xếp tươm tất bàn ghế,
vào bếp chế biến các món ăn, thay nhau thu dọn… một cách hết sức tự giác.
Có gia đình mấy đời đều thay nhau đến phục vụ lễ hội cụ Nguyễn theo kiểu
“cha truyền con nối”. Hàng đoàn xe (xe honda, xe đạp, xe xích lô) chở cả gia
đình từ khắp các tỉnh nối đuôi nhau tấp nập về thành phố Rạch Giá trong
những ngày lễ giổ cụ Nguyễn làm không khí ở đây trở nên náo nhiệt, đông
đúc và tràn đầy ý nghĩa. Có thể thấy, hiếm có một lễ hội nào mà người dân lại
tự giác cùng nhau chia sẻ các giá trị tinh thần và vật chất như lễ hội Anh hùng
dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang. Đây là một nét đẹp văn hóa
độc đáo cần được giữ gìn và phát huy nhằm làm phong phú thêm những giá
trị đặc sắc của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang hiện nay.
Theo Ông Cao Văn Nhãn (ngụ xã Phú Vĩnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An
Giang) thì bản thân ông theo cha ông nấu cơm từ thiện ở lễ giỗ cụ Nguyễn
hơn 20 năm nay. Mỗi đợt lễ giỗ là ông với vợ đến đình khoảng 10 ngày. Ông
phải huy động bốn chiếc xe tải ba tấn rưỡi, bảy chiếc ghe bầu cỡ trung để chở
gạo, củi, rau củ và chở đoàn làm bếp từ An Giang qua đây. Trong những ngày
lễ hội này, mọi người thường nấu bốn, năm món chay trong ngày để luân
phiên thay đổi giúp bà con ăn đỡ ngán và ngon miệng [106].
54
Ông Bùi Văn Thành - Phó Ban bảo vệ di tích đình Nguyễn Trung Trực
cho biết lễ hội kỷ niệm 145 năm ngày hi sinh của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (năm 2013) đã tiếp nhận: 900 m3 củi; 95 tấn gạo, nếp; 365 tấn rau, củ, quả các loại; 13 tấn đậu nành và các gia vị khác do các tổ chức, cá
nhân ủng hộ. Đình đã bố trí 1 trại võng phục vụ 1.000 người về dâng hương
nghỉ ngơi. Phục vụ cơm liên tục cho khách thập phương, các đoàn đến viếng
từ ngày 20 đến 28/8 trên 4000 mâm cỗ. Sau lễ hội còn tồn hơn 12 tấn gạo
được chia sẽ cho các xã, phường trên địa bàn thành phố Rạch Giá và các bếp
ăn từ thiện các bệnh viện trong tỉnh Kiên Giang.
Để đảm bảo chỗ nghỉ cho khách thập phương, 18 cơ sở thờ tự trên địa
bàn thành phố Rạch Giá cùng với một số cơ quan, trường học gần đình thần
đã phục vụ miễn phí trên 22.000 lượt khách hành hương [4, tr.3].
Có thể thấy rằng mọi người đến với lễ hội đều có nghĩa vụ phải tham gia
vào việc tổ chức và thực hiện để lễ hội nhằm đảm bảo tổ chức thành công. Trong
lễ hội mỗi người đều có công việc riêng của mình được phân công từ trước và
họ phải cố gắng hết sức để hoàn thành. Như vậy, lễ hội đã trở thành một việc
chung của mọi người mà tất cả họ đều có quyền lợi và nghĩa vụ. Do đó tính cố
kết cộng đồng được nâng cao. Đó là niềm tự hào chung của toàn thể cộng đồng.
Vì vậy mọi người đều chung sức chung lòng để cho lễ hội cụ Nguyễn được diễn
ra thật trọn vẹn, hấp dẫn, có khí thế, và thu hút được nhiều khách thập phương
đến tham gia. Người dân thành phố Rạch Giá thì dọn dẹp vệ sinh, trang trí lại
nhà cửa treo lồng đèn háo hức chờ đón lễ hội trong niềm hân hoan, thành kính.
2.2.4. Giá trị hướng về cội nguồn
Giá trị văn hóa của lễ hội cụ Nguyễn cũng được thể hiện trong tính
hướng về cội nguồn:
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn cội. Đó là nguồn
cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ
phận hữu cơ, nguồn cội cộng đồng, như dân tộc, đất nước xóm làng,
tổ tiên, nguồn cội văn hoá. Hơn thế nữa hướng về nguồn đã trở
thành tâm thức của con người Việt Nam [84, tr.343].
55
"Uống nước nhớ nguồn”, "ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, "chim có tổ người
có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Điều đó giúp nhắc nhở mọi
người trong cộng đồng những bài học về đạo lý của ông cha về lịch sử của
làng, lịch sử của dân tộc và truyền thống ông cha.
Đến với lễ hội mọi người như được trở về với cội nguồn, với lòng
thành kính, biết ơn của thế hệ những người còn sống, thế hệ con cháu đối với
những người đã ngã xuống vì hòa bình, no ấm cho hôm nay. Lễ hội còn là
hoạt động văn hoá tinh thần thể hiện tình cảm con người với tổ tiên, thần
thánh để cầu mong mọi lực lượng siêu nhiên che chở phù hộ cho con người.
Cũng từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên giúp con người không bao giờ quên cội
nguồn, con người đến với lễ hội là đến với lòng thành kính tổ tiên và các bậc
tiền nhân, nhắc nhở mọi người nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình
với ông bà, tổ tiên, dòng tộc. Mọi người xem ông Nguyễn là người ông, là tổ
tiên của mình. Vì vậy khi đến ngày giỗ, con cháu phải có trách nhiệm tổ chức
lễ giỗ cho ông bà mình. Bà Nguyễn Thị Thiệt ở Cà Mau mặt dù năm nay bước
sang tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng vẫn lanh lẹ thắp hương viếng cụ Nguyễn.
Bà bộc bạch: “Mỗi năm tôi đều đi viếng cụ Nguyễn, nếu sau này sức khỏe
không còn tốt để đi lễ giỗ thì tôi sẽ giáo dục con cháu trong nhà sẽ thay tôi viếng
cụ. Làm gì thì làm chứ không thể quên được truyền thống của gia đình”.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực hướng con người ta trở
về với quá khứ, trở về với những năm tháng hào hùng của dân tộc, các nghi lễ
được tổ chức nhằm tôn vinh các Anh hùng nghĩa sỹ, và nhắc nhở thế hệ sau
phải biết tới công lao sự hy sinh to lớn của cha ông. Góp phần trong việc giáo
dục con người hôm nay về truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “ăn
quả nhớ người trồng cây”, răn dạy con người biết ăn, ở có nghĩa có tình với tổ
tiên, làng xóm, con người phải biết sống tốt hơn và luôn hướng về những điều
tốt đẹp trong tương lai, từ đó khơi dậy lòng tự hào dân tộc của mỗi người dân.
Hướng về cội nguồn đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam nó trở thành
bản sắc văn hóa của dân tộc ta. Luôn tri ân và ghi ơn đối với các bậc tiền
nhân có công khai phá đất đai, đánh đuổi thú dử, chống giặc ngoại xâm.
56
2.2.5. Giá trị bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Khi lễ giỗ cụ Nguyễn diển ra mọi người khắp nơi sắm sửa quần áo mới,
chuẩn bị lễ vật “ưng ý nhất” để mang đến lễ hội. Khi ấy những con người lao
động, thật thà chất phát lại nhập cuộc hóa thân thành văn hóa, văn hóa làm
biến đổi con người. Trong lễ hội các giá trị văn hóa truyền thống được sáng
tạo theo ý tưởng của người dân, nhờ đó mà lễ hội tác động mạnh mẽ và sâu
sắc vào đời sống tâm linh, và việc hun đúc tính cách, tâm hồn con người. Ở lễ
hội, con người sáng tạo ra các giá trị văn hóa và từ đó được bảo tồn, phát huy
trong những năm tiếp theo. Điển hình như trong khuôn khổ chương trình lễ
hội kỷ niệm 139 năm ngày hi sinh của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực,
tại công viên Nguyễn Trung Trực đã diễn ra lễ thượng trướng bức thư pháp
lớn nhất Việt Nam. Bức trướng do nghệ nhân Thiện Dũng thực hiện trong
đêm hội “Anh khí như hồng” tại Trung tâm văn hoá tỉnh Kiên Giang với sự
chứng kiến của đại diện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các nhà nghiên cứu
cùng hàng trăm người dân. Bức trướng thư pháp rộng 9x18m, thiết kế bằng
loại vải phi bóng siêu bền. Bộ văn phòng tứ bảo gồm: bút lông dài 1m, nghiên
mực đúc bằng xi-măng giả đá (40x60x20cm) nặng 81kg, ấn chương làm bằng
gỗ (50x50x70cm), nặng 80kg, hộp mực dấu bằng gỗ (70x70x15cm) nặng
10kg. Bức thư pháp ghi lại 4 câu thơ của nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt ca ngợi khí
phách Anh hùng Nguyễn Trung Trực. Các thông số về bức trướng và bộ văn
phòng tứ bảo đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam kiểm chứng đạt kỷ lục
lớn nhất Việt Nam cho đến thời điểm này. Bức thư pháp được bán đấu giá
gây quĩ học bổng Nguyễn Trung Trực dành cho học sinh, sinh viên nghèo
vượt khó, học giỏi (phụ lục ảnh 19).
Ở lễ hội lần thứ 140, tại Công viên Nguyễn Trung Trực thành phố
Rạch Giá tỉnh Kiên Giang diễn ra Đêm hội dệt chiếu Tà Niên - một hoạt động
nằm trong chuỗi sự kiện Lễ hội Kỷ niệm lần thứ 140 ngày hy sinh của Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Trong đêm hội này, có một Kỷ lục Việt
Nam được xác lập. Đó là chiếc chiếu lẫy rộng 1,8m dài 45m có in chữ THỌ
do người dân làng chiếu Tà Niên, xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh
57
Kiên Giang dệt để dâng lễ hội Cụ Nguyễn. Sự kiện này góp phần giáo dục
lòng tự hào dân tộc, tình yêu lao động sản xuất, đồng thời tôn vinh, quảng bá
những nghề thủ công truyền thống độc đáo của Kiên Giang.
Tại lễ hội lần thứ 145 ngày hi sinh Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực lần đầu tiên đã diễn ra “không gian đờn ca tài tử Nam Bộ” với nội dung
bảo tồn, phục hồi dây đờn Rạch Giá - nét độc đáo trong nghệ thuật đờn ca tài
tử Nam Bộ đã trình lên UNESCO đề nghị công nhận đờn ca tài tử Nam Bộ là
di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực diễn ra với sự góp mặt
của đồng bào dân tộc kinh - khmer - hoa, họ đem đến cho lễ hội bản sắc văn
hóa của dân tộc mình góp phần vào sự đa dạng văn hóa của cộng đồng các
dân tộc. Trong điều kiện đất nước ngày càng phát triển, hội nhập và giao lưu
thì những giá trị văn hóa trong lễ hội có được đã góp phần làm nhiệm vụ bảo
tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là một hình thức tái hiện
cuộc sống quá khứ thông qua các hoạt động tế lễ, các trò diễn. Cuộc đấu tranh
dựng nước và giữ nước của nhân dân được thể hiện dưới các hình thức sinh
hoạt văn hóa tinh thần vô cùng sinh động hấp dẫn như các hoạt động tế lễ,
rước, các trang phục truyền thống, các bài văn tế, các trò diễn dân gian, các
bài bản tài tử cải lương Nam Bộ... Các hoạt động ấy trong lễ hội không những
tái hiện cuộc sống mà nó góp phần giữ gìn và bảo tồn nền văn hoá dân tộc,
được lưu giữ từ đời này sang đời khác. Nói một cách khác lễ hội là kết quả
của quá trình lịch sử hoá quá khứ và hiện tại, kết hợp quá trình huyền thoại
hoá những nhân vật là sự kiện lịch sử được nhân dân thờ phụng. Đồng thời
còn là kết quả của quá trình sân khấu hoá đời sống xã hội và quá trình xã hội
hoá trong tiến trình lịch sử. Quá trình mô phỏng tái hiện cuộc sống quá khứ và
những nhân vật sự kiện lịch sử trong lễ hội đã đạt đến tính xã hội hoá cao.
Hình thức và nội dung của lễ hội phản ánh khá đầy đủ sinh động đời sống vật
chất và tinh thần xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đồng thời qua quá
trình hình thành và tồn tại, lễ hội đã tác động mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu
58
sắc tới toàn thể cộng đồng trong một khu vực, một vùng, một dân tộc, một
quốc gia, tuỳ theo tính chất và mức độ của lễ hội ấy. Và như vậy lễ hội góp
phần bảo tồn văn hoá dân tộc ngay trong chính tâm thức của cộng đồng. Toàn
bộ nội dung lễ hội, hình thức lễ hội, ý nghĩa và các giá trị văn hoá của lễ hội
được tồn tại trong lòng cộng đồng. Nó xâm nhập vào đời sống xã hội, trở
thành nhu cầu tinh thần, thành mong ước, trở thành tiềm thức trong nhân dân.
Như vậy, lễ hội được bảo tồn ngay trong lòng cộng đồng, vừa là môi trường
sản sinh ra văn hoá, vừa là môi trường tốt nhất để bảo tồn làm giàu thêm và
phát huy nó trong đời sống xã hội.
2.2.6. Tạo ra môi trường sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của
nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị. Trong lễ hội cụ Nguyễn, nhân dân tự
đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng
và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm
đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong quá trình tham
gia các hoạt động lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí
thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường
dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá
trị văn hoá của mình. Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật
của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được
chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã
phần nào tách biệt. Do vậy, con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu
hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá
về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội Anh hùng dân
tộc Nguyễn Trung Trực là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.
2.2.7. Giá trị góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển
Lễ hội là hoạt động văn hoá tinh thần của nhân dân, giá trị to lớn của lễ
hội không chỉ ở phương diện văn hoá mà còn có giá trị kinh tế, góp phần thúc
đẩy kinh tế xã hội phát triển.
59
Lễ hội vừa là sản phẩm độc đáo đặc biệt của ngành kinh tế du lịch,
vừa là tài nguyên du lịch nhân văn phong phú và có giá trị. Lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là một "bảo tàng sống” về văn hoá, là nơi
sản sinh, nuôi dưỡng, bảo tồn, phát huy nền văn hoá dân tộc, là nơi sáng
tạo lưu giữ những hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đặc sắc và độc
đáo, tạo nên những nét văn hóa riêng của từng vùng, từng cộng đồng
người, ẩn chứa trong tầng sâu các lễ tế, trò diễn, các hoạt động cộng đồng
phong phú và hấp dẫn.
Kiên Giang là một tỉnh giàu truyền thống văn hóa và lịch sử. Hiện nay
trên địa bàn tỉnh có nhiều các di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh nổi
tiếng. Đến với lễ hội cụ Nguyễn mọi người sẽ có dịp tham quan các công
trình văn hóa, hệ thống di tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ kỳ thú
của tỉnh Kiên Giang như: Khu di tích Hòn Me (Hòn Đất), Các danh lam thắng
cảnh ở Hà Tiên, Kiên Lương, Phú Quốc; bảo tàng tỉnh, công viên văn hóa An
Hòa, khu lấn biển thành phố Rạch Giá, mộ Huỳnh Mẫn Đạt, chùa Tam Bảo...
Ngành du lịch tỉnh nhà không thể không khai thác lễ hội với tư cách là một
nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, một sản phẩm du lịch văn hoá đặc biệt
mang lại nguồn thu lớn cho ngành kinh tế du lịch. Bản chất của du lịch là
khám phá, tìm hiểu văn hoá, nhu cầu du lịch là do nhu cầu văn hoá quyết
định, trong đó sự mong muốn hiểu biết văn hoá, giao lưu, tìm hiểu phong tục
tập quán, các giá trị văn hoá lại chứa đựng chủ yếu trong lễ hội, vì thế lễ hội
là động lực thúc đẩy hoạt động du lịch.
Qua 07 ngày tổ chức hội chợ triển lãm nhân Lễ hội 145 năm ngày hi sinh
của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã có 142.000 lượt khách tham quan
mua sắm, doanh thu doanh nghiệp đạt 5,2 tỷ đồng. Các gian hàng ẩm thực phục
vụ cho 12.000 lượt khách tham quan và ăn uống, doanh thu đạt 134.000.000 đ.
Ngoài ra, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Kiên Giang đã vận động các công
ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh số tiền 1.280.000.000 đồng. Ban bảo vệ di
tích đình thu: 2.749.430.000 đồng, 500 USD, 10.000 Won... [4, tr.4].
60
2.3. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH
HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC HIỆN NAY
2.3.1. Về nhận thức
Một trăm bốn mươi lăm năm trôi qua kể từ khi Anh hùng Nguyễn
Trung Trực hi sinh, người dân tỉnh Kiên Giang luôn tổ chức đều đặn lễ giỗ cụ
tại đình thần Nguyễn Trung Trực. Các đình thần trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
có thờ linh vị cụ Nguyễn cũng tổ chức lễ giỗ cụ trang trọng, đầm ấm. (phụ lục
ảnh 24, 25).Tỉnh Kiên Giang đã tổ chức 02 hội thảo: hội thảo khoa học về
thân thế và sự nghiệp Anh hùng Nguyễn Trung Trực nhân kỷ niệm 120 năm
ngày hi sinh của ông (1989). Hội thảo nêu:
Sau ngày Nguyễn Trung Trực mất đi, vẫn còn nhiều người nối tiếp sự
nghiệp của ông ngay trên vùng đất Kiên Giang. Và qua 02 cuộc chiến
tranh suốt 30 năm chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ, Nguyễn
Trung Trực vẫn đi cùng đội ngũ với những bước đi đầu tiên trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cụ Nguyễn vẫn là người luôn luôn ở phía trước, vẫn gọi chúng ta, thôi thúc mỗi con người [9, tr.5]. Hội thảo đã nghe 30 bài tham luận và 03 ý kiến phát biểu của các nhà
nghiên cứu khoa học, các nhà văn, nhà thơ; các nhà hoạt động văn hóa, giáo
dục; đại diện thân tộc của cụ Nguyễn. Sau hội thảo, tỉnh Kiên Giang đã xây
dựng lại tượng đài Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực cho đúng với vị trí
và tầm vóc lịch sử của ông. Long trọng tổ chức lễ giỗ 120 năm ngày hi sinh
như một lễ hội tiêu biểu của tỉnh. Trùng tu, mở rộng khu di tích đình thần
Nguyễn Trung Trực. Thành lập bộ phận chuyên trách về sưu tầm tư liệu, hiện
vật liên quan đến cuộc đời và các chiến công tiêu biểu của cụ Nguyễn.
Bắt đầu từ năm 1988 đến nay, hàng năm nhân dân khắp các tỉnh khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Miền Trung đã về dự lễ giỗ cụ
Nguyễn ngày một đông. Theo thống kê năm 2000 có 600.000 lượt người tham
dự thì đến năm 2013 số người tham dự là 10.000.000 người [4, tr.5].
Năm 2009, tỉnh Kiên Giang cũng đã tiến hành tổ chức hội thảo khoa
học “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc
61
Nguyễn Trung Trực”. Các nhà khoa học, quản lý văn hóa đã đề xuất nhiều ý
kiến có giá trị góp phần cho công tác tổ chức lễ hội cũng như việc bảo tồn các
giá trị văn hóa.
Nhân dân tỉnh Kiên Giang đã tạc tượng thờ cụ Nguyễn đặt tại trung tâm
công viên Nguyễn Trung Trực. Tên của ông cũng được đặt tên cho con đường
lớn của tỉnh dài gần 8 km (đại lộ Nguyễn Trung Trực). Một ngôi trường được
xây dựng từ năm 1920 mang tên ông (trường Trung học Phổ thông Nguyễn
Trung Trực). Huyện Phú Quốc cũng có một con đường mang tên Nguyễn
Trung Trực...
Hiện nay, công tác trùng tu, tôn tạo di tích và xây dựng thêm cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác tổ chức lễ hội của tỉnh được quan tâm đầu tư đúng
mức. Đã khánh thành công trình nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực với diện tích 250 m2, do Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tài trợ với tổng kinh phí
4,2 tỷ đồng. Đồng thời đã triển khai dự án “Bảo tồn, nâng cấp và phát huy giá
trị di sản văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực”, xây dựng hồ
sơ trình Hội đồng di sản văn hóa Quốc gia công nhận lễ hội Nguyễn Trung
Trực là di sản văn hóa phi vật thể lễ hội cấp quốc gia.
Đạt được những kết quả trên trước hết là chính quyền và nhân dân tỉnh
Kiên Giang nhận thức được quan điểm của Đảng, nhà nước về công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa như luật di sản văn hóa năm 2001 (có sửa
đổi, bổ sung năm 2009). Người dân tham gia lễ hội thấy được những giá trị
tốt đẹp của việc tôn vinh công lao to lớn của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực nên họ cùng nhau giữ gìn những nét đẹp truyền thống của lễ hội.
Nhận thức ý nghĩa và tầm quan trọng của Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực đối với sự nghiệp chống giặc giữ nước của dân tộc. Chính quyền
và nhân dân tỉnh Kiên Giang luôn quan tâm đến công tác bảo tồn các giá trị
văn hóa của cuộc đời, sự nghiệp Nguyễn Trung Trực thông qua các hoạt động
tôn vinh trong lễ hội. Giá trị văn hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực ngày càng lan tỏa trong đời sống nhân dân cả nước.
62
2.3.2. Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trong đời sống của
người dân tỉnh Kiên Giang hiện nay
Từ lâu Anh hùng Nguyễn Trung Trực đã thành vị phúc thần, phò trợ
nhân dân khắp các vùng sông biển Miền Nam. Ở Rạch Giá (Kiên Giang),
phần đông các nhà đều treo ảnh thờ Ông Nguyễn, hàng đêm thắp nhang tưởng
nhớ. Người dân xem việc thờ Ông như thờ cụ Tổ trong gia đình, cũng là một
thứ tín ngưỡng thiêng liêng. Còn ở các tỉnh thành lân cận Kiên Giang, khá
nhiều dân chài thờ cúng Ông Nguyễn, cầu xin Ông phò trợ lúc họ ra khơi
đánh cá. Nhiều ngôi đình thờ thần địa phương nhưng vẫn thờ thêm linh vị
Anh hùng Nguyễn Trung Trực.
Trong đời sống tinh thần của người dân hàng trăm năm nay, trải qua
nhiều thế hệ, cụ Nguyễn Trung Trực sống trong lòng nhân dân Kiên Giang
với lòng tôn sùng quá giới hạn của một người bình thường. Gương trung liệt
của cụ Nguyễn Trung Trực đã khắc sâu vào lòng kính phục của nhân dân,
khích lệ tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của biết bao thế hệ.
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã được nhân dân tỉnh Kiên
Giang và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tôn vinh là một vị thần. Với
quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần”, cụ Nguyễn được nhiều người dân lập
bàn thờ trong gia đình xem như thờ ông bà, thờ vị thần của gia đình mình.
Nhân dân đã phong cho Ông làm tướng, làm soái. Nên người ta thường gọi
Ông là “Ông Tướng”, “Ông Soái” còn nghĩa quân thường gọi Ông là “Chủ
Tướng” hay “Chủ Soái”. Sau khi Ông chết, nhân dân tôn Ông “Thượng Đẳng
Đại Thần”. Thật là xứng đáng! Hàng trăm năm nay đã trở thành nếp quen thuộc,
người Kiên Giang gọi Nguyễn Trung Trực bằng “Ông”, “Cụ” hoặc “Ông
Nguyễn”, kiêng gọi tên húy của Ông. Những lúc khó khăn thắp nén nhang xin
Cụ phù hộ, những lúc thuận lợi thắp nén nhang lạy tạ. Buôn bán gần xa, đi sớm
về tối mọi người xem Cụ như chỗ dựa tin cậy. Không ai dám nói, dám suy nghĩ
một điều gì không phải trước ảnh thờ hoặc tượng Cụ. Nhân dân đã nâng Cụ lên
hàng thần thánh. Thần thánh chỉ là biểu tượng vô hình, nhưng tấm lòng của
người dân Kiên Giang và các nơi khác là thực sự của suy nghĩ và hành động.
63
Tình cảm người dân dành cho Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
vô cùng sâu đậm. Nó xuất phát từ tấm lòng của người dân Nam Bộ “yêu ghét
phân minh, nghĩa tình giữ vẹn”. Qua điền dã và thu thập các tài liệu, hiện nay
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có 15 điểm di tích thờ cụ Nguyễn và có tổ chức
lễ hội hàng năm (xem phụ lục 4).
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là hoạt động văn hóa tinh
thần của nhân dân, giá trị to lớn của lễ hội không chỉ ở phương diện văn hóa
mà còn ở phương diện kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội.
Đối với người dân tỉnh Kiên Giang, lễ hội có vai trò thúc đẩy sản xuất -
người dân vui, hào hứng (đa số người dân được hỏi sau lễ hội họ thấy phấn
khởi, khỏe mạnh hơn), bằng việc góp phần thắt chặt mối quan hệ giữa người
nông dân thợ thủ công…qua lễ hội có thể động viên họ làm việc với năng suất
cao hơn, đạt hiệu quả tốt hơn. Lễ hội có thể góp phần làm khởi sắc một số
vùng kinh tế như việc sản xuất một số mặt hàng thủ công, mỹ nghệ.
Lễ hội vừa là sản phẩm độc đáo của nghành du lịch, vừa là tài nguyên
du lịch nhân văn phong phú và có giá trị. Bên cạnh đó, lễ hội với những giá trị
tâm linh giải thoát con người khỏi bế tắc và khó khăn trong cuộc sống tạo nên
niềm lạc quan, giúp con người giải quyết nhu cầu mong cho bản thân gia đình
và cộng đồng một cuộc sống bình an, tạo nên sức hút du lịch mạnh mẽ.
Có thể nói lễ hội cụ Nguyễn mang tính cộng đồng sâu sắc, nó biểu dương
những giá trị văn hóa và sức mạnh của cộng đồng, tạo nên tính cố kết cộng đồng.
Đó cũng chính là nét đặc trưng và giá trị tiêu biểu nhất của tỉnh Kiên Giang.
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG
2.4.1. Thành tựu
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực là một trong những lễ hội
tiêu biểu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thu hút sự tham gia của
đông đảo nhân dân khắp các tỉnh Miền Tây Nam Bộ. Người dân Nam Bộ xem
ông Nguyễn Trung Trực là một vị linh thần. Họ gọi ông là cụ Nguyễn, ông
Nguyễn. Hàng năm, cứ đến lễ giỗ cụ, nhân dân khắp nơi “hành hương” về
đình thần Nguyễn Trung Trực để tổ chức lễ giỗ cụ Nguyễn nhằm tưởng nhớ
64
công lao to lớn của ông. Đồng thời được tham gia các hoạt động lễ hội, đây là
nét đẹp văn hóa góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc. Vì tầm quan trọng của lễ hội trong đời sống tâm linh của
người dân Nam Bộ, năm 2004 nhà nước đã công nhận lễ hội Anh hùng dân
tộc Nguyễn Trung Trực là lễ hội cấp quốc gia. Hiện nay, khu di tích đình thần
Nguyễn Trung Trực đã được đầu tư nâng cấp, sửa chửa. Phòng thuốc nam từ
thiện là nơi khám, phát thuốc miễn phí cho hàng chục ngàn bệnh nhân các nơi
trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây hàng ngày đều có các vị
lương y và hàng chục người tình nguyện tham gia chặt, phơi, sấy thuốc đồng
thời tiếp nhận các vị thuốc do nhân dân mang đến hiến, tặng nhằm phục vụ
người bệnh. Công trình nhà trưng bày thân thế, sự nghiệp Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực và mô hình phiên bản chiến hạm tàu Esperance được
đông đảo nhân dân đến tham quan, nghiên cứu. Năm 2011, hãng phim truyện
Cửu Long đã được Tỉnh Kiên Giang hỗ trợ phục dựng phiên bản mô hình
chiến hạm tàu Esperance bị nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy trên
vàm Nhật Tảo cho bộ phim truyện dài tập “Anh hùng Nguyễn Trung Trực”.
Mô hình có chiều dài 33m, rộng 8m cùng cột buồm cao 16m. Sau khi phục vụ
cho cảnh quay của bộ phim, phiên bản chiến hạm tàu Esperance được mang
về neo đậu trước đình thần Nguyễn Trung Trực phục vụ khách tham quan.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã có sức lan tỏa rất lớn
và trở thành địa điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đáp ứng nhu cầu sáng tạo,
thưởng thức, giao lưu văn hóa và nhu cầu tín ngưỡng trong đời sống của nhân
dân. Lễ hội đã góp phần quảng bá tiềm năng và du lịch tỉnh Kiên Giang. Tôn
vinh người có công với đất nước là nghĩa cử cao đẹp của nhân dân ta. Ban
quản lý di tích đình thần Nguyễn Trung Trực đã cùng với chính quyền địa
phương và nhân dân đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức lễ hội với mục tiêu
đề ra là phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Các nghi thức cúng tế được
thực hiện trang nghiêm phù hợp với phong tục tập quán tín ngưỡng của nhân
dân. Các hoạt động trong lễ hội phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu thưởng
thức của người dân. Các loại hình nghệ thuật của các dân tộc kinh, khmer,
65
hoa được đưa vào lễ hội làm tăng thêm giá trị văn hóa của dân tộc như: đờn
ca tài tử, múa lân, biểu diển nhạc ngũ âm…đã tạo nên không khí tưng bừng,
náo nhiệt hấp dẫn của lễ hội. Kịch bản sân khấu hóa được dàn dựng công phu,
mang tính nghệ thuật và thẫm mỹ cao. Làm tốt công tác tuyên truyền, quảng
bá lễ hội; biên soạn và xuất bản các tờ rơi, sách về cuộc đời và chiến công của
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Nhân dân đã tham gia tích cực vào
các hoạt động của lễ hội, công tác xã hội hóa lễ hội Nguyễn Trung Trực ngày
càng đi vào chiều sâu. Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trở thành
một sự kiện lịch sử đối với người dân Kiên Giang nói chung và bà con vùng
Tây Nam Bộ nói riêng. Nó trở thành biểu tượng tinh thần vô giá đối với nhân
dân tỉnh Kiên Giang. Lễ hội còn góp phần tích cực trong việc giao lưu văn
hóa trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà nước tham gia và có tác
động tích cực trong việc quản lý, điều hành các hoạt động lễ hội nhằm thực
hiện tốt chỉ thị của Bộ chính trị và quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang và lễ hội.
Đạt được những thành tựu trên trước hết là do nhận thức của lãnh đạo
tỉnh Kiên Giang về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đã tập trung giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội góp
phần đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Trách nhiệm của ban bảo vệ di tích đình thần Nguyễn Trung Trực và sự ủng
hộ, đồng thuận tham gia nhiệt tình của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong
và ngoài tỉnh. Sự đồng hành chung tay góp sức của các doanh nghiệp, mạnh
thường quân trong việc hổ trợ cơ sở vật chất để nâng cấp, cải tạo đình thần,
sưu tầm hiện vật và tổ chức lễ hội. Sự tham gia tích cực của các cơ quan
thông tấn báo chí địa phương và trung ương nhằm quảng bá, tuyên truyền lễ
hội. Công tác kiểm tra, giám sát luôn được thực hiện thường xuyên. Sự phối
hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban ngành, các tổ chức xã hội đã góp phần thúc
đẩy công tác bảo tồn giá trị lễ hội ngày càng hiệu quả.
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực đã góp phần vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
66
của dân tộc, sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII.
2.4.2. Tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về lễ hội
vẫn còn những tồn tại, hạn chế như:
Chưa cân đối giữa lễ và hội, ít trò chơi mang tính dân tộc và hiện đại.
Nghi thức lễ tuy đơn giản nhưng lặp đi, lặp lại khá dài.
Vẫn còn tình trạng mê tín dị đoan, một số người đến với lễ hội chỉ
mong muốn lợi dụng thần thánh để cầu lộc cầu tài. Người dân còn đốt quá
nhiều hương (nhang) làm ô nhiễm môi trưởng, ảnh hưởng đến người dân vào
chiêm bái đình thần Nguyễn Trung Trực. Tình trạng bán chim phóng sinh
diễn ra khu vực lễ hội chưa được xử lý kịp thời. Tuy số vụ vi phạm an ninh
trật tự và các loại tội phạm nghiêm trọng có giảm nhưng vẫn còn tình trạng
móc túi, mất cắp tài sản...
Tình trạng bán nhang, bán vé số tràn vào khu vực lễ hội...
Người dân còn đặt tiền tại khu vực ngoài công viên tượng đài nên khi
có gió thổi làm tiền bay trẻ em tranh giành làm mất trật tự.
Vẫn còn ùn tắc giao thông. Ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường của
người dự lễ hội chưa cao.
Trong quá trình diễn ra lễ hội vẫn xuất hiện tình trạng cướp giật, móc
túi. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý các hộ dân kinh doanh mua bán lấn
chiếm lòng lề đường, vĩa hè; dịch vụ giữ xe không giữ đúng giá như quy định
tại các khu vực diễn ra lễ hội chưa được kiên quyết và thường xuyên.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống người dân Kiên Giang nhằm thỏa mãn khát
vọng trở về cội nguồn, sinh hoạt tín ngưỡng, cân bằng đời sống tâm linh và
hưởng thụ, sáng tạo văn hóa của nhân dân. Những tìm hiểu, nghiên cứu về
cuộc đời, sự nghiệp các chiến công của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
đã phát thảo quá trình bảo tồn lễ hội như một phần di sản văn hóa phong phú,
67
đa dạng. Các giá trị văn hóa tiêu biểu của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực đã làm thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần, giáo dục truyền
thống, cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng, hướng về cội nguồn, tạo ra
môi trường sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, bảo tồn làm giàu và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực. Trong thời gian qua, công tác tổ chức lễ hội, sưu tầm hiện vật,
tôn tạo di tích đã được quan tâm đầu tư thu hút sự tham gia tích cực của đông
đảo cộng đồng khắp nơi trong cả nước. Tuy nhiên một số vấn đề về môi
trường, an ninh trật tự, các hình thức mê tín dị đoan tại lễ hội là những hạn
chế nhất định.
Vì vậy cần có những giải pháp, quy hoạch cụ thể nhằm góp phần bảo
tồn lễ hội, làm cho những giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội tồn tại và phát huy
tác dụng trong đời sống hiện nay.
68
CHƯƠNG 3
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA LỄ HỘI VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC
NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY
3.1. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC
NGUYỄN TRUNG TRỰC
Thứ nhất, xu hướng khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực được tổ chức trọng thể từ
ngày 26 đến 28 tháng 8 âm lịch hàng năm là dịp để hàng trăm ngàn lượt
người từ khắp các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước hành hương về
lễ hội nhằm thể hiện lòng thành kính tri ân đến vị Anh hùng đã hi sinh vì
nước. Nội dung tổ chức lễ hội hàng năm có sự đổi mới phù hợp với nhu cầu
của đông đảo bà con nhân dân. Những giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng
được phát huy như: thi dệt chiếu (nhằm tái hiện lại giờ phút bà con Tà Niên
dệt chiếu có chữ Thọ để cụ Nguyễn bước đi đến pháp trường). Hình ảnh các
cô thiếu nữ, các chị, các dì thay nhau làm các công đoạn để dệt nên một chiếc
chiếu càng trở nên độc đáo trong văn hóa làng nghề được khôi phục. Các gian
hàng ẩm thực phục vụ nhu cầu thưởng thức của khách tham gia lễ hội góp
phần quảng bá các đặc sản của Kiên Giang như: bún cá Kiên Giang, hủ tiếu
hải sản...Không gian đờn ca tài tử là điểm nhấn độc đáo của lễ hội, đây là dịp
để các tài tử đờn và tài tử ca hội ngộ. Tại đây khách tham quan ngoài việc
thưởng thức các tiết mục hòa tấu, các bài bản tài tử họ còn có dịp được “trổ
tài” khi đăng ký ca hoặc đờn giao lưu nhằm thể hiện tài năng của mình. Đây
cũng là hoạt động nhằm khôi phục giá trị văn hóa của di sản đờn ca tài tử của
sông nước Kiên Giang (một không gian của sông nước Nam Bộ). Trong lễ
hội, hoạt động biểu diển lân - sư - rồng được khôi phục và phát huy. Hàng
năm thu hút sự tham gia đông đảo của các đoàn lân - sư - rồng từ các tỉnh và
thành phố Hồ Chí Minh. Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực có
69
những nét văn hóa đặc sắc như tính cộng đồng, tính tự giác, tự quản của
người dân tham gia. Thông qua lễ hội, đã giáo dục truyền thống chống giặc
giữ nước của dân tộc ta; hình thành lối sống tương thân tương ái, sẵn sàng san
sẽ giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Việc tổ chức lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực cũng nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của
đông đảo nhân dân. Đây là dịp để các tín đồ phật giáo hòa hảo “hành hương”
về đình thần cụ Nguyễn vì trong lòng của bà con tín đồ cụ Nguyễn là vị “quan
thượng đẳng đại thần”. Mọi người đến với lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực với lòng hướng về cội nguồn, thể hiện tình yêu thương gắn bó
giữa các thế hệ trong gia đình. Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, thư ký điện ân
Ban quản lý di tích đình cho biết: có đoàn đến viếng cụ Nguyễn là những
người trong dòng họ thân tộc của gia đình bao gồm nhiều thế hệ. Họ đến
viếng cụ Nguyễn cũng là cách dạy con cháu phải luôn biết ơn đến ông bà, tổ
tiên. Điều đó cho thấy, ở lễ hội các giá trị văn hóa truyền thống, các phong tục
tốt đẹp ngày càng được khôi phục và phát huy làm cho các giá trị chân, thiện,
mỹ ngày càng phát triển. Có thể nói, trong lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực các giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy một cách bền vững.
Thứ hai, lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ngày càng mở
rộng phạm vi theo xu hướng giao tiếp văn hóa liên miền, liên vùng
Có thể nói, ở Miền Nam rất ít lễ hội. Một số lễ hội tiêu biểu được nhiều
người biết đến như: lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc (An Giang), lễ hội
Bà Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu (Núi Bà Đen, Tây Ninh), lễ hội Dinh Cô -
Long Hải (Bà Rịa, Vũng Tàu)...Ngày nay, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được nâng lên rõ rệt kéo theo nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa
nhằm thỏa mãn cuộc sống trong đó vấn đề du lịch và hành hương về các nơi
thờ tự phục vụ tín ngưỡng tâm linh trở thành nhu cầu không thể thiếu. Lễ hội
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực của tỉnh Kiên Giang góp phần phục vụ
nhu cầu của đông đảo bà con nhân dân khu vực đồng bằng sông Cửu Long và
cả nước. Người dân khắp các nơi đến với lễ hội không chỉ được chiêm bái cụ
Nguyễn mà còn được tham quan các khu di tích lịch sử và danh lam thắng
70
cảnh trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực hiện nay có xu thế ngày càng phát triển và thu hút đông đảo nhân dân
tham gia, theo thống kê năm 2012 có khoảng 8.000.000 lượt người thì năm
2013 có đến 10.000.000 lượt người tham gia. Lễ hội có sự tham gia của các
tầng lớp nhân dân thuộc các dân tộc kinh, khmer, hoa, chăm và với nhiều tôn
giáo như: Phật, Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên Chúa...đã tạo nên quá trình giao tiếp
văn hóa dân tộc. Chẳng hạn như hoạt động thi cộ hoa tại lễ hội. Hầu hết bà
con mang đến những cộ hoa với những nét đặc trưng của từng vùng. Các sản
phẩm được các nghệ nhân thiết kế cộ hoa dâng lên cụ Nguyễn mang nét riêng
của mỗi địa phương với những đặc sản độc đáo. Hay như đến với lễ hội, nhiều
lương y mang theo những cây thuốc nam chỉ có ở vùng mình để đến bốc
thuốc, chữa bệnh cho khách thập phương. Có thể thấy đây là một nét độc đáo
của lễ hội nó mang tính giao tiếp văn hóa liên vùng ở Nam Bộ.
Thứ ba, xu hướng du lịch văn hóa tâm linh
Hiện nay nhu cầu du lịch kết hợp tham quan đình, chùa của nhân dân
ngày càng phát triển. Đặc biệt là người ta đến với lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực để thỏa mãn nhu cầu chiêm bái, cúng giỗ và ăn một bửa
cơm để hưởng lộc đình. Cầu mong người khang vật thịnh, quanh năm may mắn.
Bên cạnh đó, giá trị văn hoá tâm linh của lễ hội trong đời sống xã hội
hiện nay còn thể hiện ở chỗ con người luôn hướng tới cái chân- thiện- mỹ, cái
cao cả mà con người luôn ước vọng tôn thờ, trong đó có cả niềm tin tôn giáo
tín ngưỡng. Một điều chắc chắn rằng đứng trước tổ tiên, thần linh không một
người nào cầu mong ước nguyện điều xấu xa có hại cho người khác, có hại
cho cộng đồng. Khi trở về thế giới tâm linh, họ luôn mong muốn và tin tưởng
vào sự chứng giám và phù hộ của thần linh vì sự trung thực, thành tâm của
họ. Vì vậy, những nghi lễ, tín ngưỡng trong lễ hội đã giúp con người thoả
mãn nhu cầu về đời sống tâm linh.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực cũng chứa đựng truyền
thống văn hoá phong phú kết hợp với hệ thống di tích lịch sử, cảnh quan thiên
nhiên đẹp đẽ kỳ thú của tỉnh Kiên Giang là những lời mời gọi thiết tha khách
71
du lịch đến với lễ hội. Ngành du lịch không thể không khai thác lễ hội truyền
thống với tư cách là một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, một sản phẩm du
lịch văn hoá đặc biệt mang lại nguồn thu lớn cho ngành kinh tế du lịch. Thế
giới đang hướng đến một sự phát triển bền vững, một nền công nghiệp sạch,
trong đó du lịch chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bản chất của du lịch là
khám phá, tìm hiểu văn hoá, nhu cầu du lịch là do nhu cầu văn hoá quyết
định, trong đó sự mong muốn hiểu biết văn hoá, giao lưu, tìm hiểu phong tục
tập quán, các giá trị văn hoá lại chứa đựng chủ yếu trong lễ hội truyền thống,
vì thế lễ hội là động lực thúc đẩy hoạt động du lịch.
Lễ hội không phải chỉ là tiềm năng du lịch nội địa mà còn là tiềm năng
du lịch quốc tế, lễ hội cùng với hệ thống di sản văn hoá và cảnh quan thiên
nhiên đã là một nguồn lực cho phát triển kinh tế du lịch. Bên cạnh đó, lễ hội
cùng với hệ thống di sản văn hoá góp phần tạo lập các mối quan hệ kinh tế
với nước ngoài, thông qua du lịch, việc tìm hiểu các phong tục tập quán,
truyền thống văn hoá tạo nên sự hiểu biết tin cậy lẫn nhau, tạo lập mối quan
hệ ngoại giao với đối tác nước ngoài gia tăng. Đồng thời hệ thống lễ hội và di
sản văn hoá Việt Nam là một tiềm năng du lịch để thu hút đầu tư nước ngoài
phát triển tại Việt Nam.
Thứ tư, xu hướng phát triển của lễ hội
Phát triển lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trong thời gian
tới là việc chắc chắn sẽ được chính quyền và ban quản lý di tích đình thần
quan tâm đầu tư. Việc phát triển lễ hội ở đây được hiểu là những công việc
như mở rộng quy mô, hình thức tổ chức. Đồng thời sẽ tiếp tục tôn tạo, trùng
tu di tích đình thần cũng như mở rộng không gian sinh hoạt lễ hội. Việc phát
triển lễ hội sẽ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của đông đảo người dân tham gia.
Lễ hội hiện nay có xu hướng phát triển mạnh mẽ. Trước hết là không gian
lễ hội cũng mở rộng. Trước đây lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực chỉ
được tổ chức ở một không gian nhất định trong phạm vi, quy mô tổ chức chỉ ở
đình thần. Nhưng hiện nay, do nhiều yếu tố nên quy mô của lễ hội cũng được
mở rộng cả về không gian và thời gian. Lễ hội không còn là lễ hội của tỉnh mà
72
đang có xu hướng biến thành lễ hội cả nước. Đối tượng người đến dự hội không
chỉ là người dân các tỉnh giáp ranh với Kiên Giang, không chỉ có người kinh mà
còn có người khmer, người hoa, người chăm… có cả du khách nước ngoài tham
dự. Đông đủ các tín đồ, chức sắc các tôn giáo đến chiêm bái, cúng tế.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC
Thứ nhất, là vấn đề nhận thức và văn hoá ứng xử đối với lễ hội. Đây là
thách thức cơ bản nhất. Hiện nay, công tác tuyên truyền, hướng dẫn cho quần
chúng nhân dân hiểu rõ giá trị truyền thống trong gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc trong lễ hội còn nhiều hạn chế, dẫn tới sự thiếu trách nhiệm
và ý thức của một bộ phận người dân khi tham gia và phục vụ lễ hội, nhất là
trong thực hiện nếp sống văn minh, giao tiếp ứng xử, vệ sinh môi trường.
Tính tôn nghiêm và những nét đẹp văn hoá, những giá trị, bản sắc của các lễ
hội đang bị giảm sút và có nguy cơ bị xói mòn, do các tệ nạn lôi kéo khách
hành hương tham gia trò chơi cá cược, cờ bạc, bói toán, móc túi, tình trạng vi
phạm trật tự và an ninh xã hội vẫn tiếp diễn. Hiện tượng thiếu lành mạnh như
bán sách tướng số, tử vi, bán hàng rong, tranh giành thu tiền bán vé dịch vụ
xuất hiện tại nhiều khu vực tổ chức lễ hội. Nhiều du khách còn có những biểu
hiện lệch lạc, thiếu hiểu biết đặt tiền vào tượng thờ. Hiện tại ngoài công viên
tượng đài Nguyễn Trung Trực có thờ tượng cụ. Hàng năm người dân đến thắp
hương vẫn còn đặt tiền tại tượng đài, mưa gió bay lung tung trẻ con tranh
giành làm mất trật tự (mặt dù có bảng chỉ dẫn không hỷ cúng tại tượng đài).
Một hiện tượng khá phổ biến ở lễ hội là xả rác tùy tiện, bẻ cành cây lộc, thắp
hương đốt vàng mã quá nhiều, bất chấp quy định của ban tổ chức lễ hội. Tại
lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực năm 2013 đã xảy ra 03 vụ cướp
giật tài sản thiệt hại 08 chỉ vàng, 10.200.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân.
Đã bắt giữ 02 trường hợp tàng trữ 30 quyển sách, trên 1000 tờ A4 có nội dung
mê tín dị đoan. Xử phạt 19 điểm thu giá giữ xe sai quy định... [4, tr.9].
Thứ hai, là vấn đề môi trường và du lịch. Hiện nay, người dân tham gia
lễ hội với quy mô lớn ngày càng tăng. Trong khi đó, cơ sở vật chất, hệ thống
73
hạ tầng, đặc biệt là khuôn viên của di tích, danh thắng và không gian tổ chức
lễ hội có giới hạn, không đáp ứng nhu cầu tham gia lễ hội của du khách với
mật độ đông, khiến cho các hình thức biểu hiện tính chất, chức năng vốn có
của lễ hội có nguy cơ bị biến đổi. Mặt khác, sự quá tải về số lượng khách
tham gia lễ hội dẫn đến tình trạng lộn xộn, ùn tắc giao thông, mất an ninh trật
tự, tuỳ tiện nâng giá dịch vụ, thiếu nước sạch và không bảo đảm vệ sinh, an
toàn thực phẩm của các quán hàng, tạo những hình ảnh phản cảm, làm giảm ý
nghĩa của lễ hội. Do diện tích của khu di tích đình thần có giới hạn nên số
lượng xây dựng nhà vệ sinh chỉ có 02 khu nên chưa đáp ứng nhu cầu lượng
khách (hiện chỉ có 38 cầu vệ sinh).
Thứ ba, là vấn đề thương mại hóa. Tác động của nền kinh tế thị trường
đôi khi dẫn đến nhận thức sai lệch về mục đích tổ chức lễ hội, tổ chức lễ hội
chưa thực sự chú ý giá trị văn hoá; có tư tưởng trục lợi, coi lễ hội là một
thương phẩm để mưu cầu lợi nhuận, là nguồn lợi riêng của địa phương, nên
tập trung khai thác giá trị kinh tế, thương mại hóa hoạt động dịch vụ phục vụ lễ
hội, mất cân đối giữa yếu tố lễ và hội, đặc biệt những biến tướng như mê tín dị
đoan, hòm công đức tràn lan. Một số doanh nghiệp đóng góp kinh phí tham gia
lễ hội đã lạm dụng quảng bá quá mức, nặng về thương mại, cắt xén phần lễ hoặc
phần hội, làm cho các giá trị vật chất lấn át giá trị văn hóa truyền thống và đạo
đức, bản sắc văn hóa của lễ hội bị phai mờ. Một điều cần chú ý là đơn điệu hóa
lễ hội. Văn hóa lễ hội luôn luôn đa dạng và phong phú. Nhu cầu người dân đến
với lễ hội ngày càng phát triển. Vì vậy, nếu Văn hoá nói chung cũng như lễ hội
nói riêng, bản chất của nó là đa dạng. Như vậy, mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc
thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội. Tuy nhiên, ngày nay, lễ
hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn điệu hoá, làm thui chột đi tính đa
dạng của lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự lễ hội thì cảm thấy
nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa. Vì không có điểm nổi bật và
hàng năm các hoạt động đều giống nhau, thiếu đầu tư và đổi mới.
Lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm
linh nó mang “tính thiêng”. Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng
74
trong mỗi xã hội nó được biểu hiện ở những hình thức khác nhau. Lễ hội tuy
nảy mầm, bén rễ từ đời sống hiện thực, trần tục, nhưng bản thân nó là sự
thăng hoa từ đời sống hiện thực và trần tục ấy. “Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ
hội là ngôn ngữ biểu tượng. Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do
chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu
trưng”, “biểu tượng” của người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục hoá, tức nó
không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ
hội và như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.
Văn hoá nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân
dân, do nhân dân và vì dân. Đó là cách thức mà người dân nói lên những
mong ước, khát vọng tâm linh, thoả mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn
hoá của mình. Do vậy, từ bao đời nay, người dân bỏ công sức, tiền của, tâm
sức của mình ra để sáng tạo và duy trì sinh hoạt lễ hội. Đó chính là tính nhân
bản, khát vọng dân chủ của người dân, nó khác với các nghi thức, lễ lạt của
triều đình phong kiến trước kia. Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội hiện
nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống,
gắn lễ hội với du lịch…đây đó và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu
hướng quan phương hoá, áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ
động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài
sinh hoạt văn hoá mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này
khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả
là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du khách hiểu sai
lệch về nền văn hoá dân tộc.
Vấn đề toàn cầu hóa hiện nay cũng có tác động không nhỏ đến vấn đề
tổ chức lễ hội. Sự chuyển đổi cơ cấu xã hội cùng với những thay đổi điều kiện
kinh tế - xã hội trong quá trình toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội mở rộng giao
lưu văn hoá giữa các cộng đồng trong và ngoài lãnh thổ quốc gia. Đồng thời
cũng làm nảy sinh những mối đe dọa về sự suy thoái, biến dạng lễ hội. Bên
cạnh những nghi thức đã định hình, còn có biểu hiện pha tạp, vay mượn hoặc
cải biên không hợp lý, phong cách biểu diễn không phù hợp với cộng đồng,
75
gây phản cảm, làm biến dạng nghi thức lễ hội. Hiện có xu hướng đua nhau
nâng cấp lễ hội bằng cách tùy tiện thêm vào các thành tố xa lạ với lễ hội hay
tập quán của cộng đồng, vừa tốn kém, vừa làm giảm giá trị chân thực, trần tục
hóa và đơn điệu hóa, thậm chí làm biến dạng lễ hội.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HÓA CỦA LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC Ở TỈNH
KIÊN GIANG HIỆN NAY
Những thách thức và nguyên nhân nêu trên cho thấy, việc bảo tồn, kế
thừa và phát huy giá trị của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở
tỉnh Kiên Giang đang là một vấn đề có tính cấp bách. Cần có cách thức tổ
chức và quản lý lễ hội phù hợp trên cơ sở nghiên cứu điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội, đặc điểm văn hoá dân tộc và quá trình xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở ở Việt Nam. Di sản văn hóa là tài sản vô cùng quý báu của mỗi quốc
gia, dân tộc nó được kết tinh từ những giá trị truyền thống từ ngàn đời của cha
ông. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa là vấn đề đã được Đảng, nhà nước
và nhân dân ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Trung ương 5 khóa 8 về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã
khẳng định vai trò của di sản văn hóa trong sự nghiệp đổi mới.
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh: Gắn kết chặt
chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hóa với phát triển du lịch [28, tr.225]. Xác định chăm lo phát triển văn
hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy sự phát
triển của tỉnh Kiên Giang trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Văn kiện đại hội đại biểu tỉnh Kiên Giang lần thứ X nhiệm kỳ 2010 - 2015
nhấn mạnh: Thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các công
trình lịch sử, văn hóa.
Từ những định hướng chung của Đảng giúp cho công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa đặc biệt là văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực của tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới sẽ đi vào chiều
76
sâu và phát huy được các giá trị tiêu biểu của lễ hội. Việc bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực nhằm:
- Giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lịch sử văn hoá trong sự
nghiệp giữ nước và dựng nước của ông cha ta.
- Tưởng nhớ công đức các Anh hùng dân tộc, những người có công với
dân với nước.
- Tìm hiểu, thưởng ngoạn các giá trị văn hoá thông qua các di tích lịch
sử, danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc nghệ thuật, giữ gìn, phát
huy vốn văn hoá truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc tại
địa phương.
- Vui chơi giải trí lành mạnh, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của bộ phận
nhân dân.
Vì vậy trong những năm gần đây, thực hiện chỉ thị số 27/CT-TW ngày
12-1-1998 của Bộ Chính trị, chỉ thị số 14- 1998/CT-TTg ngày 28-3-1998 của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hoá- Thông tin đã ra Thông tư số 04-1998/TT-
BVHTT ngày 11-7-1998 hướng dẫn thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội.
Quán triệt các vấn đề trên, để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực cần thực hiện một số giải
pháp sau:
3.3.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước
đối với việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội
Quan điểm của Đảng, nhà nước về phát triển văn hóa và quản lý văn
hóa nói chung và quản lý di sản văn hóa nói riêng được thể hiện rõ trong các
văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI. Đặc biệt là nghị
quyết trung ương 5 khóa VIII.
Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là hướng tới nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa. Đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vì hạnh
phúc của nhân dân. Xuất phát từ quan điểm nay, di sản văn hóa dân tộc là một
bộ phận của nền văn hóa dân tộc. Vì vậy nó phải nằm trong sự quản lý thống
nhất của nhà nước dưới vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
77
Điều 25 luật di sản văn hóa quy định: “Nhà nước tạo điều kiện duy trì và
phát huy giá trị văn hóa lễ hội truyền thống thông qua các biện pháp sau đây:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội.
- Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian
truyền thống gắn với lễ hội.
- Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền thống.
- Khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước
ngoài về nguồn gốc, nội dung giá trị truyền thống tiêu biểu, độc đáo của lễ hội.
Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng thể hiện vai trò của Đảng, nhà
nước đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cũa lễ hội Anh hùng dân
tộc Nguyễn Trung Trực trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Để tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà
nước đối với việc bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa cần tập trung
tuyên truyền, quán triệt thực hiện nghiêm các quan điểm chủ trương của Đảng
và các quy định của pháp luật về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cần
có kế hoạch xây dựng đề án, quy hoạch tổng thể về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Xây dựng hồ sơ đề nghị
công nhận lễ hội Nguyễn Trung Trực là di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia.
Cần thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy ban quản lý di tích đình
thần Nguyễn Trung Trực. Động viên, khuyến khích những người hiểu biết về
giá trị văn hóa của di tích lịch sử; có tâm huyết, trách nhiệm, vững chuyên
môn nghiệp vụ tham gia quản lý di tích. Tăng cường quản lý lễ hội bằng cách
hoàn thiện các thể chế luật pháp - chính sách, chúng ta mới có thể có những
chế tài phù hợp. Các cơ quan chức năng cần sâu sát và nâng cao năng lực
chuyên môn, nắm rõ và triệt để chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự do tín
ngưỡng để định hướng cho hoạt động của nhân dân trong việc tổ chức lễ hội,
nhất là với một lễ hội rất có ý nghĩa đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân hơn
100 năm qua.
Cùng với hoàn thiện các thể chế, chính sách, công tác kiểm tra, giám
sát sẽ giúp ngành văn hoá theo sát được những diễn biến đang diễn ra trong
78
thực tiễn. Lễ hội là một sản phẩm của quá khứ, nhưng được vận hành trong xã
hội hiện đại, được lựa chọn bởi những con người trong thời hiện tại. Chính vì
lẽ đó, lễ hội luôn có những thay đổi. Vì vậy, việc giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước là một công việc rất cần thiết trong công tác bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá của lễ hội.
Nhanh chóng nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành theo hướng phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn. Làm rõ việc phân cấp và quy định trách nhiệm của các cấp trong tổ
chức và quản lý lễ hội. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và
đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong quản lý lễ hội. Cơ chế và phương thức
quản lý phải phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm lễ hội. Bên cạnh đó, bảo
đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và điều hành, nhân dân tổ
chức thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả lễ hội.
Quản lý chặt chẽ việc quy hoạch, sắp xếp các hoạt động dịch vụ, vui
chơi giải trí hợp lý. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong
tổ chức lễ hội, tạo điều kiện để nhân dân địa phương tham gia dịch vụ, có
thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hoá trong giao tiếp ứng xử, không
vì khai thác nguồn lợi kinh tế mà làm sai lệch bản chất và nội dung, đánh mất
bản sắc văn hoá và ý nghĩa tốt đẹp của lễ hội.
Cần có quy định trong nghi thức cúng, tế và rước sắc thần đảm bảo tính
trang trọng nhưng phải phù hợp thuần phong mỹ tục. Nghiêm cấm các hoạt
động mê tín dị đoan diễn ra trong lễ hội. Cần có quy hoạch sắp xếp các hàng
quán dịch vụ và hoạt động vui chơi giải trí phù hợp. Thường xuyên kiểm tra
các dịch vụ kinh doanh, đảm bảo giá cả hợp lý. Làm tốt công tác vệ sinh an
toàn thực phẩm, vệ sinh mội trường
3.3.2. Tăng cường nâng cao nhận thức, đẩy mạnh các hoạt động
tuyên truyền về lễ hội
Tạo sự chuyển biến nhận thức của các ban, ngành, đoàn thể các cấp, về
nội dung và ý nghĩa hoạt động lễ hội; chú trọng tuyên truyền các giá trị lịch
sử văn hóa cũng như những quy định của pháp luật có liên quan, kịp thời chỉ
đạo và uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, làm cho việc tổ chức lễ hội ngày càng
79
văn minh, thực sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực
vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Cần coi trọng công tác giáo dục pháp luật, tổ chức việc tuyên truyền,
phổ biến các văn bản pháp luật có liên quan đến văn hóa, quản lý văn hóa và
lễ hội nhất là các văn bản pháp luật mới ban hành. Ngành Văn hóa - Thông tin
các cấp phối hợp với các ngành chức năng và địa phương, cơ sở cần tiếp tục
đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình thức và nội dung phong phú
góp phần giới thiệu, phổ biến các giá trị lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực đặc sắc, quảng bá tiềm năng văn hóa, du lịch của tỉnh Kiên Giang.
Đẩy mạnh hướng dẫn tuyên truyền về ý nghĩa của lễ hội gắn với việc
giới thiệu, tôn vinh công trạng của các vị thần được thờ tại di tích và các khu
vực tổ chức lễ hội (Nguyễn Trung Trực, Lâm Quang Ky, Nguyễn Hiền
Điều)... Thường xuyên tuyên truyền nội dung mang tính phổ biến, giáo dục
pháp luật, hành vi lối sống, cách ứng xử văn hóa... để không chỉ người tổ chức
lễ hội mà cả người tham gia lễ hội hiểu được giá trị di sản văn hóa, nắm được
quy định quản lý để tự điều chỉnh thông qua hành vi cụ thể ; hạn chế được các
biểu hiện tiêu cực trong lễ hội... Đồng thời, chính quyền địa phương nên có kế
hoạch lồng ghép tuyên truyền các nội dung trên vào phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, và coi đó là nhiệm vụ chủ yếu của địa
phương nhằm góp phần xây dựng nếp sống văn hóa lễ hội; Nâng cao nhận
thức, sự hiểu biết, ý thức trách nhiệm, tự giác giữ gìn nơi thờ tự, bảo vệ môi
trường tự nhiên - xã hội của nhân dân trong các di tích lịch sử - văn hóa gắn
với tổ chức lễ hội.
Trước hết cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức của người dân về vai trò của lễ hội đối với việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Chú trọng công tác tuyên
truyền để người dân hiểu rõ những giá trị văn hoá, lịch sử của lễ hội, trân
trọng và tích cực chủ động phát huy các giá trị đó trong đời sống cộng đồng
hiện nay. Cần biên soạn các tư liệu về lịch sử hình thành lễ hội, cuộc đời và
sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực nhằm giới thiệu cho
80
nhân dân trong cộng đồng cũng như du khách tham dự lễ hội. Bên cạnh đó là
việc khôi phục lại các trò chơi, trò diễn có nhiều giá trị văn hoá trong lễ hội.
Cần tái hiện các trò chơi mang tính mô phỏng việc nghĩa quân tập luyện, đốt
cháy tàu Pháp trên sông Nhật Tảo, đánh đồn Kiên Giang…Phải hiểu được ý
nghĩa, giá trị của lễ hội, hiểu được thế nào là thuần phong mỹ tục, là truyền
thống thì người dân mới có ý thức gìn giữ và phát huy vốn tinh hoa văn hoá
đó. Cùng với các hoạt động trên, chúng ta quan tâm tuyên truyền giáo dục
nâng cao nhận thức cho cộng đồng kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng
tiêu cực tại lễ hội và các hoạt động mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội khác.
Cần tích cực tuyên truyền vận động nhân dân tham gia quản lý lễ hội, khơi
dậy họ lòng tự hào đối với lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Giúp
họ nhận thức về nét đẹp của lễ hội. Từ đó họ sẽ góp phần giữ gìn, chung tay
góp sức bảo tồn các giá trị nhân văn của lễ hội. Cần thường xuyên nêu các
gương người tốt, việc tốt trong việc tham gia tổ chức và quản lý lễ hội, đăng
tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trên cơ sở góp phần làm cho
người dân ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của họ tự giác tham gia lễ hội.
Công tác tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ những giá trị văn hoá, lịch sử của
lễ hội được xem là biện pháp hàng đầu trong việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hoá lễ hội trong đời sống hiện nay.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông những
quy định của pháp luật liên quan đến lễ hội. Đổi mới công tác tuyên truyền
phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, đặc biệt là phương thức giới
thiệu, quảng bá trên hệ thống truyền thanh tại lễ hội; cần nâng cao nhận thức
của mọi người dân về giá trị lịch sử, văn hoá của lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực trong đời sống văn hoá tinh thần, từ đó có ý thức đề cao
việc thực hiện pháp luật và tự giác thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội.
Tạo sự chuyển biến nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban,
ngành, đoàn thể về trách nhiệm quản lý lễ hội, đặc biệt là trong tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chỉ thị của Bộ Chính trị, nghị định và quy chế thực hiện nếp
sống văn minh của Chính phủ, quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn hóa, Thể thao
81
và Du lịch, cũng như các văn bản liên quan. Kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch
lạc, làm cho lễ hội ngày càng văn minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của
nhân dân, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương.
3.3.3. Xây dựng chương trình tổng thể bảo tồn, khai thác và phát
huy các giá trị văn hoá của lễ hội
Tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể về mở lễ hội.
Đây là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và có các bước thể nghiệm để
định hình các nghi lễ và các hoạt động hội, đặc biệt là các loại hình lễ hội
mới. Chính quyền địa phương các cấp quản lý chặt chẽ việc quy hoạch sắp
xếp các dịch vụ, các hoạt động vui chơi giải trí hợp lý. Khai thác nguồn lực từ
các tổ chức cá nhân, đóng góp cho việc giữ gìn di sản văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể liên quan đến lễ hội; khuyến khích sự sáng tạo của nhân dân
trong các hoạt động văn hóa lễ hội. Khuyến khích các nhà đầu tư, các thành
phần kinh tế trong và ngoài nước, nhất là kiều bào ta ở nước ngoài đầu tư, tôn
tạo các di tích và tham gia hoạt động tổ chức lễ hội lớn để hướng đồng bào về
với nguồn cội, tổ tiên. Sử dụng nguồn thu từ lễ hội đúng mục đích, phục vụ
tốt công tác bảo tồn di tích và hoạt động lễ hội.
Cần có kế hoạch bảo tồn giá trị đạo đức, thân thế, sự nghiệp và những
chiến công của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Đến nay nhiều câu
truyện, sự tích về chiến công của Anh hùng dân tộc vẫn sống mãi với thời gian,
được các bậc bô lảo truyền khẩu cho con, cháu từ đời này sang đời khác trở
thành niềm tự hào cho người dân Kiên Giang về cụ Nguyễn. Nó trở thành sức
mạnh tinh thần trong việc giáo dục truyền thống đối với thế hệ trẻ hiện nay.
Tiến hành rà soát, phân loại lễ hội, tăng cường công tác quản lý, nghiên
cứu để việc tổ chức lễ hội ngày càng khoa học, có ý nghĩa. Phục hồi những trò
chơi dân gian truyền thống gắn với việc xây dựng nông thôn mới, xây dựng
gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa, bảo vệ công trình di tích lịch sử văn
hóa, giữ gìn vệ sinh môi trường.
Để xây dựng chương trình tổng thể cho việc bảo tồn giá trị văn hóa của
lễ hội cần xây dựng kế hoạch chi tiết,cụ thể cho kịch bản lễ hội. Khi xây dựng
82
kịch bản khung cho lễ hội cần chú ý đến các yếu tố lịch sử và giá trị văn hóa
truyền thống của lễ hội. Việc xây dựng kịch bản khung của lễ hội phải hết sức
khoa học, đảm bảo tính trang trọng. Nhiều hoạt động phải mang tính giáo dục
nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, bày tỏ
lòng kính trọng đối với bậc cha ông, tri ân và tôn vinh công lao to lớn của
những người Anh hùng. Hoạt động lễ hội phải mang tính chất đa dạng, phong
phú tạo được không khí an toàn, tiết kiệm và vui tươi, lành mạnh. Đây là dịp
để nhân dân thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần và niềm tin tín
ngưỡng. Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Làm
cho các hoạt động văn hóa lễ hội thấm sâu vào tâm thức và đời sống của nhân
dân. Kịch bản lễ hội phải truyền tải được các yêu cầu của lễ hội truyền thống.
Xây dựng kịch bản cần có tính chất liên vùng và mang tính cộng đồng. Thiết
kế thời gian tổ chức giữa “lễ” và “hội” phải đảm bảo hài hòa. Các yếu tố
“thiêng” phải thõa mãn nhu cầu tâm linh của đông đảo nhân dân.
Ban tổ chức cần phải xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch tổ
chức lễ hội phù hợp với thực tế tại tỉnh Kiên Giang. Nội dung chương trình kế
hoạch gồm:
Nghiên cứu, tìm hiểu và tổng hợp nguồn gốc, sự tích cũng như vai trò
và ý nghĩa của lễ hội để xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội có các nghi lễ phù
hợp thật sự mang tính chất là lễ hội tiêu biểu của cả nước.
Ban Tổ chức thống nhất chọn địa điểm, thiết kế không gian hội và diễn
trình lễ hội; Quy định lộ trình đám rước của hội; Quy định thời gian chuẩn bị
và thời gian mở hội. Xây dựng nội dung chương trình tổ chức lễ hội với các
công việc: Xác định nội dung chủ đề tư tưởng và ý nghĩa, vai trò của lễ hội;
Soạn thảo biên tập chương trình (có thể dưới dạng kịch bản sân khấu hóa) cụ
thể các bước nghi lễ và quy định thời gian, nội dung cho các lễ thức với số
lượng người tham gia, thời gian tiến hành, xử lý công việc, phục lễ, đạo cụ,
phần lễ, trình tự đội ngũ lễ rước, lộ trình đi của đám rước, nội dung văn tế,
các bước nghi thức tế lễ. Thực hiện nội dung các nghi lễ, nguồn nhân lực chủ
83
yếu lựa chọn, sử dụng những người có độ tuổi trung niên và cao tuổi. Trong
trò diễn xây dựng hình thức, nội dung phù hợp với tính chất, chủ đề của lễ
hội. Căn cứ vào nội dung của lễ hội, quy định thời gian diễn xướng, trang
phục, động tác diễn xuất, số lượng người tham gia, cử người dàn dựng, quy
định thời gian luyện tập. Phải có kịch bản và sự chuẩn bị tập luyện chu đáo.
Các hoạt động vui chơi, giải trí được tổ chức trên cơ sở khai thác, phục
dựng các trò chơi dân gian. Cần quan tâm tổ chức các giải thi đấu thể thao
mang tính khu vực như đua thuyền truyền thống, thi bơi lội. Đồng thời, tổ
chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao theo hướng kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại. Tổ chức thi đấu, giao lưu các môn thể thao như
bóng đá, bóng chuyền, cầu lông... đặc biệt với lợi thế sông nước khu vực đình
thần có thể tổ chức giải bơi thuyền thúng, thi chèo xuồng ba lá nhằm tái hiện
cảnh tập luyện cũng như chiến đấu của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.
Kết hợp tổ chức các hoạt động kinh tế văn hóa như giới thiệu sản phẩm
hàng hóa đặc trưng của tỉnh Kiên Giang như chiếu Tà Niên, hàng thủ công
mỹ nghệ từ cỏ Bàng (Phú Mỹ), Lục Bình (Gò Quao), Tranh võ tràm (An
Minh)…Cần có những mặc hàng lưu niệm mang đặc trưng của tỉnh giới thiệu
đến khách tham quan lễ hội. Tổ chức các hoạt động kinh doanh các sản phẩm
hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt của nhân dân và các hoạt
động dịch vụ.
Khi xây dựng kịch bản phục vụ lễ hội phải chú trọng đến những giá trị
lịch sử, những sự kiện chính trị và bản sắc văn hóa độc đáo của địa phương.
Vì vậy, chủ đề của lễ hội phải mang tính tư tưởng sâu sắc, nội dung nghệ
thuật phù hợp, cô đọng và xúc tích, hình thức thể hiện sinh động, tránh phô
trương lãng phí, gây phản cảm. Các chương trình phục vụ lễ hội cần có nội
dung phù hợp với lễ hội Anh hùng dân tộc.
3.3.4. Cần có kế hoạch huy động các nguồn lực tham gia lễ hội
Hiện nay nguồn kinh phí phục vụ cho lễ hội chủ yếu do huy động sự
đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên để làm tốt cho việc bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa của lễ hội cần có sự quan tâm hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Có kế
84
hoạch kêu gọi tài trợ, sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước. Đẩy mạnh việc khai thác các nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, khuyến
khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh nhất là kiều
bào ở nước ngoài góp phần đầu tư, tôn tạo di tích và tham gia vào các hoạt
động lễ hội. Quản lý chặt chẽ việc cung tiến và tu bổ di tích tránh tình trạng
phá vỡ nguyên gốc những giá trị vốn có của di tích và cảnh quan.
Tăng cường xã hội hóa trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa lễ hội. Bởi vì mục đích của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của lễ hội là nhằm phục vụ nhu cầu của đông đảo bà con nhân dân. Chính vì
vậy sự đóng góp của cộng đồng xã hội vừa là trách nhiệm, vừa là nghĩa vụ để
góp phần bảo vệ di tích. Đây chính là cơ sở cho việc xã hội hóa của hoạt động
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa lễ hội. Xã hội hóa trong bảo tồn giá trị lễ hội
chính là quá trình để người dân tham gia giữ gìn, sáng tạo những giá trị văn
hóa của lễ hội. Hoạt động xã hội hóa nhằm huy động mọi nguồn lực của các
tổ chức, cá nhân trong cộng đồng tham gia phục vụ lễ hội. Đó là quá trình kêu
gọi sự đóng góp về vật chất, tinh thần như: tài chính, vật liệu, tư liệu, hiện vật,
trí tuệ, tham gia ngày công lao động… vào hoạt động bảo tồn lễ hội. Hàng
năm, lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã làm tốt công tác kêu gọi
sự tham gia đóng góp tích cực của cộng đồng. Vì vậy, cần công khai, minh bạch
các nguồn thu, sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả nhằm phục vụ tốt công tác
bảo tồn di tích và các hoạt động lễ hội. Để tiếp tục huy động nguồn nhân lực cho
lễ hội cần có hình thức tôn vinh, khen thưởng những tập thể, cá nhân tiêu biểu
đóng góp tích cực cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích và công tác tổ chức lễ hội.
Cần có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia phục vụ lễ hội. Để
hoạt động xã hội hóa trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ
hội đạt hiệu quả thiết thực cần chú trọng công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức về trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo tồn lễ hội.
Ngoài sự quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ từ nguồn ngân sách tài chính của
Nhà nước để xây dựng và phát triển văn hóa thì xã hội hóa văn hóa trở thành
quy luật tất yếu khách quan. Thực hiện xã hội hóa thông qua các hình thức sau:
85
- Kêu gọi các cá nhân, dòng tộc trong và ngoài địa phương đóng góp
tiền, đồ vật để tổ chức lễ hội.
- Xây dựng các dự án đấu thầu kinh doanh các hoạt động trong lễ hội
và kêu gọi các nhà thầu tham gia.
- Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động lễ hội với phương châm
“Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm thu hút các nguồn vốn của các
doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân cho hoạt động văn hóa.
- Tích cực khai thác và huy động nguồn thu qua các hoạt động văn hóa
và kinh doanh dịch vụ văn hóa - du lịch để chi lại bổ sung cho hoạt động lễ
hội nói riêng và hoạt động Văn hóa Thông tin nói chung.
- Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân
và các tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các công
trình văn hóa, tôn tạo, bảo tồn các khu di tích lịch sử - văn hóa, các cơ sở ăn
nghỉ và tổ chức kinh doanh dưới sự quản lý của chính quyền các cấp để đảm
bảo không gian tổ chức lễ hội và phục vụ nhu cầu du khách về tham dự lễ hội.
3.3.5. Phát huy các giá trị di tích đình thần Nguyễn Trung Trực
Việc phát huy các giá trị khu di tích đình thần Nguyễn Trung Trực là
một vấn đề có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Đông đảo du khách và người
dân đến với lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ngoài việc vào đình
viếng cụ Nguyễn còn có nhu cầu tham quan khu di tích. Hiện nay nhà trưng
bày thân thế, cuộc đời sự nghiệp của Anh hùng Nguyễn Trung Trực đã đi vào
hoạt động cũng đáp ứng một phần nhu cầu tham quan của nhân dân. Vì vậy
cần phải nâng cao chất lượng hướng dẫn tham quan khu di tích. Công tác
hướng dẫn tham quan đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy giá trị lễ
hội. Người hướng dẫn viên cần truyền tải được những giá trị to lớn về cuộc
đời, sự nghiệp và những hiện vật liên quan đến thân thế Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực. Đến với lễ hội ngoài việc tìm hiểu về giá trị lễ hội, du
khách còn hiểu biết về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tiềm năng và các cảnh
quan của tỉnh Kiên Giang. Để tăng thêm tính hấp dẫn, Ban quản lý di tích cần
phối hợp với Đài phát thanh truyền hình tỉnh Kiên Giang, xây dựng phim
86
phóng sự tài liệu về lễ hội, chiếu các hình ảnh trên máy chiếu lễ hội Nguyễn
Trung Trực sẽ làm hấp dẫn du khách. Cần tăng cường in ấn xuất bản các ấn
phẩm, tờ gấp giới thiệu về lễ hội đến với du khách tham quan và bà con nhân
dân về dự lễ. Hiện nay hằng năm vào dịp lễ hội, Báo Kiên Giang đã tăng số
lượng phát hành để tặng ấn phẩm cho bà con tham dự lễ. Trong thời gian tới
cần tăng cường biên soạn những tờ gấp giới thiệu về Kiên Giang, các lễ hội
tiêu biểu và những nét độc đáo của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực phục vụ khách tham quan. Dựng một số phóng sự thời lượng 15 phút với
các nội dung về cuộc đời, sự nghiệp Anh hùng Nguyễn Trung Trực; về lễ hội
cụ Nguyễn; các hiện vật trong kháng chiến; các địa danh nghĩa quân Nguyễn
Trung Trực đã từng đóng căn cứ để chống pháp; các đền thờ cụ Nguyễn trong
và ngoài tỉnh…
Hằng năm vào dịp lễ hội cụ Nguyễn cần tăng cường các hoạt động
tuyên truyền trước lễ hội trên Website của tỉnh Kiên Giang, Sở văn hóa thể
thao và du lịch, Website của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch cùng với các
trang thông tin điện tử của các sở ban ngành tỉnh Kiên Giang. Mở chuyên
trang, chuyên mục trên Báo Kiên Giang, đài phát thanh truyền hình tỉnh Kiên
Giang về lễ hội cụ Nguyễn. Cần có kế hoạch tổ chức cuộc thi tìm hiểu về
cuộc đời sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trong ngành
giáo dục và nhất là lực lượng đoàn viên - thanh niên của tỉnh. Đây là hoạt
động giáo dục truyền thống giúp tuổi trẻ ra sức thi đua lao động, học tập noi
gương các thế hệ cha ông xứng đáng với sự hi sinh to lớn của các bậc tiền
nhân trong cuộc kháng chiến chống giặc giữ nước vĩ đại.
Đặc biệt coi trọng tính đặc thù, tính độc đáo riêng của mỗi loại hình lễ
hội, tránh làm đồng loạt dẫn đến sự nhàm chán. Phải bằng mọi cách khôi
phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền thống của mỗi vùng,
miền khu vực. Chú trọng bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống và
làm phong phú hơn các giá trị mới trong lễ hội là một vấn đề có ý nghĩa lâu
dài. Khuyến khích những sáng tạo mới trên nền truyền thống để luôn luôn có
cái mới gắn với nhịp sống văn hóa của thời đại, từ hiện đại làm vững bền hơn
87
truyền thống, làm cho lễ hội thêm sức sống mới, phù hợp với nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân. Nhưng, tựu trung là, thứ nhất phải Tinh: Nội dung
phải phù hợp với đặc điểm của địa phương, vùng, miền, dân tộc, tôn giáo...;
thứ hai phải Giản: Tổ chức gọn, nhẹ, an toàn và chu đáo; thứ ba phải Kiệm:
Tiết kiệm thời gian, sức người, sức của và tiền bạc, tránh phô trương hình
thức lãng phí; và thứ tư phải Lạc: Vui tươi, lành mạnh, thiết thực và bổ ích.
3.3.6. Gắn kết chặt chẽ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hóa lễ hội với phát triển kinh tế du lịch
Thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh về chú trọng phát triển
mạnh du lịch để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Kiên Giang. Trong
thời gian tới cần gắn kết chặt chẽ việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực nhằm tạo ra nguồn lợi lớn
cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Kiên Giang là tỉnh được thiên nhiên
ưu đãi với nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa. Là một trong bảy vùng
du lịch trọng điểm của cả nước. Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
là một trong những lễ hội tiêu biểu của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
thu hút hàng triệu lượt người đến với lễ hội và tham quan đình thần Nguyễn
Trung Trực hàng năm.
Trong xây dựng chương trình tổ chức lễ hội cần chú trọng đến mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa. Quan tâm đến việc quảng bá các
di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh của tỉnh Kiên Giang như Hà Tiên, Phú
Quốc, vườn quốc gia U Minh Thượng, thắng cảnh Hòn Đất...
Kết hợp tour du lịch văn hóa tâm linh tham quan miếu Bà Chúa Xứ
(An Giang), dự lễ hội đình thần Nguyễn Trung Trực (Kiên Giang)... Phối hợp
với các cơ sở lưu trú, công ty du lịch...tổ chức các sự kiện với chương trình
khuyến mãi hấp dẫn nhằm đưa du khách đến với lễ hội và tham quan, nghĩ
dưỡng ở Hà Tiên, Phú Quốc.
Gắn kết chặt chẽ giữa bảo tồn phát huy giá trị văn hóa lễ hội Anh hùng
dân tộc Nguyễn Trung Trực với vấn đề phát triển kinh tế du lịch của tỉnh là
một việc làm có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng
88
cần được nhận thức một cách khoa học. UNESCO từng khẳng định: “Nước
nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn
hóa thì nhất định sẽ xãy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn
văn hóa và tiềm năng sáng tạo sẽ bị suy yếu rất nhiều” [97, tr.5].
Luật Du lịch ban hành năm 2005 ghi rõ: “cảnh quan thiên nhiên, yếu tố
tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người
và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du
lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, tuyến du lịch” .Lễ hội
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực có sức thu hút hàng vạn người từ khắp
nơi trên mọi miền tổ quốc và kiều bào về tham dự. Đây là cơ hội cho việc
quảng bá tiềm năng, thế mạnh đối với du khách. Các giá trị văn hoá lễ hội cần
được tôn vinh và phát huy dưới góc độ kinh tế du lịch như một “tài sản văn
hoá đặc trưng” để thu hút sự quan tâm ngày càng tăng của du khách trong và
ngoài tỉnh, khách quốc tế. Những năm qua, du khách đã biết đến Kiên Giang
với cảnh đẹp của thắng cảnh Hà Tiên, Phú Quốc và khu sinh thái vườn quốc
gia U Minh Thượng. Vì vậy trong thời gian tới, tỉnh Kiên Giang cần có kế
hoạch bảo tồn di tích tôn tạo và phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hoá
đình thần Nguyễn Trung Trực gắn với dự án liên kết du lịch. Giá trị văn hóa
của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực mà du khách được tiếp xúc
chính là giá trị cộng đồng, cộng mệnh và cộng cảm trong niềm phấn khởi của
nhân dân khắp nơi về Kiên Giang để tổ chức lễ giỗ cụ Nguyễn. Đến với lễ
hội, du khách như tham quan một bảo tàng văn hóa sống động với các nghi
thức, trò diễn, sân khấu hóa về hình tượng người Anh hùng làng chài Nguyễn
Trung Trực. Giúp họ thưởng thức các giá trị văn hóa cộng đồng, tinh thần
nhân ái, các phong tục, tập quán tốt đẹp của lễ hội. Thông qua hoạt động du
lịch đến lễ hội, con người được tiếp xúc với các thành tựu văn hóa phong phú
đa dạng giúp họ càng yêu quê hương, đất nước. Tự hào với truyền thống văn
hóa của dân tộc ra sức bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa.
Để khai thác lễ hội - nguồn tài nguyên để phát triển du lịch, lễ hội Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực phải tạo ra được sự hấp dẫn mang tính
89
riêng biệt đặc thù, với các nội dung, hình thức phong phú mang đậm được sắc
thái địa phương. Bên cạnh đó cần có sự đầu tư thích đáng nhằm đáp ứng nhu
cầu tham quan, nghiên cứu khoa học, đồng thời khai thác kinh doanh du lịch,
cùng các dịch vụ khác về lễ hội. Việc làm này không dễ dàng, đòi hỏi hết sức
thận trọng, nhưng nó có tác dụng bảo tồn lễ hội, nhằm giáo dục tinh thần dân
tộc và quảng bá hình ảnh của địa phương đến với đông đảo du khách. Bởi vì,
văn hóa và du lịch có mối quan hệ chặt chẽ cùng thúc đẩy sự phát triển đến
đời sống văn hóa xã hội của mỗi quốc gia. Hiện nay du khách nước ngoài đến
với Kiên Giang ngày một đông, vì vậy cần gắn kết giữa tham quan lễ hội và
phát triển du lịch nhằm tăng trưởng kinh tế cho tỉnh.
3.3.7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, khen thưởng và xử
lý vi phạm trong hoạt động lễ hội
Xây dựng các phương án tăng cường giám sát, kiểm tra thường xuyên,
liên tục, lâu dài; quản lý, hướng dẫn và kiên quyết xử lý nghiêm những sai
phạm trong lĩnh vực tổ chức, quản lý lễ hội trên địa bàn. Các hình thức xử lý
vi phạm phải dựa trên các nghị định, chế tài, chính sách pháp luật của Đảng
và Nhà nước, quy chế, quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, chính quyền địa
phương. Đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động văn hóa, kinh doanh
dịch vụ văn hóa với phương châm phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời tránh để sự
việc xảy ra rồi mới xử lý.
Hoàn thiện và bổ sung các văn bản quản lý làm cơ sở pháp lý cho các
chủ thể kinh doanh dịch vụ văn hóa tự điều chỉnh hành vi hoạt động của mình
cũng như điều chỉnh các hành vi của cơ quan quản lý nhà nước.
Kiện toàn đội ngũ thanh tra, giám sát của ngành từ tỉnh đến cơ sở: Tăng
cường bổ sung, bố trí lực lượng tham gia đoàn kiểm tra có khả năng đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao
năng lực cho cán bộ làm công tác thanh tra. Trang bị phương tiện, kỹ thuật
cho công tác kiểm tra và chi mức bồi dưỡng cho cán bộ tham gia kiểm tra, có
chế độ động viên, khuyến khích kịp thời bằng các hình thức khen thưởng vật
chất (tiền) và tinh thần (giấy khen).
90
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên ngành trong quản lý lễ hội: Cơ
quan Quản lý nhà nước, Công an, Quản lý thị trường, Thanh tra văn hóa...
giúp cho công tác kiểm tra đạt chất lượng và hiệu quả.
Ban tổ chức lễ hội thực hiện khen thưởng vật chất và tinh thần nhằm
động viên, khuyến khích các cá nhân, địa phương trong việc bảo tồn, phát huy
giá trị lễ hội. Đồng thời, phê bình và xử lý những tập thể, cá nhân chưa làm
tốt trách nhiệm. Đẩy mạnh công tác quản lý giám sát, nâng cao chất lượng các
dịch vụ hiện đang khai thác phục vụ khách tham quan tại các điểm di tích
như: dịch vụ bán đồ lưu niệm, bán hàng giải khát, dịch vụ thuyết minh tại
chỗ… nhằm giảm thiểu mọi phiền hà không đáng có cho khách du lịch, đảm
bảo chất lượng hàng hoá, dịch vụ trong sự quản lý của ngành Du lịch.
3.3.8. Tăng cường quản lý dịch vụ, vệ sinh môi trường, trật tự công cộng
Quản lý các hoạt động kinh doanh dịch vụ trong quá trình tổ chức lễ
hội phải có quy định các sản phẩm hàng hóa được phép kinh doanh, các loại
hình dịch vụ được phép tổ chức hoạt động, tránh tình trạng hàng quán lộn
xộn, lấn chiếm không gian lễ hội. Duy trì kiểm tra, giám định chất lượng, vệ sinh
an toàn thực phẩm, niêm yết gía cả sản phẩm hàng hóa và các loại hình dịch vụ.
Thực hiện chế độ đăng ký, kiểm duyệt và cam kết giữa các chủ kinh doanh với
chính quyền địa phương và Ban tổ chức lễ hội. Tăng cường lực lượng quản lý,
giám sát chặt chẽ trong thời gian lượng khách về dự hội đông và thời gian nghỉ
trưa để khắc phục tình trạng bán hàng rong, tổ chức trò vui chơi có thưởng mang
tính chất cờ bạc, tự tăng giá đột biến các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Bên cạnh đó, cần chỉ đạo và đẩy mạnh công tác vệ sinh môi trường như:
Thiết lập hệ thống thu gom và xử lý rác thải từ hoạt động của du khách
và các dịch vụ phục vụ trước, trong và sau lễ hội tại khu vực tổ chức lễ hội.
Tăng cường bố trí các thùng đựng rác có dung tích lớn đặt ở những nơi thuận
tiện trên các tuyến giao thông, đường đi lại, nơi nghỉ ngơi, mua bán, ăn uống
của du khách và nhân dân dự hội. Duy trì trên hệ thống loa truyền thanh có
nội dung phổ biến nội quy, quy chế lễ hội nâng cao ý thức tự giác vệ sinh
công cộng, bảo vệ môi trường và trên các phương tiện cổ động trực quan.
91
Ban tổ chức cần xây dựng biện pháp phân tán và kiểm soát du khách để
giảm bớt tác động đến môi trường thông qua các quy định hoặc thông tin
tuyên truyền và thuyết phục.
Quản lý an ninh trật tự, an toàn và phòng chống cháy nổ cần được duy
trì, tăng cường và đặc biệt chú trọng ở khu vực đình và nơi tổ chức hội. Ban
tổ chức lễ hội cần xây dựng nội quy, quy định, tuyệt đối không để xảy ra mất an
ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ và
các tai nạn, tệ nạn khác làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Khuyến khích, kêu gọi thành lập đội thanh niên, học sinh tình nguyện
kết hợp với công an, dân quân tự vệ, đoàn thanh niên và chính quyền địa
phương có mặt trên các tuyến đường giao thông đi vào khu vực lễ hội, có
nhiệm vụ hướng dẫn, ngăn chặn các hành vi vi phạm.
3.3.9. Hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức và quản lý lễ hội, xây dựng
đội ngũ chuyên môn chất lượng cao
Quản lý văn hóa trong lễ hội không phải bất cứ cái gì người cán bộ
quản lý văn hóa cũng phải nhúng tay vào. Nếu như vậy thì sẽ gây phản cảm
của những người trực tiếp tham gia vào công việc lễ hội và nhân dân địa
phương. Mà quản lý ở đây là hướng dẫn cho những người trực tiếp tham gia
lễ hội về các công việc trong quá trình lễ hội diễn ra.
Thường xuyên nâng cao vấn đề kiện toàn bộ máy quản lý di tích và
nâng cao vai trò trách nhiệm của ban quản lý lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực. Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ,
năng lực quản lý và tổ chức lễ hội. Nâng cao chất lượng hoạt động thuyết
minh hướng dẫn tại các điểm tham quan di tích bằng cách tăng cường đào tạo
đội ngũ hướng dẫn viên du lịch và các thuyết minh viên tại các nơi diễn ra lễ
hội để đạt yêu cầu cao về trình độ, ngoại ngữ, cách giao tiếp ứng xử với
khách. Tổ chức lại việc đón tiếp khách, giới thiệu, trưng bày và tổ chức các sự
kiện cho đỡ tạo cảm giác tẻ nhạt, nhàm chán.
Cán bộ thuyết minh có vai trò trong việc quản lý tổ chức lễ hội. Đội
ngũ cán bộ này lại có quan hệ trực tiếp gắn bó với dân nên họ cũng chính là
92
người kịp thời nhất trong việc phát hiện, uốn nắn những lệch lạc trong lễ hội.
Vì vậy cần nghiên cứu, hướng dẫn xây dựng các thể chế văn hóa mang tính tự
quản của cộng đồng.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tiểu ban trong tổ chức, điều hành
các hoạt động của lễ hội. Ngay có kế hoạch tổng thể về lễ hội, các tiểu ban sẽ
xây dựng kế hoạch chi tiết, dự báo các tình huống phát sinh nhằm đưa ra các
biện pháp xử lý kịp thời nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Bảo tồn các giá trị di sản văn hóa là một hoạt động đòi hỏi phải có
chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực văn hóa. Cho nên chất lượng, hiệu quả
hoạt động của cán bộ quản lý đình thần, cán bộ làm công tác tổ chức lễ hội có
vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, trùng tu, tôn tạo nhằm phát huy các giá
trị di sản văn hóa. Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức,
quản lý lễ hội là việc làm rất cấp bách. Vì vậy phải lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ chuyên môn trên lĩnh vực này là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay.
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.4.1. Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du 1ịch cần tổng kết thực tiễn, hội thảo tranh
thủ ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học để ban hành bản quy chế
quản lý lễ hội thay cho quy chế quản lý lễ hội năm 2001 đã có nhiều điểm
bất cập (có những yêu cầu cấm nhưng hầu hết các lễ hội vẫn cứ thực hiện,
như các dịch vụ gọi hồn, giải hạn, trừ tà, xem số... Việc đốt đồ mã cũng vậy,
hầu hết các lễ hội liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng vẫn đều thực hiện). Vậy
những thực trạng này cần được quản lý ra sao? Ngay về thời gian tổ chức lễ
hội, trong quy định của quy chế sẽ không phù hợp với những lễ hội mang
tính chất quảng bá du lịch. Hiện nay cơ quan quản lý nhà nước đã có một số
văn bản mang tính quy phạm pháp luật như: Quy chế thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ban hành theo quyết định số
308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ
hoặc Thông tư số 04/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Các
93
văn bản này bước đầu đã đề cập những vấn đề quản lý mới nhưng riêng về lễ
hội vẫn còn nhiều yếu tố bất cập, chưa quản lý được các tình huống, chưa
hướng dẫn các chế tài xử phạt hoặc một số điểm còn bất cập, không đi vào
thực tiễn. Cần phân biệt giữa lễ hội cổ truyền đang biến đổi và các loại lễ hội
mới, các sự kiện festival mới hình thành và du nhập để có các quy định quản
lý phù hợp.
- Cần nghiên cứu cải tiến và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy
quản lý di sản văn hoá hiện nay theo một cơ chế tách bạch, rành rọt, thực hiện
được ba chức năng lớn: bảo vệ, trùng tu, khai thác.
Về đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy quản lý 1ễ hội: Hệ thống
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp văn hóa nghệ thuật du lịch các tỉnh
cần có chương trình giảng dạy về việc tổ chức quản lý lễ hội, nhằm đào tạo
các cán bộ quản lý văn hóa có trình độ và khả năng quản lý lễ hội, xử lý đúng
các tình huống xảy ra trong công tác quản lý ở địa phương.
Cục Văn hóa cơ sở cần thành lập phòng quản lý lễ hội và tổ chức sự
kiện. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều có tổ hoặc chuyên viên
chuyên về quản lý lễ hội và việc tổ chức các sự kiện. Cục Văn hóa cơ sở, Hội
Di sản, Hội Văn nghệ Dân gian, Viện Khoa học xã hội…cần tổ chức nhiều
hội thảo khoa học để bàn về quản lý lễ hội hiệu quả. Trong điều kiện các lễ
hội đều có xu hướng biến đổi hoặc thích nghi với đời sống đương đại hoặc
xuất hiện nhiều loại hình mới chưa có trong xã hội truyền thống thì yêu cầu
nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận về lễ hội là một yêu cầu cấp bách.
3.4.2. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, quản lý nhà nước đối với phát triển
văn hoá thông tin theo Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII, và kết luận Hội
nghị Trung ương 10 (khoá IX). Tiếp tục củng cố, nâng cao nhận thức và năng
lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp uỷ Đảng, chính quyền,
thấm nhuần quan điểm: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, xây dựng và phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội để phát
triển xã hội một cách bền vững.
94
- Quan tâm, chỉ đạo sâu sát, có hiệu quả việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa ở địa phương. Tạo cơ chế, định hướng và tài chính, nguồn nhân
lực để các ngành có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với
việc bảo tồn và khai thác lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
- Tăng cường công tác sưu tầm tài liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời
sự nghiệp và cuộc khởi nghĩa của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực cho
nhà trưng bày hiện vật.
- Tăng cường đầu tư nguồn lực trong công tác bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa của lễ hội.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm trong quá trình
tham gia lễ hội của người dân.
Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá lễ hội có nhiều mục đích
khác nhau, không chỉ riêng mục đích thuần tuý văn hoá. Bên cạnh đó, cần lập
quy hoạch các dự án cụ thể để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của các
di tích và lễ hội gắn với phát triển du lịch; đồng thời phải được gắn với quy
hoạch phát triển của các lĩnh vực khác như giao thông, phát triển hạ tầng điện,
nước... Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể thấy các mục đích khác nhau của
việc bảo tồn lễ hội, thấy được những ưu tiên cho phát triển, các nguồn lực bên
ngoài cũng như bên trong và dự toán trước những thay đổi không chỉ trong
lĩnh vực văn hoá mà còn cả các lĩnh vực khác.
3.4.3. Đối với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
Ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan chủ trì tổ chức chỉ đạo,
quản lý việc thực hiện nghiên cứu, lễ hội nhằm có biện pháp quản lý phù hợp.
Do vậy, ngành Văn hoá, Thể thao & Du lịch cần tổ chức nghiên cứu tổng thể,
phân loại, lên bản đồ về thực trạng lễ hội diễn ra hàng năm, điểm mạnh, điểm
yếu của lễ hội. Từ đó có các kế hoạch quản lý, định hướng phục hồi lễ hội
theo hướng bổ sung những tiêu chí cụ thể để nâng cấp lễ hội.
- Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh cần phối hợp cùng với Sở
Giáo dục và Đào tạo tập trung nghiên cứu, biên soạn, đưa nội dung giáo dục ý
95
thức bảo vệ di sản văn hoá trong các trường học. Cần phải tuyên truyền, giáo
dục bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách báo, tạp chí,
ảnh, phim phóng sự… để cho mọi người dân thấy được tầm quan trọng và giá
trị của các di tích, về bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức trách nhiệm, tự giác
đối với việc bảo vệ các di tích, môi trường nói chung và môi trường du lịch
nói riêng. Nâng cao ý thức công dân trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
- Rà soát, sắp xếp và quy hoạch lại hoạt động kinh doanh dịch vụ du
lịch tại tất cả các điểm diễn ra lễ hội, đặc biệt là ở những khu vực thường
xuyên có khách đến tham quan. Mọi hoạt động kinh doanh, dịch vụ phải theo
đúng luật pháp và quy chế hoạt động của điểm đến tham quan.
Tổ chức lễ hội là cơ hội để đoàn kết cộng đồng, giáo dục lịch sử vừa là
cơ hội để phát triển kinh tế, quảng bá hình ảnh cộng đồng. Hơn thế nữa,
người tham dự lễ hội từ nhiều nơi nên cũng nảy sinh các nhu cầu khác nhau.
Ngành Văn hoá, Thể thao & Du lịch cần định hướng nhu cầu của người dân
tham gia lễ hội vào những hoạt động lành mạnh. Chính vì vậy, việc tổ chức
các sinh hoạt văn hoá - thể thao, mở các hội chợ giới thiệu sản phẩm địa
phương cần phải được xem như một trong những mục đích quan trọng của việc
tổ chức lễ hội. Làm được điều này, nhà tổ chức, quản lý lễ hội không chỉ định
hướng được nhu cầu của khách tham dự lễ hội mà còn phát huy tác dụng của lễ
hội đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá của địa phương.
Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của lễ hội đều cần nhấn
mạnh đến vai trò của người dân địa phương. Trong việc tổ chức lễ hội cần
được tính toán hợp lý để đảm bảo sự chỉ đạo, định hướng phát triển của chính
quyền địa phương và vai trò chủ thể là nhân dân địa phương trên địa bàn. Bản
thân các hoạt động trong lễ hội vẫn là đời sống tâm linh từ lâu đời của cư dân
địa phương, nên cần tuyên truyền nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm
của cộng đồng cư dân tham gia giữ gìn, phát huy các giá trị lễ hội.
Khi tổ chức lễ hội, chính quyền các cấp tham gia nhằm nâng tầm quản
lý, tạo điều kiện khai thác và phát huy hiệu quả lễ hội tốt hơn, chứ không có
96
nghĩa là vai trò quản lý, tổ chức cộng đồng đã được cơ quan nhà nước làm
thay. Sinh hoạt văn hoá tinh thần của người dân được quảng bá, khai thác
đồng thời là cơ hội làm giàu cho địa phương về khai thác phát triển du lịch,
giáo dục truyền thống cho con em noi theo.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực luôn giữ vai trò như sợi
dây gắn kết cộng đồng, tạo dựng không gian văn hóa vừa trang trọng, linh
thiêng, vừa tưng bừng, náo nức. Lễ hội trở thành nơi công chúng đến với lịch
sử cha ông, trở về với cội nguồn dân tộc, tưởng nhớ công ơn người đi trước,
cầu mong những điều tốt lành. Ðồng thời là nơi người dân được vui chơi, giải
tỏa, bù đắp về tinh thần. Hiện nay lễ hội đã trở thành xu hướng khôi phục các
giá trị văn hóa truyền thống, mở rộng phạm vi theo xu hướng giao tiếp văn
hóa liên miền, liên vùng. Lễ hội ngày càng phát triển với quy mô và hình thức
ngày càng đa dạng, phong phú. Đáp ứng nhu cầu du lịch tâm linh của đông
đảo nhân dân.
Tuy nhiên thời gian qua, từ thực trạng của hoạt động lễ hội, dường như
ý nghĩa thiêng liêng đó đã ít nhiều suy giảm trước sự xâm lấn của yếu tố xã
hội hóa, thương mại hóa và các hiện tượng tiêu cực khác.
Vì vậy việc đưa ra những xu hướng dự báo nhằm đề ra các giải pháp
đồng bộ, hiệu quả, thiết thực sẽ góp phần tổ chức và quản lý lễ hội một cách
chặt chẻ trong thời gian tới. Từ đó đặt ra những vấn đề trong quy hoạch và
thực hiện quy hoạch một cách đồng bộ, khoa học, hiệu quả từ việc kiểm kê, rà
soát…góp phần tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử đình thần Nguyễn Trung Trực cũng
như để lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực trở thành di sản văn hóa phi
vật thể của tỉnh. Vì vậy, việc tăng cường hoạt động quản lý nhà nước trong quản
lý du lịch lễ hội sẽ tránh được tình trạng “thương mại hóa” và làm mất bản sắc lễ
hội. Góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
97
KẾT LUẬN
Kiên Giang là một tỉnh nằm phía Tây Nam tổ quốc Việt Nam, cộng
đồng cư dân Kiên Giang có vai trò rất quan trọng trong quá trình khai phá
vùng đất Tây Nam bộ. Trong quá trình cộng cư, các dân tộc Việt, Khmer và
Hoa đã chung lưng đấu cật khai thác thiên nhiên, xây dựng quê hương và tạo
nên một sắc thái văn hóa riêng. Là tỉnh được ví như “một đất nước thu nhỏ”
có nhiều tiềm năng du lịch được thiên nhiên ưu đãi. Kiên Giang vừa có đồng
bằng, vừa có rừng, biển, hải đảo, biên giới, đồi núi, di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh nổi tiếng.
Lịch sử hình thành cộng đồng dân cư ở Kiên Giang cho thấy: tính chất
hỗn hợp, đa dạng về dân tộc và tiến trình hòa hợp các dân tộc là hiện tượng
lịch sử có tính quy luật bắt nguồn từ lịch sử di dân và sự hình thành vùng sinh
thái ở đồng bằng sông Cửu Long. Vào buổi đầu khai phá vùng đất Nam Bộ,
Kiên Giang vẫn còn hoang sơ đầy nguy hiểm, các hiểm họa của môi trường
sống (rừng thiêng, nước độc, thú dữ, đạo tặc) vẫn ngày đêm rình rập người cư
trú. Để chống lại thiên tai, dịch họa, địch họa con người của buổi đầu mở đất
đó đã đoàn kết gắn bó nhau lập nên những kỳ tích, góp phần cùng cả nước
viết nên những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Trong vô số những tiền
nhân mà tên tuổi của họ đã gắn liền với tên đất, tên làng của Kiên Giang thì
Nguyễn Trung Trực, người thanh niên xuất thân từ nghề chài lưới đã trở
thành Anh hùng tiêu biểu được nhân dân tôn thần, là một biểu tượng sáng
ngời của chủ nghĩa yêu nước. Đằng sau những chiến công hào hùng đã chứa
đựng một nhân cách, một chí khí, một bản lĩnh văn hóa chống giặc cứu nước
“Bao giờ người tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh tây”.
Một câu nói không chỉ thể hiện bản chất Anh hùng của một cá nhân, mà đó là
sự kết tinh hào khí của cả dân tộc, thể hiện bản chất Anh hùng của dân tộc
Việt Nam ta trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ
quyền của đất nước.
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực hi sinh, nhân dân Kiên Giang đã
thờ ông, tôn vinh ông thành vị nhân thần. Suốt 145 năm qua, lễ giổ kỷ niệm
98
ngày hi sinh của ông trở thành lễ hội tiêu biểu của tỉnh đón hàng triệu đồng
bào từ nhiều tỉnh thành trong cả nước về dâng hương, chiêm bái, cúng tế. Để
phục vụ nhu cầu ăn, nghĩ, vui chơi giải trí của họ đã có hàng vạn tấm lòng
thiện nguyện cùng chung tay, góp sức. Người có của góp của, người có công
góp công, toàn bộ không gian rộng lớn của lễ hội đâu đâu cũng có thể bắt gặp
những hình ảnh ân cần, chu đáo phục vụ du khách hành hương. Tất cả người
tham dự lễ hội ai ai cũng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc, kính trọng đối với tấm
gương kiên cường, bất khuất của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Nhiều câu chuyện về cuộc đời, sự nghiệp của ông được thần thánh hóa càng
tạo nên những giá trị văn hóa riêng biệt.
Lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã tạo ra một hệ thống
các giá trị văn hóa tiêu biểu đã làm thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần, giáo
dục truyền thống, cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng, hướng về cội
nguồn, tạo ra môi trường sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, bảo tồn làm giàu và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Chính các giá trị văn hóa đó đã làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh
thần của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội Anh hùng
dân tộc Nguyễn Trung Trực ở tỉnh Kiên Giang đã có nhiều chuyển biến tích
cực. Từ đó góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội được tổ
chức nghi thức cúng tế trang trọng, linh thiêng, thành kính. Chương trình hội
đa dạng, phong phú hấp dẫn đã bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán
tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng tiết kiệm, lành mạnh, tiến bộ. Điều đó đã
khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm của người dân tỉnh Kiên Giang và
khắp các tỉnh thành trong cả nước luôn hướng về nguồn cội của cộng đồng.
Nét độc đáo của lễ hội là phát huy vai trò chủ thể của người dân, huy động
nguồn nhân lực, nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng. Góp phần phục vụ
cho tổ chức lễ hội; trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử. Nâng cao trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong tham gia hoạt động lễ hội phù hợp với sự
99
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Kiên Giang và nhu cầu tín ngưỡng của các
tầng lớp nhân dân.
Đảng ta khẳng định: Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc là cốt lõi của bản sắc dân tộc. Cơ sở để sáng tạo những gía trị
mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa; phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng bao
gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa của lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Trước hết cần đẩy
mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông những quy định của pháp luật
liên quan đến lễ hội. Đổi mới công tác tuyên truyền phong phú về nội dung,
đa dạng về hình thức. Cần nâng cao nhận thức của mọi người dân về giá trị
lịch sử, văn hoá của lễ hội trong đời sống văn hoá tinh thần, từ đó có ý thức
đề cao việc thực hiện pháp luật và tự giác thực hiện nếp sống văn minh trong
lễ hội. Tạo sự chuyển biến nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban,
ngành, đoàn thể về trách nhiệm quản lý lễ hội, đặc biệt là trong tổ chức thực
hiện có hiệu quả các chỉ thị 27-CT/TW ngày 12-1-1998 của Bộ Chính trị,
nghị định và quy chế thực hiện nếp sống văn minh của Chính phủ, quy chế tổ
chức lễ hội của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cũng như các văn bản liên
quan. Kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, làm cho lễ hội ngày càng văn
minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào
sự phát triển kinh tế - văn hóa của tỉnh Kiên Giang.
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương (tái bản), Nxb Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. A.I.ARNOLDOV (1985) (Chủ biên), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin,
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
3. Trần Đình Ba, Nguyễn Thị Nhạn (2011), Thuật ngữ điển tích văn hóa, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Ban Bảo vệ đình thần Nguyễn Trung Trực (2013), Báo cáo kết quả phục vụ
lễ giỗ lần thứ 144, 145 năm ngày hi sinh Anh hùng dân tộc Nguyễn
Trung Trực.
5. Ban Tuyên Giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu quán triệt nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
6. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
7. Huỳnh Công Bá (2012), Cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
8. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và
hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.
9. Bảo tàng Kiên Giang tổ chức (1989), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nguyễn
Trung Trực, Kiên Giang.
10. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2000), Vai trò văn hóa trong hoạt động của
Đảng ta hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
12. Trần Văn Bính (2007), Một số vấn đề về văn hóa văn nghệ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
13. Bộ Văn hóa Thông tin (2001), Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày
23/8/2001 về việc ban hành Quy chế lễ hội.
14. Võ Phúc Châu (2011), Truyền thuyết dân gian và những cuộc khởi nghĩa
chống pháp ở Nam Bộ, Nxb Thời đại, Hà Nội.
101
15. Nguyễn Thị Chiến (2013), Mấy suy nghĩ về văn hóa từ truyền thống đến
đương đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
16. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
17. Đoàn Văn Chúc (1994), Những Bài Giảng Về Văn Hóa, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
18. Nguyễn Đăng Duy (2009), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
19. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
21. Lê Tiến Dũng (2011), Văn hóa cội nguồn sức mạnh Việt Nam, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
22. Cảnh Dương (1998), "Phát huy những nét đẹp văn hóa trong lễ hội cổ
truyền", Tạp chí Văn hóa thông tin, (1), tr.26.
23. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang (2005), Văn kiện đại hội lần thứ VII, nhiệm kỳ
2005 – 2010, Kiên Giang.
24. Đảng bộ tỉnh Kiên Giang (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên
Giang lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 – 2015, Kiên Giang.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Kết luận Hội nghị lần thứ X Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
29. Đại Nam thực lục chính biên (đệ tứ kỉ, Q.26) (2007), Tập 7, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
30. Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
102
31. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều nguyễn Hà Tiên, Nxb
Thành Phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
32. Nguyễn Khoa Điềm (2005), 20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ công bằng xã
hội và phát triển văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Giang Minh Đoán (1991), Nguyễn Trung Trực - Anh hùng kháng chiến
chống Pháp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
34. Mai Văn Hai - Mai Kiệm (2008), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
35. Cao Đức Hải (2005), Quản lý lễ hội dân gian cổ truyền, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
36. Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam, Tập 1, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
37. Hoàng Quốc Hải (2005), Văn hóa phong tục, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
38. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Nguyễn Hữu Hiếu (2011), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
40. Lê Như Hoa (2007), Văn hóa vì sự phát triển xã hội, Viện Văn hóa & Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
41. Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật trung ương (2009), Văn
học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Đắc Hưng (2010), Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
43. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1993), Lễ hội truyền thống
trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.
45. Đinh Gia Khánh (2007), Văn hóa dân gian - văn hóa, tuyển tập, tập 3, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
103
46. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2002), Linh Thần Việt Nam, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
47. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
48. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Tập 1, 3, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Khoa (2001), Anh hùng kháng Pháp Nguyễn Trung Trực, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Vũ Như Khôi (2011), Văn hóa giữ nước Việt Nam những giá trị đặc trưng,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
51. Sông Lam (Sưu tầm biên soạn) (2013), Hiền tài đất Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
52. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2006), Đại cương lịch sử Việt Nam - tập II,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Quang Lê (2003), Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
54. Hồ Liên (2008), Một hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
55. Trần Huy Liệu (2003), Lịch sử 80 năm chống Pháp , Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
56. Thu Linh, Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb
Văn hóa, Hà Nội.
57. Dương Linh (2012), Nguyễn Trung Trực khúc ca bi tráng, Nxb Văn học,
Hà Nội.
58. Nguyễn Kim Loan (Chủ biên) (2014), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
59. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (2001), Bàn về tôn giáo và chủ nghĩa vô
thần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (2005), Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb Văn
nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
104
62. Hoàng Nam (2005), Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
63. Sơn Nam (1992), Đình miếu và lễ hội dân gian, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Hồ Chí Minh
64. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn vóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
65. Nhiều tác giả (2000), Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
66. Nhiều tác giả (2004), Văn hóa dân gian - một chặng đường nghiên cứu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Dương Tấn Phát (1986), Công trình Tìm hiểu Kiên Giang của Ban nghiên
cứu lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang.
68. Hoàng Phê (1988 ), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Quốc hội (2005), Luật Du lịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Quốc hội (2011), Luật Di sản văn hóa năm 2001, sửa đổi bổ sung năm
2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Trần Lê Sáng (2010), Tiếp cận văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
73. Dương Văn Sáu (2007), Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
74. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang (2009), Nguyễn Trung
Trực người Anh hùng bất tử đất Nam Bộ, Kiên Giang
75. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hà Nội (2000), Kho tàng lễ hội và cổ truyền
Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
76. Đỗ Khánh Tặng (2008), Một số vấn đề văn hóa dưới góc độ công tác tư
tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hóa dân gian Nam Bộ, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
78. Huỳnh Quốc Thắng (2007), Lễ hội dân gian ở Nam Bộ, Viện Văn hóa &
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
79. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
105
80. Trương Thìn (2012), Tìm hiểu chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của đảng và
nhà nước, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
81. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
82. Ngô Đức Thịnh (2009), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Trẻ, Hà Nội.
83. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
85. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 về
chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020.
86. Đỗ Thị Minh Thùy (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa trong
phát triển, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
87. Nguyễn Đắc Thủy (2009), Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát triển
du lịch ở Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
88. Lê Ngọc Tòng (2004), Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Đoàn Huyền Trang (2009), Lễ hội văn hóa du lịch Việt Nam, Nxb Lao
động, Hà Nội.
90. Lưu Minh Trị (Biên soạn) (2004), Danh thắng, di tích và lễ hội truyền
thống Việt Nam (tập II), Nxb Hà Nội.
91. Nguyễn Phú Trọng (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt
trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta , Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Nghĩa Trọng (2003), Văn hóa văn nghệ trong đổi mới - những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
93. Vương Trí Trung (2009), Phong tục nghi lễ văn hóa xưa và nay, Nxb Hà Nội.
94. Trung tâm Từ điển học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
106
95. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2009), Tài liệu hội thảo khoa học về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa lễ hội Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, Kiên Giang
96. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2011), Kiên Giang lịch sử, phát triển và
kết nối, công ty văn hóa trí tuệ Việt, Kiên Giang. 97. UNESCO (1988), Tạp chí Người đưa tin, (11), tr.5. 98. Thế Thị Vân, Nguyễn Thị Thu Duyên (2011), Lễ hội dân gian Việt Nam
truyền thống và hiện đại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
99. Phan Thái Việt (Chủ biên), Đào Ngọc Tấn (2010), Đại cương về văn hóa
Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
100. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn của Văn hóa Việt
Nam, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
101. Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý (đồng chủ biên) (2005), Lễ hội Việt Nam, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
102. Vụ Văn hóa quần chúng và thư viện (1993), Hội nghị - hội thảo về lễ hội,
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
103. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
104. Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ (2006), Mùa xuân và phong tục Việt Nam (tái bản lần II), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
105. Website: http://www.cinet.org.vn. 106. Website: http://wwwkiengiang.gov.vn. 107. Website: http://wwwvhttdlkv3.gov.vn. 108. Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
109. Võ Thanh Xuân (2013), "Nét đẹp văn hóa trong lễ hội Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực", Tạp chí Thông tin văn hóa và Phát triển, (36).
110. Vĩnh Xuyên (2009), Tìm hiểu địa danh di tích lịch sử văn hóa Việt cổ Kiên
Giang, Nxb Văn nghệ, Thành Phố Hồ Chí Minh.
111. Vĩnh Xuyên (2008), Truyền thuyết dân gian Kiên Giang, Nxb Văn nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh.
112. Nguyễn Hải Yến, Hoàng Trà My, Hoàng Lan Anh (2008), Văn hóa lễ hội truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.