ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
Phan Thị Ngọc
BIẾN ĐỔI SINH KẾ Ở LÀNG GIA TRUNG
(HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI) TRONG
TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ ĐÔ THỊ HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
Phan Thị Ngọc
BIẾN ĐỔI SINH KẾ Ở LÀNG GIA TRUNG
(HUYỆN MÊ LINH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI) TRONG
TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ ĐÔ THỊ HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Mã số: 62 31 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ
CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
Người hướng dẫn khoa học
Chủ tịch hội đồng đánh giá Luận án Tiến sĩ PGS.TS. Lâm Bá Nam
PGS.TS. Nguyễn Văn Sửu
PGS.TS. Nguyễn Văn Sửu
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án Tiến sĩ “Biến đổi sinh kế ở làng Gia
Trung (huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) trong tiến trình công nghiệp
hóa và đô thị hóa” là công trình khoa học của riêng tôi. Các số liệu trong
luận án là trung thực, những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất cứ công trình nào.
Nghiên cứu sinh
Phan Thị Ngọc
Luận án này là một công trình nghiên cứu do tôi thực hiện và phát triển
LỜI CẢM ƠN
từ khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sĩ. Để có kết quả này, ngoài những
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều người và tổ chức,
cơ quan.
Trước hết, tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất tới
thầy hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Văn Sửu - Trưởng khoa Nhân học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Những tiến
bộ và sự trưởng thành trong nghiên cứu khoa học của tôi hôm nay phần lớn nhờ
có công sức truyền dạy của Thầy. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể cán bộ của
Bảo tàng Nhân học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là
GS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung - Giám đốc, TS. Bùi Hữu Tiến - Phó Giám đốc, đã
luôn động viên, khuyến khích và tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và hoàn
thành luận án. Xin gửi lời cảm ơn tới các bạn đồng nghiệp, ThS. Đoàn Văn
Luân, Nguyễn Thu Hương, Đỗ Minh Nghĩa ... đã giúp đỡ và hỗ trợ cho tôi giải
quyết một số vấn đề kỹ thuật trong quá trình viết luận án. Bản luận án của tôi
không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ của Thầy /Cô và các bạn đồng
nghiệp ở Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tôi
thật sự biết ơn họ. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt tới cán bộ và người dân
làng Gia Trung, trong gần 10 năm theo đuổi nghiên cứu về làng trong quá trình
chuyển đổi, người dân và một số cán bộ ở làng đã dạy cho tôi sự thích ứng,
giúp tôi hiểu được giá trị của cộng đồng làng và những thách thức trong cuộc
sống và sinh kế của họ.
Tôi thật sự biết ơn và thấu hiểu sự quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ của
chồng, con gái, bố mẹ và các em gái. Bản luận án này vừa là sự trưởng thành
trong nghiên cứu khoa học của tôi vừa là món quà tinh thần tôi dành tặng Bố
Mẹ tôi - Bậc sinh thành đã “gánh nặng cả cuộc đời” cho chị em tôi học tập và
trưởng thành.
Xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................... 4
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. 5
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ ......................................................................... 6
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 7
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ......................................................................... 9
3. Lập luận nghiên cứu ..........................................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 10
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ....................................................... 10
6. Bố cục luận án .................................................................................................. 11
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................... 12
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ........................................................................... 12
1.1.1. Nghiên cứu sinh kế trên thế giới ................................................................. 12
1.1.2. Nghiên cứu sinh kế ở Việt Nam .................................................................. 16
1.2. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 28
1.2.1. Khái niệm công cụ ...................................................................................... 28
1.2.2. Khung sinh kế bền vững ............................................................................. 37
1.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 42
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 45
Chƣơng 2. LÀNG GIA TRUNG: BỐI CẢNH LỊCH SỬ, VĂN HÓA,
XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP HÓA, ĐÔ THỊ HÓA ................ 46
2.1. Bối cảnh lịch sử và đặc trưng văn hóa, xã hội ................................................... 46
2.1.1. Bối cảnh lịch sử .......................................................................................... 46
2.1.2. Đặc điểm văn hóa, xã hội ........................................................................... 49
2.2. Chính sách công nghiệp hóa, đô thị hóa và quá trình thu hồi đất ...................... 52
2.2.1. Chính sách công nghiệp hóa, đô thị hóa .................................................... 52
2.2.2. Chính sách thu hồi và hỗ trợ thu hồi đất .................................................... 57
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 70
1
Chƣơng 3. SINH KẾ NÔNG NGHIỆP ................................................................. 71
3.1. Đất đai và hoạt động sản xuất nông nghiệp trước khi thu hồi đất ..................... 71
3.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 ......................................................................... 71
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2000 ....................................................... 75
3.2. Hoạt động sản xuất nông nghiệp từ 2000-2017 ................................................. 81
3.2.1. Nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp ...................................................... 81
3.2.2. Hoạt động sản xuất nông nghiệp ................................................................ 88
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 98
Chƣơng 4. SINH KẾ CÔNG NGHIỆP ............................................................... 100
4.1. Đặc điểm nhóm công nhân ở làng Gia Trung .................................................. 101
4.2. Đào tạo nghề .................................................................................................... 104
4.3. Quá trình thích nghi việc làm công nhân ......................................................... 106
4.4. Thu nhập từ lương công nhân .......................................................................... 109
4.5. Sự bấp bênh của sinh kế công nghiệp .............................................................. 111
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 115
Chƣơng 5. SINH KẾ DỊCH VỤ ........................................................................... 116
5.1. Sinh kế gắn với dịch vụ cho thuê nhà trọ......................................................... 116
5.1.1. Nguyên nhân và sự xuất hiện nhà trọ ....................................................... 116
5.1.2. Các loại hình nhà trọ ................................................................................ 119
5.1.3. Vai trò của kinh doanh nhà trọ với sinh kế hộ gia đình ........................... 128
5.2. Sự phát triển hoạt động dịch vụ ....................................................................... 134
5.2.1. Dịch vụ buôn bán thương mại .................................................................. 135
5.2.2. Dịch vụ trông trẻ ...................................................................................... 137
Tiểu kết chương 5 .................................................................................................. 139
Chƣơng 6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ............... 140
6.1. Một số vấn đề đặt ra từ biến đổi sinh kế.............................................................. 140
6.1.1. Đa dạng sinh kế ........................................................................................ 140
6.1.2. Suy giảm sản xuất nông nghiệp ................................................................ 142
6.1.3. Tính bền vững của biến đổi sinh kế .......................................................... 144
6.2. Biến đổi sinh kế góp phần vào biến đổi văn hóa, xã hội và môi trường …….146
6.2.1. Biến đổi văn hóa ....................................................................................... 146
6.2.2. Biến đổi xã hội .......................................................................................... 148
2
6.2.3. Biến đổi không gian sống ......................................................................... 150
6.2.4. Ô nhiễm môi trường ................................................................................. 153
6.3. Một số gợi ý chính sách ................................................................................... 156
Tiểu kết chương 6 .................................................................................................. 160
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 161
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 165
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 166
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 179
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết thƣờng (tiếng Việt và tiếng Anh)
BCH Ban chấp hành
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
DFID Department for International Development
(Cơ quan Phát triển Quốc tế - Vương quốc Anh)
ĐVT Đơn vị tính
JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
GPMB Giải phóng mặt bằng
H Hạng đất
HĐND Hội đồng nhân dân
Khu công nghiệp KCN
Ký hiệu KH
NĐ-CP Nghị định - Chính phủ
Nhà xuất bản Nxb
Quyết định Thủ tướng QĐTTg
Quyết định - Ủy ban QĐ-UB
TTLTQG I Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
UBND Ủy ban Nhân dân
4
UN - Habitat Chương trình Định cư Con người Liên Hiệp Quốc
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Khung giá bồi thường các loại đất năm 2003-2005 ................................... 59
Bảng 2.2: Các khoản bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất nông nghiệp hạng 1
năm 2005 ....................................................................................................................... 62
Bảng 3.1: Ruộng đất trồng trọt ở Gia Trung đầu thế kỷ XIX ..................................... 72
Bảng 3.2: Bảng thống kê tư điền xã Gia Thượng năm 1805 ...................................... 72
Bảng 3.3: Diện tích đất tư điền của người dân Gia Trung phụ canh trên các cánh đồng
của xã Giai Lạc ................................................................................................................... 73
Bảng 3.4: Sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp ở Gia Trung trong giai đoạn
tập thể hóa nông nghiệp ................................................................................................ 78
Bảng 3.5: Quy mô đất đai, số mảnh, xứ đồng của hộ gia đình chia đất năm 1993 .... 80
Bảng 3.6: Sự thay đổi quy mô ruộng đất nông của hộ gia đình bị thu hồi đất ........... 82
Bảng 3.7: Lao động phân theo chiến lược sinh kế chính ở Gia Trung ....................... 86
Bảng 3.8: So sánh hiện trạng làm nông nghiệp của các hộ 2011 và 2017 ................. 89
Bảng 4.1: Sự phân hóa theo độ tuổi của công nhân ở tổ 6 (năm 2016) .................... 101
Bảng 5.1: Phân loại tiện nghi sinh hoạt và thu nhập từ nhà trọ ................................ 127
5
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1: Khung sinh kế bền vững của DFID ............................................................. 38
Hình 2.1: Vị trí làng Gia Trung, thị trấn Quang Minh năm 2018............................... 49
Hình 2.2: Bản đồ phân bố các KCN ở miền Bắc Việt Nam và vị trí KCN
Quang Minh ................................................................................................................... 53
Hình 2.3: KCN Quang Minh và vị trí các thôn/làng phụ cận ..................................... 55
Hình 2.4: Bản đồ quy hoạch chi tiết đất dịch vụ làng Gia Trung năm 2006 .............. 67
Hình 3.1: Bản đồ không gian địa lý và khu dân cư làng Gia Trung (1950-1960) ..... 76
Hình 3.2: Sơ đồ hóa hệ thống kênh mương bị san lấp ở Gia Trung ........................... 84
Hình 3.3: Sơ đồ hóa sự linh hoạt trong canh tác nông nghiệp năm 2017................... 97
Hình 5.1: Các loại hình nhà trọ cho thuê tại Gia Trung năm 2017........................... 123
Biểu đồ 2.1: Giá tiền bồi thường đất nông nghiệp ...................................................... 61
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những thập kỷ vừa qua, sinh kế và sinh kế bền vững đã trở thành
những hướng nghiên cứu quan trọng, có tính khoa học và giá trị thực tiễn sâu
sắc. Cách nhìn phổ biến trong tài liệu nghiên cứu về sinh kế và sinh kế bền
vững ở các vùng nông thôn trên thế giới thường gắn sinh kế với đất đai. Một
nghiên cứu của DFID có tựa đề “Better livelihoods for poor people: the role
of land policy” nhận định sinh kế và nghèo đói ở nông thôn có liên hệ mật
thiết với đất đai, nhưng cũng nhấn mạnh “sự bảo đảm, an toàn và đủ năng lực
chi trả về đất [nông nghiệp] ... không là điều kiện đủ để giảm nghèo” [DFID
2002a, tr.1]. Trong khi đó, Rigg không đồng ý với nhận định trên. Theo tác
giả này, đất đai là một yếu tố quan trọng đối với cuộc sống nông dân ở nông
thôn ở khu vực Đông Nam Á, nhưng ở nhiều nơi, vai trò và tầm quan trọng
của đất nông nghiệp đã bị suy giảm đáng kể so với trước. Tình trạng này sẽ
ngày càng trở nên rõ ràng hơn cả về mức độ rộng khắp và cường độ xảy ra
[Rigg 2005, tr.3]. Lập luận của Rigg có một luận điểm quan trọng, đó là: “Đất
[nông nghiệp] đã và đang bị thu hẹp và các vùng nông thôn Đông Nam Á,
đang diễn ra quá trình tách rời giữa sự nghèo đói và sinh kế ra khỏi việc đồng
ruộng và các nguồn lực nông nghiệp ở vùng nông thôn” [Rigg 2005].
Trong bối cảnh đổi mới và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng, việc xây dựng các khu công nghiệp và
phát triển đô thị đã diễn ra với tốc độ nhanh; ẩn sau những thay đổi „phần
cứng‟ (hệ thống cơ sở hạ tầng, đường xá, nhà cửa, v.v) là những biến đổi „phần
mềm‟ không kém phần quan trọng, bao gồm ý nghĩa là sinh kế của người „nông
dân‟ và „nghề làm nông‟ gắn với đất đang bị thay đổi [Rigg 2005]. Kết quả là
sự phát triển công nghiệp và đô thị ở khu vực ven đô các thành phố lớn, nhất là
khu vực ven đô Hà Nội đã làm chuyển đổi các hoạt động sinh kế của hộ gia
đình nông dân vốn đã nhiều đời sống dựa vào nông nghiệp ở khu vực nông
7
thôn. Tran Quang Tuyen [2013] cho rằng: “Việc mất đất nông nghiệp cùng với
việc bồi thường, không phải lúc nào cũng có tác động tiêu cực đến kết quả sinh
kế của hộ dân. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là một số hộ gia đình
sử dụng phần tiền bồi thường của họ cho tiêu thụ thuận tiện. Ngoài ra, thu nhập
kiếm được từ việc làm khác ngoài nông nghiệp có thể bù đắp hoặc thậm chí
vượt quá sự mất mát từ thu nhập nông nghiệp. Điều này cho thấy rằng mất đất
nông nghiệp có thể gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến kết quả sinh kế (thông qua
tác dụng tích cực của nó về sự tham gia phi nông nghiệp)”. Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt tích cực thì việc thu hồi đất không chỉ khiến các hộ nông dân
mất đi tài sản sinh kế, đặc biệt là đất đai, mà còn làm mất đi địa vị, nguồn thực
phẩm, thu nhập của hộ gia đình và cộng đồng, gây ra nhiều xáo trộn xã hội,
buộc các cá nhân và hộ gia đình phải đối mặt với việc tìm kiếm phương thức
mưu sinh với nhiều khó khăn và bấp bênh; đặt ra nhiều vấn đề về dân số, lao
động, việc làm, ô nhiễm môi trường, an sinh xã hội. Những biến đổi do công
nghiệp hóa và đô thị hóa ở các làng ven đô nhanh chóng trở thành đề tài nghiên
cứu của giới khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có nhân học, xã
hội học, tâm lý học, kinh tế học, v.v.
Như nhiều làng ở khu vực ven đô Hà Nội, làng Gia Trung chịu nhiều
biến động (trong đó có biến động về địa giới hành chính, đất đai, dân số, sinh
kế, v.v.) trong mấy thập kỷ qua do tác động từ các chính sách phát triển công
nghiệp và đô thị ở cấp độ quốc gia và địa phương. Trước những năm 1990,
Gia Trung là một làng thuần nông với hoạt động sinh kế chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp. Những biến đổi kinh tế và xã hội chỉ thực sự diễn ra mạnh mẽ
và nhanh chóng ở làng từ cuối thế kỷ XX khi Nhà nước và chính quyền tỉnh
Vĩnh Phúc thực hiện một loạt dự án phát triển công nghiệp và đô thị ở khu
vực này, dẫn đến biến động về đất đai và làm biến đổi sinh kế của người dân.
Nghiên cứu để hiểu được quá trình biến đổi và thích nghi sinh kế ở những
làng như Gia Trung là rất cần thiết đối với các ngành khoa học xã hội, nhất là
ngành Nhân học. Trong bối cảnh đó, việc lựa chọn đề tài “Biến đổi sinh kế ở
làng Gia Trung (huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) trong tiến trình công
8
nghiệp hóa và đô thị hóa” không chỉ góp phần làm sáng tỏ quá trình biến đổi
sinh kế của người dân ở làng Gia Trung mà còn cho thấy sự đa dạng hóa sinh
kế theo hướng thích nghi của các hộ gia đình sau khi bị mất đất nông nghiệp.
Tôi hy vọng kết quả nghiên cứu trường hợp này sẽ góp phần làm rõ hơn về
quá trình biến đổi và thích nghi sinh kế của người dân ở ven đô Hà Nội và các
thành phố khác ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Sử dụng Khung phân tích sinh kế bền vững, luận án tập trung nghiên
cứu khảo sát và phân tích các hoạt động sinh kế của người dân ở làng Gia
Trung trong gần hai thập kỷ với mục tiêu góp phần hiểu biết về quá trình biến
đổi và thích nghi sinh kế của người dân qua trường hợp một địa bàn cụ thể.
Luận án cố gắng trả lời bốn câu hỏi quan trọng: (i) Công nghiệp hóa và
đô thị hóa làm cho các hộ gia đình nông dân ở làng Gia Trung bị thu hồi đất
nông nghiệp như thế nào? (ii) Biến đổi sinh kế của hộ gia đình diễn ra như thế
nào và theo hướng nào? (iii) Người nông dân thích nghi sinh kế ra sao trong
môi trường sống mới? (iv) Thực tiễn biến đổi sinh kế ở làng Gia Trung đã và
đang đặt ra những vấn đề gì và có các gợi ý chính sách nào có thể hỗ trợ
người dân hướng tới sinh kế bền vững trong quá trình chuyển đổi?
3. Lập luận nghiên cứu
Trình bày kết quả nghiên cứu của luận án, tôi lập luận rằng quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa ở ven đô Hà Nội không chỉ thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình nông dân mà còn làm biến đổi mạnh mẽ sinh kế của
họ. Trong khi nguồn vốn sinh kế truyền thống của nhiều hộ gia đình là đất
nông nghiệp bị suy giảm hoặc biến mất thì nguồn vốn tài chính của họ được
tăng cường cùng với sự xuất hiện của những cơ hội sinh kế phi nông nghiệp,
làm đa dạng hóa sinh kế theo hướng giảm mạnh các hoạt động sinh kế gắn với
nông nghiệp, tăng cường các hoạt động sinh kế gắn với công nghiệp và dịch
vụ. Quá trình biến đổi sinh kế này chứa đựng những căng thẳng, bấp bênh,
nhưng người dân đã từng bước thích nghi và có mức thu nhập tốt hơn so với
9
trước khi bị thu hồi đất nông nghiệp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong bối cảnh các làng ven đô Hà Nội đang từng ngày biến đổi cả về
vật chất và lối sống, tôi chọn làng Gia Trung (nay là tổ dân phố 6 và 7, thị
trấn Quang Minh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) làm nghiên cứu trường
hợp. Trong gần 20 năm qua, làng Gia Trung trải qua quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa nhanh, chuyển đổi từ xã hội nông thôn sang đô thị, tạo nên
những biến đổi mạnh mẽ ở một cộng đồng làng vốn trước kia thuộc khu vực
nông thôn nông nghiệp.
Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi sinh kế của nông dân ở làng
Gia Trung từ năm 2000 đến nay (2017). Mốc thời gian được xác định từ năm
2000, vì đây là thời điểm bắt đầu diễn ra quá trình thu hồi đất nông nghiệp ở
làng để thực hiện các mục tiêu phát triển công nghiệp và đô thị. Để thấy được
sự biến đổi, luận án cũng xem xét, đối chiếu các hoạt động sinh kế của người
dân giai đoạn trước và sau khi bị thu hồi đất ở làng và khu vực xung quanh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học
Ý nghĩa khoa học của luận án được thể hiện ở một số nội dung chính:
Luận án đã phân tích và lý giải một cách có hệ thống và có cơ sở tài liệu về
biến đổi sinh kế ở một làng ven đô Hà Nội, góp phần làm rõ đặc điểm cơ bản
của các chiến lược sinh kế trong không gian làng sau thu hồi đất. Luận án
cũng làm rõ khái niệm biến đổi sinh kế và biến khái niệm này thành một
công cụ hữu dụng để nhận diện loại hình và đặc điểm các chiến lược sinh kế;
phân tích mối quan hệ và sự tương tác giữa biến đổi sinh kế và biến đổi làng
ven đô dưới tác động của chính sách công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Làm rõ vai trò của một số loại vốn sinh kế trong quá trình biến đổi và
thích nghi sinh kế, luận án chỉ ra rằng các loại vốn tự nhiên (đất nông nghiệp,
đất thổ cư), vốn con người (kỹ năng, trình độ tay nghề v.v.), vốn xã hội (quan
hệ xã hội, v.v.), vốn vật chất (nhà cửa) và vốn tài chính đều có vai trò quan
10
trọng trong việc đa dạng hóa sinh kế của người nông dân sau khi bị thu hồi
đất. Ở đây, vốn tự nhiên, vốn con người và vốn xã hội được xem xét trong
mối quan hệ tương quan với nguồn vốn vật chất, vốn tài chính bởi dù người
nông dân sử dụng bất cứ nguồn vốn nào thì đều hướng đến việc tăng cường
nguồn vốn vật chất (nhà cửa, tài sản, v.v.) và nguồn tài chính để phục vụ nhu
cầu sống của họ trong bối cảnh xã hội có nhiều chuyển đổi.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn của luận án được thể hiện trên hai phương diện. Luận
án là một công trình có tính hệ thống, toàn diện và chuyên sâu, cung cấp cho
ngành Dân tộc học /Nhân học nguồn tư liệu mới, phong phú cùng những phân
tích, lý giải với những dẫn chứng cụ thể, đáng tin cậy về những vấn đề liên
quan trực tiếp và gián tiếp đến biến đổi sinh kế của người dân ở một làng ven
đô cụ thể, đồng thời cung cấp những hiểu biết đầy đủ, toàn diện hơn về biến
đổi sinh kế của người nông dân ven đô ở Việt Nam dưới tác động của chính
sách công nghiệp và đô thị. Luận án cung cấp cơ sở khoa học và những gợi ý
có giá trị tham khảo góp phần phát triển sinh kế bền vững của người dân.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận án gồm 6 chương:
Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Làng Gia Trung: Bối cảnh lịch sử và chính sách công nghiệp hóa,
đô thị hóa
Chương 3: Sinh kế nông nghiệp
Chương 4: Sinh kế công nghiệp
Chương 5: Sinh kế dịch vụ
Chương 6: Một số vấn đề đặt ra và gợi ý chính sách
Ngoài ra, luận án còn có Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Danh mục các chữ
viết tắt, Mục lục, Danh mục các bản đồ, sơ đồ, ảnh liên quan đến nội dung
11
luận án.
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong chương này, tôi tổng quan tài liệu nghiên cứu về sinh kế và biến
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
đổi sinh kế trên thế giới, cụ thể là khu vực nông thôn châu Phi và Đông Nam
Á, để thấy được những tác động của chính sách phát triển ở cả cấp độ quốc
gia và địa phương đã dẫn đến biến đổi sinh kế như thế nào. Việt Nam không
nằm ngoài xu hướng này khi cả khu vực nông thôn và thành thị đều đã và
đang diễn ra quá trình biến đổi sinh kế. Từ đó, sinh kế và biến đổi sinh kế trở
thành chủ đề quan tâm của giới khoa học và các nhà quản lý. Trên cơ sở tổng
quan tài liệu nghiên cứu, tôi xác định cơ sở lý luận và phương pháp luận của
luận án.
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Sinh kế trở thành một trong những hướng nghiên cứu nhân học và các
ngành khoa học xã hội từ ít nhất là những thập niên 1980. Nguồn tài liệu
nghiên cứu về chủ đề này thiên về tiếp cận phát triển nông thôn và giảm
nghèo. Trong những thập niên gần đây, vấn đề sinh kế càng được quan tâm
nhiều hơn thông qua các dự án phát triển trên khắp thế giới. Song dù vậy, còn
khá nhiều vấn đề cần được quan tâm một cách kỹ lưỡng và cập nhật hơn với
thực tế biến đổi sinh kế đang diễn ra phức tạp và nhanh chóng hiện nay.
1.1.1. Nghiên cứu sinh kế trên thế giới
Sinh kế gắn với sản xuất nông nghiệp của người dân ở nhiều vùng nông
thôn trên thế giới đã diễn ra xu hướng biến đổi nhanh chóng. Sarah Turner và
cộng sự nhận định: “Nếu ai đã từng nghiên cứu thực địa dài ngày ở Nam Bán
cầu sẽ dễ dàng nhận thấy các yếu tố cấu thành sinh kế luôn biến đổi, kể cả với
các nhóm cư dân truyền thống nhất” [S.Turner, C.Bonnin, J.Michaud 2015].
Khu vực nông thôn vùng hạ Sahara (châu Phi) nói riêng và vùng nông thôn
Nam Bán cầu cho đến nay là một trong những ví dụ rõ ràng về sự thu hẹp đất
12
đai, suy giảm hoạt động sản xuất nông nghiệp, dẫn đến thay đổi hoạt động sinh
kế. Tuy nhiên, tùy vào từng khu vực mà con người có cơ hội thích ứng với loại
hình sinh kế khác nhau. Ở đất nước Nam Phi trong thế kỷ XX, hơn 90% đất đai
của cư dân bản địa bị cưỡng chế thu hồi, tình trạng thiếu đất sản xuất là tác
nhân ngăn cản sự ngưng trệ của sản xuất nông nghiệp, dẫn đến hiện tượng di cư
đến các khu vực đô thị. Vai trò của đất nông nghiệp như một chiến lược sinh kế
chính của người nông dân ngày càng ít quan trọng [Ntsebeza 2010]. Tình hình
tương tự cũng diễn ra với những nông dân khu vực cận Sahara, khi mà các
chính sách điều chỉnh cơ cấu và tự do hóa thị trường đã thúc đẩy quá trình „phi
nông nghiệp hoá‟ ở nhiều vùng nông thôn, buộc người nông dân phải hướng
đến sự đa dạng sinh kế như một chiến lược sống còn của hộ gia đình. “Việc phi
nông nghiệp hoá của khu vực nông thôn đang xảy ra, đồng thời các thành viên,
nam và nữ của các hộ nông dân đang tranh giành để tìm sinh kế có thể thực
hành được” [Ellis 1999, Bryceson 2002].
Nguồn vốn sinh kế cũng là đối tượng phân tích của các nghiên cứu về
sinh kế nông thôn ở những mức độ và chiều cạnh khác nhau. Thông qua phân
tích kết quả ứng dụng thực tế của khung sinh kế bền vững ở Bangladesh,
Etiopia và Mali, Scoones cho rằng có 5 yếu tố chính để đánh giá kết quả của
một sinh kế bền vững, bao gồm: tạo việc làm và thu nhập cho người dân; mức
độ nghèo đói; mức độ hài lòng và năng lực của người dân; thích ứng sinh kế,
tính dễ bị tổn thương và khả năng hồi phục; sự bền vững về mặt tài nguyên
thiên nhiên. Các chỉ số để đánh giá một sinh kế là bền vững được nêu ra khá
rõ ràng, đồng thời là những mục tiêu hướng tới của các dự án, chương trình
phát triển cũng như kế hoạch và chiến lược sinh kế [Scoones 1998]. Trong
quá trình quan sát sự đa dạng sinh kế của các cư dân nông thôn, 'vốn con
người' được coi như là một chìa khóa để đa dạng hóa sinh kế thành công, “các
gia đình có trình độ học vấn cao hơn tham gia nhiều hơn trong các hoạt động
phi nông nghiệp, và vốn con người có một ảnh hưởng quan trọng đến mức thu
13
nhập phi nông nghiệp đạt được” [Ellis 1999].
Một số nghiên cứu tập trung phân tích nguồn vốn xã hội khi cho rằng
vốn xã hội là một đặc điểm quan trọng của một cộng đồng, là một trong năm
nguồn vốn của khung sinh kế bền vững. “Vốn xã hội trao quyền cho phụ nữ
tham gia nhiều hơn vào quá trình ra quyết định, tạo cơ sở phát triển tài sản và
sử dụng tài nguyên thiên nhiên, công nghệ quản lý tài nguyên” [Abenakyo và
cộng sự 2007]. Bebbington cũng quan tâm tới vốn xã hội như là một loại tài
sản quan trọng đối với sinh kế thông qua xây dựng một khung phân tích để
làm rõ phát triển bền vững sinh kế nông thôn và tác động của chúng đối với
nghèo đói ở nông thôn. Khung phân tích lập luận rằng, cần hiểu sinh kế nông
thôn về: i/ Người tiếp cận 5 loại vốn; ii/ Kết hợp và biến đổi những loại vốn
trong xây dựng đời sống; iii/ Mọi người có thể mở rộng cơ sở tài sản của họ
bằng cách tham gia cùng các thành viên khác thông qua các mối quan hệ bị
chi phối bởi thị trường, nhà nước và tổ chức xã hội dân sự; và iv/ Con người
có thể triển khai và tăng cường khả năng của họ để cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Đặc biệt, nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn xã hội như là một
loại tài sản thông qua đó con người có thể mở rộng quyền tiếp cận tài nguyên
và các nguồn lực khác [Bebbington 1999].
Cũng phân tích các nguồn vốn sinh kế, Uphoff và Buck lại tập trung
vào việc xem xét vai trò của các thiết chế địa phương (local institutions) trong
việc tạo ra sinh kế bền vững của nông dân, cũng như xác định các nguồn lực
trong phát triển và đảm bảo sinh kế của người dân làm nông nghiệp ở khu vực
đô thị và ven đô mối quan hệ với hoạt động sản xuất phi nông nghiệp. Nghiên
cứu cho rằng nông nghiệp không phải là hoạt động sản xuất thường xuyên
duy nhất và chi phối của các hộ gia đình thành thị, mà là sự tổng hợp của cả
năm loại tài sản vốn: vốn tự nhiên (đất và nước); vốn vật chất (động vật, thiết
bị); vốn tài chính (tiền bạc, cơ sở hạ tầng); vốn nhân lực (kỹ năng và khả
năng); và vốn xã hội (mạng xã hội, hỗ trợ các hộ gia đình khác, v.v.). Các
14
nguyên tắc cốt lõi của cách tiếp cận này là tập trung vào con người và điểm
mạnh của họ, một sự hiểu biết tốt về động lực của địa phương, làm cho liên
kết giữa các vấn đề địa phương và mối quan tâm rộng hơn về các chính sách,
thể chế và quy trình [N.Uphoff, L.Buck 2006, tr.21].
Ở khu vực Đông Nam Á, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các
làng tại nhiều vùng nông thôn cho thấy sự tái định hướng sinh kế đang diễn ra
sâu sắc. Về bản chất, dù ba hoặc bốn thập kỷ trước, nông nghiệp đã từng là
hình thức sinh kế chủ đạo, nhưng bức tranh nổi bật qua các nghiên cứu ở cấp
độ làng thời gian gần đây cho thấy vị thế chủ đạo của nông nghiệp ở một số
địa bàn ngày càng bị suy giảm. Nghề nông hiện “trở thành một hoạt động
trong số nhiều hoạt động khác của nhiều hộ gia đình” [Rigg 2005, tr.4]. Minh
chứng mà nghiên cứu đưa ra là những kinh nghiệm lịch sử trong sự biến đổi
của sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc, nơi cảnh quan
nông thôn đã được chuyển hóa sâu sắc trong 30-40 năm trước; khi trực tiếp
được chứng kiến mốc biến đổi sinh kế qua thời gian của một số làng nông
nghiệp ở tỉnh Laguna và khu vực Palawan thuộc Philippines, khu vực Central
Plains thuộc Thái Lan. Nguyên nhân của điều này là do những thay đổi về lối
sống và quan điểm sống hơn là do những nhu cầu cấp thiết về kinh tế và môi
trường. Những mô hình thay đổi xuất hiện tại những vùng nông thôn Đông
Nam Á đã được sử dụng để xây dựng một khung làm việc cho sự chuyển dịch
ruộng đất, nơi mà xu thế hiện nay hướng đến đa dạng sinh kế dường như được
thay thế bởi sự pha trộn giữa các doanh nghiệp nông nghiệp, nông dân mới và
những tiểu chủ còn lại [Rigg 2005; 2009]. Tương tự, dựa trên dữ liệu nghiên
cứu 412 hộ gia đình, Liu đã chỉ ra những biến đổi trong chiến lược sinh kế và
mối quan hệ giữa biến đổi sinh kế và thái độ của hộ gia đình ở khu vực nông
thôn ven biển phía đông Trung Quốc dưới tác động của chính sách công
nghiệp hóa, đô thị hóa từ năm 1993 đến 2013. Tác giả cho rằng, tỷ lệ hộ gia
đình làm nông nghiệp đã giảm và tỷ lệ hộ gia đình theo đuổi chiến lược sinh
15
kế phi nông nghiệp tăng lên nhanh chóng. Sản xuất nông nghiệp chuyển đổi
từ các hộ gia đình phân tán thành hộ quản lý trên quy mô rộng và có hệ thống.
Quá trình biến đổi sinh kế ở cộng đồng này thể hiện một mô hình từng bước,
tức là trải qua giai đoạn đầu, giai đoạn tự tổ chức và giai đoạn do chính phủ
lãnh đạo [Liming Liu 2016].
Qua việc phân tích một số nghiên cứu về các xu hướng biến đổi sinh
kế và nguồn lực sinh kế ở nhiều địa bàn nông thôn châu Phi và Đông Nam Á,
cho thấy sinh kế là một chủ đề đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Trong các nghiên cứu này, tuy có nhiều quan điểm khác nhau về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, song giữa họ có điểm giống nhau đó là coi
sinh kế như một yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của người nông dân
trong quá trình biến đổi từ không gian xã hội gắn với sản xuất nông nghiệp
truyền thống sang không gian sản xuất có yếu tố phi nông nghiệp. Đồng thời,
các nghiên cứu cũng chỉ ra một bối cảnh nông thôn rộng lớn, có sự tương
quan thuận chiều giữa việc tham gia thị trường và thu nhập, tài sản (đặc biệt
là đất đai), tiếp cận tín dụng và chi phí giao dịch trong cơ chế thị trường. Điều
này đã gợi mở về sự đa dạng lý thuyết để các nhà dân tộc học và nhân học
Việt Nam, trong đó có công trình nghiên cứu này tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện và phát triển làm sâu sắc các tiếp cận lý thuyết về sinh kế.
1.1.2. Nghiên cứu sinh kế ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về sinh kế cũng đã và đang là một trong
những vấn đề được quan tâm, nổi bật với các nghiên cứu về loại hình và
phương thức chuyển đổi sinh kế. Tuy nhiên, do những khác biệt về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, tộc người và những tác động của quá trình
hiện đại hóa, toàn cầu hóa nên hoạt động sinh kế và biến đổi sinh kế diễn ra
không hoàn toàn giống nhau giữa các tộc người, vùng miền, tạo nên một
bức tranh đa dạng về đối tượng nghiên cứu, tiếp cận lý thuyết và phương
pháp luận cũng như các lý giải về sinh kế và biến đổi sinh kế của nông dân
16
ở Việt Nam.
Sinh kế tộc người
Một trong những thế mạnh nghiên cứu của dân tộc học Việt Nam là
tiếp cận kinh tế tộc người từ góc độ địa lý cảnh quan, kinh tế, văn hóa, xã hội
của các dân tộc. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhằm đưa ra những cơ sở cho
việc hoạch định chính sách và phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, đã
xuất hiện ngày càng nhiều nhà khoa học có hướng nghiên cứu sâu về sinh kế
tộc người trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu biến đổi sinh kế tộc người là một trong những chủ đề nổi
bật nhất. Một số nghiên cứu về biến đổi sinh kế của các tộc người ở khu vực
miền núi phía Bắc như người Pà Thẻn, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang
[Trần Thị Hồng Hạnh 2011], người Kháng (Chiềng Bôm, Sơn La) [Bùi Thị
Bích Lan 2013], v.v, đều chỉ ra sự biến đổi về phương thức mưu sinh của các
tộc người này do sự thay đổi nguồn lực tạo sinh kế, từ việc lấy canh tác nương
rẫy hoặc canh tác lúa nương làm hoạt động sinh kế chính thì hiện nay, do
hiếm rừng và đất trồng trọt, các tộc người này cơ bản chuyển sang làm ruộng
nước hoặc trồng nhiều loại cây trồng khác nhau thông qua việc ngày càng
phát huy khả năng tiếp cận và sử dụng nguồn vốn, đặc biệt là vốn tự nhiên,
vốn con người, vốn xã hội và vốn tài chính một cách hiệu quả để đa dạng hóa
nguồn thu nhập. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi sinh kế của các tộc người
cũng đang gặp không ít khó khăn, thể hiện sự thiếu bền vững và còn chứa
đựng nhiều thách thức.
Cùng chủ đề này, hai công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ nhân học
của Bùi Minh Thuận [2017], Nguyễn Đăng Hiệp Phố [2018] đã chỉ ra sự biến
đổi và ứng phó trong hoạt động mưu sinh của người Đan Lan trong vườn
Quốc gia Phù Mát (huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An) và tộc người Mạ thuộc
vườn Quốc gia Cát Tiên trước những tác động của các chính sách nhà nước,
cũng như từ sự phát triển nội tại trong hoạt động kinh tế của hai tộc người. Sự
tác động của các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, chính sách đóng cửa
17
rừng của Nhà nước đã làm biến đổi sâu sắc các nguồn lực sinh kế của người
dân. Trong đó, nguồn lực tự nhiên gồm đất đai, rừng và nguồn nước bị hạn
chế đến mức tối đa bởi chính sách quản lý rừng, gia tăng dân số, sự suy thoái
tài nguyên rừng, v.v. Qua đó, bộc lộ những bất cập, hạn chế của chính sách và
những hỗ trợ của Nhà nước.
Nghiên cứu ở vùng biên cương, công trình Frontier Livelihoods của
Sarah Tuner và cộng sự [2015] đã phân tích và lý giải những vấn đề sinh kế
và biến đổi sinh kế của người Hmông ở khu vực biên giới Việt Nam và Trung
Quốc. Nghiên cứu này đã làm rõ các phản ứng của người Hmông đối với các
chính sách phát triển của Nhà nước ở cả hai bên biên giới, phân tích một số
hoạt động sinh kế trong cuộc sống hàng ngày người Hmông như: làm nông
nghiệp, chăn nuôi gia súc, trồng thảo quả, chưng cất rượu trong bối cảnh
thương mại hóa. Trong bối cảnh đó, người Hmông “đang lựa chọn và tạo ra
sinh kế phù hợp với văn hóa địa phương, giúp họ có thu nhập để bổ trợ cho
cách sống tự cung tự cấp của mình”. Một điểm nổi bật là sự thích nghi của
người Hmông ở vùng biên cương đối với chính sách của nhà nước và thị
trường chính là cách họ duy trì một chiến lược sinh kế của riêng họ. Dù tập
trung nhiều hơn vào Việt Nam so với Trung Quốc, nghiên cứu này của các tác
giả là một đóng góp quan trọng trong cách phân tích và lý giải về tính tự chủ
sinh kế tộc người ở khu vực biên cương.
Ở các dân tộc thiểu số vùng cao Tây Nguyên, hoạt động sinh kế cũng
đã và đang bị biến đổi, tuy nhiên, do bị chi phối bởi các tác nhân về môi
trường tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội mà biến đổi sinh kế tộc người diễn
ra ở những mức độ khác nhau. Công trình nghiên cứu của Hoàng Cầm, Ngô
Thị Phương Lan và cộng sự [2017] xem xét hiện trạng nợ của các tộc người
thiểu số trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền nông
nghiệp theo hướng thị trường đã tạo ra nhiều hệ quả kinh tế, văn hoá và xã hội
tiêu cực cho các cộng đồng. Giống như ở nhiều vùng miền núi khác của Việt
18
Nam, Nhà nước đã triển khai nhiều chương trình phát triển nhằm chuyển đổi
các hoạt động sinh kế “lạc hậu” của các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên và
phía Bắc bằng các hoạt động sinh kế “hiện đại”. Trong bối cảnh đó, nhiều hộ
gia đình thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên và phía Bắc đã tìm cách chuyển đổi
các hoạt động sinh kế của họ theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Tuy
nhiên, nỗ lực “làm giàu” thông qua sự chuyển đổi này không hề dễ dàng, tuy
đã nỗ lực đầu tư trồng hàng ngàn ha cà phê và hàng trăm ha rẫy ngô, người
dân không những không giàu lên mà còn phải gánh những khoản nợ, đặc biệt
là nợ không thể trả với lãi suất cao từ các dịch vụ cho vay tư nhân. Khác với
các hoạt động sinh kế “duy tình” cổ truyền được vận hành theo hướng “tự cấp
tự túc” truyền thống, quá trình chuyển đổi sang trồng cà phê và ngô ở cả 2
vùng lại làm cho người dân bị phụ thuộc nhiều vào thị trường cả về đầu vào
và đầu ra của sản phẩm. Sự mất cân đối này làm cho tình trạng nợ của nhiều
gia đình tích tụ từ năm này sang năm khác. Các khoản nợ xấu đã và đang trở
thành một vấn đề hết sức trầm trọng có tác động tiêu cực đến đời sống sinh kế
và văn hoá - xã hội của nhiều hộ gia đình tại địa bàn nghiên cứu.
Một số nghiên cứu khác coi văn hóa như một nguồn vốn sinh kế tộc
người, thể hiện qua các khía cạnh như: áp dụng tri thức địa phương, phong tục,
tập quán, lối sống vào việc làm tăng thu nhập của người dân, điều này có nghĩa
là các tộc người sử dụng văn hóa của mình để đảm bảo sinh kế của họ. Theo
đó, các yếu tố văn hóa tộc người ở các cộng đồng cụ thể tham gia trực tiếp vào
quá trình phát triển kinh tế, mà biểu hiện rõ nhất là góp phần làm tăng thu nhập
của hộ gia đình. Ngoài việc vận dụng tri thức và kinh nghiệm dân gian trong
nông lâm nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp để đảm bảo, cải thiện cuộc
sống gia đình, các tộc người còn phát huy mạng lưới xã hội của mình như các
mối quan hệ thân tộc, hàng xóm, bạn bè và những mối quan hệ khác để tìm
kiếm việc làm. Những mối quan hệ xã hội này góp phần đảm bảo an ninh cho
những người đi làm ăn xa tại nơi đến, lại vừa có tác dụng hỗ trợ về kinh tế và
19
giúp bảo lưu văn hóa tộc người [Phạm Thị Thu Hà 2012].
'Tổn thương' về sinh kế là một thách thức đối với phát triển nông thôn
Việt Nam gần đây và trở thành chủ đề thu hút nhiều nghiên cứu. Một số
nghiên cứu [Ngô Phương Lan 2012; Võ Hồng Tú, Nguyễn Thùy Trang 2014]
cho thấy tình trạng bất ổn và tổn thương về sinh kế của lao động người Khmer
vùng đồng bằng sông Cửu Long, do diện tích đất sản xuất nông nghiệp ít, rủi
ro trong nông nghiệp cao và thiếu việc làm nông nghiệp và phi nông nghiệp
tại địa phương. Ngoài ra, những tác động của thiên tai như hạn hán, cháy
rừng, lũ lụt, lũ ống, lũ quét, v.v., cũng là nguyên nhân gây bất ổn đến sinh kế
của nhiều tộc người. Thực tế diễn ra ở nhiều vùng tộc người cho thấy: “có
những sinh kế phải thay đổi, thậm chí mất đi và có những sinh kế mới xuất
hiện. Khi bị thiên tai tác động, một số hộ có thể nhanh chóng phục hồi sinh kế
và tái thiết tài sản của họ nhưng nhiều hộ khác thì quá trình khắc phục chậm
hơn. Chẳng hạn, đối với các hộ nghèo như ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
tỉnh Lào Cai thì việc tái tạo tư liệu sản xuất luôn là việc rất khó khăn [Đào Thị
Lưu, Lê Văn Hương 2013, tr.342-348].
Sinh kế cũng là đối tượng của nhiều nghiên cứu ứng dụng. Thông qua
tìm hiểu, đánh giá thực trạng sinh kế của các đối tượng nghiên cứu, một số tác
giả đã phân tích một số vấn đề liên quan đến phát triển bền vững và phát triển
bền vững tộc người [Bùi Thị Bích Lan 2013, tr.11]. Một số nghiên cứu của
Bùi Minh Đạo [2011], Trần Văn Hà [2012], v.v, chỉ ra rằng các dự án thủy
điện đã được xây dựng tại các địa điểm vốn là nơi cư trú lâu đời của các dân
tộc ở khu vực miền núi phía Bắc (dân tộc Thái, Mường ở tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Hòa Bình, v.v.), khu vực Tây Nguyên,không thể không ghi nhận những
lợi ích đáng kể của dự án thủy điện trên bình diện kinh tế xã hội, văn hóa và
môi trường, như đem lại điện năng cho vùng và quốc gia, góp phần điều tiết
nguồn nước, hạn chế lũ lụt và phục vụ thủy lợi. Tuy nhiên, những dự án này
cũng đang bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế và văn hóa
20
của các cộng đồng tộc người phải tái định cư. Hệ quả là tình trạng thất nghiệp,
tệ nạn xã hội, nghèo đói, phá rừng, mất bản sắc văn hóa tộc người và thậm chí
có nguy cơ mất niềm tin vào chế độ trong cộng đồng bị ảnh hưởng. Công
trình luận án của Trịnh Thị Hạnh [2017] đã phân tích biến đổi sinh kế của
người Mường vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình qua hai mô hình tái định cư
là di vén và lập làng mới. Nghiên cứu này nhấn mạnh đến nguồn vốn xã hội
trong việc phục hồi sinh kế sau tái định cư. Trong mô hình di vén, vốn xã hội
của người dân được bảo lưu ở một mức độ nhất định do cộng đồng dân cư
chưa bị phá vỡ hoàn toàn. Điều này giúp cho cuộc sống của những hộ gia
đình phải di chuyển có điểm tựa xã hội để vượt qua giai đoạn sốc và khủng
hoảng nhanh hơn, sớm ổn định cuộc sống. Trong mô hình lập làng mới, người
dân tái định cư bị mất hầu như toàn bộ mạng lưới xã hội truyền thống và phải
bắt đầu lại từ con số không. Đặc điểm này làm cho giai đoạn khủng hoảng sau
tái định cư kéo dài, người dân cần rất nhiều thời gian để thích ứng với điều
kiện và lối sống mới.
Tài liệu nghiên cứu nêu trên đã phân tích khá chi tiết hoạt động sinh kế
và sự chuyển đổi loại hình, phương thức sinh kế của nhiều tộc người thiểu số
ở các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và
Nam Bộ. Có thể thấy được, trong bối cảnh thay đổi của địa phương cũng như
những tác động của thể chế chính sách và thị trường, người dân ở những địa
bàn này đã luôn thích nghi để xây dựng cho cá nhân, hộ gia đình một chiến
lược sinh kế phù hợp dựa trên một loạt các lựa chọn và dựa trên tài sản. Chiến
lược sinh kế là sự kết hợp của các hoạt động (mùa vụ, thời gian bán hàng,
điều chỉnh quy mô hoạt động, v.v.) và sự lựa chọn để sử dụng tốt nhất các tài
sản sẵn có nhằm đạt được mục tiêu sinh kế.
Sinh kế ở khu vực đồng bằng châu thổ Việt Nam
Nghiên cứu về làng Việt ở khu vực đồng bằng, về bản chất và quá trình
biến đổi kinh tế của làng Việt là chủ đề hấp dẫn và được nghiên cứu từ khá
21
sớm bởi cả những nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài. Chủ đề này đã
thu hút và làm nổi danh nhiều học giả trong giới nghiên cứu nhân học nói
riêng và giới khoa học xã hội ở Việt Nam nói chung. Trong kháng chiến
chống Pháp và Mỹ, việc nghiên cứu làng Việt Nam của các học giả nước
ngoài gặp khó khăn, chủ yếu phục vụ mục đích chính trị. Việc nghiên cứu chỉ
thực sự được củng cố lại từ sau thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX trong sự ngạc
nhiên về một Việt Nam anh dũng trong chiến tranh của các học giả Pháp,
Nhật Bản, Liên Xô cũ, v.v. Những công trình nghiên cứu của họ đã mang lại
những khái quát tổng quan nhiều chiều cạnh về đời sống nông dân ở các Việt
vùng châu thổ, trong đó vấn đề quan trọng là hoạt động kinh tế của nông dân
dành được sự quan tâm nhiều nhất với những quan điểm nhìn nhận, đánh giá
khác nhau.
Cuộc tranh luận về nông dân, nông thôn được khởi xướng trong những
năm 1980 bởi Scott và Popkin có đề cập đến làng ở khu vực Đông Nam Á,
gián tiếp có làng ở Việt Nam. Scott [1976] với “nền kinh tế duy tình” cho
rằng, sản xuất nông nghiệp là nguồn sinh kế chính đem lại thu nhập chủ đạo
cho người nông dân Việt Nam, vì thế người nông dân thường cố gắng duy trì
nguyên tắc “an toàn là trên hết” nhằm đảm bảo quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Vì
thế, họ thường e ngại trong việc đầu tư để tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên,
quan điểm này của Scott đã vấp phải sự bản biện của Popkin [1979] khi đưa
ra quan điểm “nền kinh tế duy lý”. Popkin cho rằng, người nông dân trong các
làng đã có sự làm quen với nền kinh tế hàng hóa tư trước khi có sự xuất hiện
của chủ nghĩa tư bản.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục được mô tả là hoạt động kinh tế chủ đạo
của người dân với tính tự cung tự cấp khá cao và phụ thuộc nhiều vào điều
kiện thời tiết [Phan Đại Doãn, 1992], trong khi đó, tập trung vào sự biến đổi
tập quán, lễ nghi ở một làng Việt sau những cải cách kinh tế, tác giả Lương
Văn Hy [1994] cho rằng chính các chính sách cải cách kinh tế có tác động
22
quan trọng đến việc tăng cường và khôi phục các lễ nghi của cộng đồng làng.
Trong khi quá trình hiện đại hóa ở các nước phương Tây đã dẫn đến
quá trình đô thị hoá mạnh mẽ trong những năm 1950, “đô thị hoá ngoại vi”
(sub-urbanization) trong những năm 1960, và rồi “phản đô thị hoá”
(counterurbanization) trong những năm 1970 [Champion 2014] thì ở Việt Nam
phải đến cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mới chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ của công nghiệp hóa và đô thị hóa ở các thành phố và vùng ngoại vi
thành phố, biểu hiện rõ nhất của sự phát triển này là quá trình thu hồi và
chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở nhiều địa bàn trên cả nước.
Một mặt việc thu hồi đất đã tạo tiền đề quan trọng để Việt Nam chuyển
đổi sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Một nghiên cứu trường hợp
đánh giá cao sự linh hoạt (đa-gi-năng) của người nông dân và nhận định:
“Thông qua việc thu hồi những phần đất nông nghiệp năng suất thấp không
sinh lời lãi và trả tiền đền bù, chính quyền sẽ gián tiếp cung cấp một nguồn
vốn lớn cho các hộ gia đình nông thôn để họ chuyển đổi sinh kế sang các hình
thức giá trị cao hơn như buôn bán và dịch vụ [Lâm Minh Châu 2016, tr.234].
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác lại nhận định mất đất nông nghiệp đã ảnh
hưởng đến đời sống xã hội của người nông dân ở khu vực nông thôn, những
người mà nguồn sinh kế chính dựa vào nông nghiệp, dẫn đến nhiều mâu
thuẫn, xung đột về đất đai trong xã hội nông thôn Việt Nam [Lê Du Phong
2007; Vũ Đình Tôn và cộng sự 2010, v.v.]. Tình trạng người nông dân bị thu
hồi đất vì những nguyên nhân khác nhau và ảnh hưởng của việc mất đất tới
sinh kế, việc làm, đời sống của họ cũng được phân tích trong một số nghiên
cứu khác. Điểm chung của các nghiên cứu là chỉ ra những thay đổi sinh kế
dưới tác nhân của đô thị hóa hoặc công nghiệp hóa; chỉ ra được sự tác động
này dẫn đến những thay đổi sinh kế của người dân [Lê Ánh Dương, Phạm Thị
Mỹ Dung 2017, tr.273]. Sử dụng khung khung sinh kế bền vững để phân tích
sự chuyển đổi phương thức mưu sinh từ lúa sang tôm tại một số địa phương ở
đồng bằng sông Cửu Long, Ngô Thị Phương Lan [2012] cho rằng “việc
23
chuyển dịch từ lúa sang tôm ở vùng đã dẫn đến sự thay đổi sinh thái đáng kể
ở các cộng đồng cư dân. Việc chuyển đổi này cho thấy môi trường của con
người là một quá trình xã hội trong đó con người thường xuyên định hình môi
trường sống của mình và họ phải thích nghi với môi trường nhân văn này
bằng cách thay đổi đời sống kinh tế, xã hội của họ. Trong quá trình chuyển
dịch từ lúa sang tôm, do giá trị cao của con tôm nên việc nuôi tôm thường
đem đến lợi nhuận cho nông dân cao hơn so với trồng lúa ở vùng nước lợ vốn
có nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đi cùng với tác động tích cực này, con người
phải đối mặt với những loại rủi ro về kinh tế, xã hội và môi trường. Nghiên
cứu cũng nhấn mạnh đến vai trò của vốn xã hội trong việc lựa chọn sinh kế
của nông dân”. Những nhận định này trở thành vấn đề xã hội mà “chúng đem
lại một khuôn cửa để nhìn nhận về cách một con người đang sinh sống trong
quá trình thay đổi ghê gớm tại một thời điểm cụ thể trong lịch sử Việt Nam,
nhưng đồng thời cũng hé lộ những trải nghiệm và giá trị vang vọng vượt thời
gian và không gian để nói với tất cả chúng ta” [Gerard Sasges 2015, tr.3].
Như vậy, ngay từ rất sớm, làng Việt vùng châu thổ nói riêng, làng Việt
nói chung đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm và
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Một điều chắc chắn, trong hầu hết
các nghiên cứu đều cho thấy làng Việt là một tập hợp các làng xã lấy sản xuất
nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ đạo và có sự biến đổi liên tục về văn
hóa, lối sống và cả những mâu thuẫn giữa văn hóa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển. Những nghiên cứu này đóng góp đáng kể cho
ngành khoa học nói chung, nhân học nói riêng cả về nội dung, cách tiếp cận
và lý thuyết nghiên cứu.
Sinh kế nông dân dưới tác động bởi công nghiệp hóa, đô thị hóa ở
ven đô Hà Nội
Các làng ven đô Hà Nội chứng kiến sự biến đổi mạnh mẽ không chỉ vì
nằm cận kề với đô thị mà còn luôn là đối tượng trực tiếp của các chính sách
phát triển công nghiệp và đô thị [Nguyễn Thị Phương Châm 2016, tr.40]. Thật
24
hiển nhiên, nghiên cứu về công nghiệp hóa, đô thị hóa và sinh kế người nông
dân bị thu hồi đất ở khu vực này thường gắn với các chính sách phát triển, sự
biến động địa giới hành chính và bối cảnh thời gian của từng giai đoạn. Nghiên
cứu của Trần Thị Hồng Yến về khu vực ven đô Hà Nội nhấn mạnh sự chuyển
đổi đồng loạt các xã thành phường là một trong đặc điểm nổi bật của quá trình
đô thị hóa ở khu vực này trong những năm 1990 và những năm đầu thế kỷ XXI
[Trần Thị Hồng Yến 2013, tr.8-9].
Tập trung vào sinh kế, coi sinh kế như “chìa khóa” để hiểu thực trạng
thu hồi đất và biến đổi xã hội ở các cộng đồng làng ven đô dưới tác động của
công nghiệp hóa và đô thị hóa, nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng đặc biệt
quan tâm và đánh giá cao vốn xã hội trong các mối quan hệ xã hội của người
dân tại 4 địa điểm nghiên cứu. Trong các làng bị ảnh hưởng bởi công nghiệp
hóa và đô thị hóa này, các mối quan hệ có sự đan xen, bắc cầu, đa dạng hóa
chứ không chỉ bó hẹp ở các mối quan hệ bạn bè, gia đình, làng xóm. Khi các hộ
gia đình nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, phải thay đổi sinh kế, thì chính
các mối quan hệ xã hội ngày càng mở rộng, phức tạp của người nông dân ven
đô đã được họ tận dụng và khai thác để phục vụ sản xuất và cuộc sống. Vốn xã
hội có vai trò quan trọng trong chiến lược sinh kế của người dân, giúp họ giảm
được chi phí đầu vào cho sản xuất và các chi phí giao dịch trong tìm kiếm việc,
giảm thiểu rủi ro [Nguyễn Duy Thắng 2007, tr.47]. Trong một nghiên cứu
khác, để xây dựng chiến lược sinh kế bền vững, người nông dân ở Đồng Quang
(Từ Sơn, Bắc Ninh) tự xây dựng cho mình một chiến lược sinh kế riêng để
thích ứng với những điều kiện mới. Dựa vào khả năng của mỗi hộ gia đình và
những lợi thế của địa phương, vốn xã hội được họ lồng ghép vào chiến lược
phát triển sinh kế của mình [Viện Xã hội học 2008].
Một số nghiên cứu nhận định quá trình chuyển đổi ở các làng xã ven đô
diễn ra theo hướng giảm dần số lao động làm nghề nông, nhưng vẫn tồn tại
các hoạt động sinh kế nông nghiệp gắn với các nghề phi nông nghiệp, trong
đó nguồn thu nhập từ các sinh kế phi nông nghiệp tăng dần tỷ trọng trong cơ
25
cấu nguồn thu nhập của hộ gia đình. Các hộ có sinh kế phi nông nghiệp
thường có thu nhập cao hơn so với các hộ gắn với sinh kế nông nghiệp
[Nguyễn Hữu Minh 2005, tr.63; Trần Nguyệt Minh Thu 2007, tr.46]. Biến đổi
sinh kế dẫn đến biến đổi khác trong đời sống cộng đồng làng ven đô, tạo nên
không gian xã hội có sự pha trộn giữa những đặc trưng đô thị và đặc trưng
nông thôn [Nguyễn Hữu Minh 2005, tr.63].
Từ khi Hà Nội được mở rộng năm 2008 thông qua sáp nhập toàn bộ
tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) vào địa phận thành phố tạo nên
một không gian địa lý hành chính và vùng ven đô thành phố rộng lớn để phục
vụ mục tiêu công nghiệp hóa và đô thị hóa ở thành phố này. Một số nghiên
cứu đã quan tâm đến các cộng đồng làng ven đô (Trần Thị Hồng Yến 2013;
Nguyễn Văn Sửu 2014; Labbé 2014), phân tích và lý giải các vấn đề sinh kế,
xã hội gắn với thu hồi đất nông nghiệp, v.v. Theo hướng này, một số tác giả
đã có những nhận định thiếu lạc quan khi cho rằng việc một số hộ gia đình
nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp dẫn tới thiếu việc làm, không tự chủ
được về lương thực [Nguyễn Thị Diễn, Vũ Đình Tôn, Philippe Lebailly
2012]. Trong khi có tác giả lo lắng về tương lai an ninh lương thực của các hộ
gia đình khi nhìn những cánh đồng từng rất xanh tốt của làng ở quanh mình,
những người nông dân thắc mắc họ sẽ kiếm đâu ra gạo để ăn khi tất cả đất
nông nghiệp biến mất và sản xuất nông nghiệp bị mai một [Gerard Sasges
2015, tr.9; Fanchette và cộng sự 2018, tr.143]. Trong bối cảnh này, một số
nghiên cứu khác khẳng định nông nghiệp vẫn có vị trí sinh kế quan trọng đối
với một số hộ gia đình ở một số cộng đồng làng ven đô, có tác dụng đảm bảo
an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo việc làm, giữ gìn một số đặc trưng truyền
thống của cộng đồng làng [Nguyễn Phượng Lê, Lê Văn Tân 2013] và cần duy
trì sinh kế gắn với nghề nông ở vùng ven đô, vì đây là vấn đề quan trọng cả về
kinh tế và xã hội [Denis Sautier và cộng sự 2013]. Một nghiên cứu còn cho
thấy có sự quay trở lại hoặc tăng cường sản xuất nông nghiệp của các hộ gia
26
đình nông dân [Nguyễn Thị Thanh Bình 2014], nông nghiệp sinh thái có giá
trị gia tăng cao được hưởng các chính sách khuyến khích của Nhà nước
[Fanchette và cộng sự 2018, tr.162].
Trong một không gian vùng ven đô đầy năng động của Hà Nội thời kỳ
đổi mới, làng Gia Trung cũng trải qua những biến đổi mạnh mẽ về nhiều mặt
và là cộng đồng làng được đề cập, phân tích trong một số tài liệu. Một công
trình có tính tự sự cao là Trên quê hương của người Dừa Hè của Trần Văn
Tuyên [1985], công trình này đã cố gắng “kể” về làng Gia Trung trong quá
trình phát triển thông qua 7 nội dung lớn, bao gồm: Lịch sử hình thành và
phát triển dân cư, ruộng đất; Các di tích, công trình lịch sử; Phong tục, tập
quán của làng; Đời sống vật chất và tinh thần; Trình độ chính trị của dân làng,
bộ máy làng xã; Tên những người con ưu tú đã hy sinh và Một số nhân vật
tiêu biểu của làng. Ở một mức độ nhất định, công trình này giúp chúng ta hiểu
được phần nào tiến trình lịch sử, đặc điểm ruộng đất, dân cư, con người và
văn hóa của làng Gia Trung trước năm 1945 và trong những thập niên tập thể
hóa nông nghiệp. Một nghiên cứu khác có đề cập đến trường hợp làng Gia
Trung là Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội
[Nguyễn Văn Sửu, 2014]. Phân biệt khu vực ven đô với đô thị trong không
gian địa lý và hành chính của thành phố Hà Nội, tác giả đã nhận diện và phác
họa quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ở ven đô Hà Nội như một bối
cảnh của biến đổi sinh kế ở các cộng đồng làng trong khu vực này. Dựa trên
hai nghiên cứu trường hợp về làng Gia Trung, một phần quan trọng của
nghiên cứu này gắn biến đổi sinh kế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp của
các hộ gia đình nông dân với chính sách phát triển công nghiệp và đô thị của
Nhà nước trong những năm 2000-2017. Theo tác giả, biến đổi sinh kế ở giai
đoạn đó đến lượt nó là nhân tố dẫn tới sự biến đổi khác trong không gian cư
trú của làng, mang lại những cơ hội và đặt ra không ít thách thức cho các hộ
gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp. Kế thừa một số tài liệu của hai công trình
27
này, kết hợp với nguồn tài liệu từ các công trình nghiên cứu khác, và đặt trong
bối cảnh khu vực ven đô Hà Nội, luận án của tôi là một công trình khảo tả dân
tộc học có tính gốc, hệ thống và cập nhật về sinh kế ở làng Gia Trung trước
năm 2000 và biến đổi sinh kế của làng từ năm 2000 đến 2017.
Có thể thấy, các vấn đề liên quan đến sinh kế người nông dân ven đô
được cả xã hội quan tâm. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu, các
tác giả đã có sự phân tích và so sánh về những cơ hội, thách thức của công
nghiệp hóa, đô thị hóa đối với phương thức mưu sinh cũng như cuộc sống
của người nông dân ở địa bàn nghiên cứu nói riêng và khu vực ven đô nói
chung [Nguyễn Văn Sửu 2014; Bùi Văn Tuấn 2015, v.v]. Nếu như các
nghiên cứu trong giai đoạn những năm 1990 và thập niên đầu thế kỷ XXI coi
người nông dân ở khu vực ven đô là nhóm người thụ động và yếu thế; thì
hiện nay, nhiều nghiên cứu bắt đầu quan tâm đến “tính đa gi năng”, “sự linh
hoạt” của người dân trước sự đa dạng phương thức sinh kế [Nguyễn Thị
Phương Châm 2016], khi họ có thể tự đưa ra các quyết định sản xuất phù
hợp trong từng điều kiện cụ thể.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm công cụ
Sinh kế
Sinh kế (livelihood) đã trở thành một nội dung mô tả quan trọng trong
nghiên cứu Nhân học từ đầu thế kỷ XX và trở thành một khái niệm công cụ
được bàn đến từ những thập niên 1980 trong nhiều công trình nghiên cứu và
thực hành chính sách. Sinh kế là khái niệm rộng, phản ánh bức tranh sinh kế
của một cá thể, một hộ hay cộng đồng, được định nghĩa và phân tích theo
nhiều cách khác nhau.
Báo cáo Bruntland (1987) đưa ra khái niệm an ninh sinh kế bền vững
(Sustainable Livelihoods Security) nhấn mạnh: “sinh kế được hiểu là các
nguồn dự trữ về lương thực và tiền bạc để đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Do
28
đó, một hộ gia đình có thể đạt được an ninh sinh kế bền vững bằng nhiều
cách: sở hữu đất đai, cây trồng, vật nuôi, quyền chăn thả, đánh bắt, có công
việc ổn định, v.v.” [Jean-Guy Vaillancourt 2000]. Điểm nhấn quan trọng trong
cách định nghĩa này là sinh kế gồm nhiều yếu tố để đáp ứng các nhu cầu cơ
bản của con người và có nhiều cách để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản này của
con người một cách bền vững.
Robert Chambers thì cho rằng: “Một sinh kế bao gồm các khả năng, tài
sản (cả về vật chất và nguồn lực xã hội) và các hoạt động cần thiết cho phương
tiện sinh sống. Một sinh kế bền vững khi nó có thể ứng phó và phục hồi từ sự
căng thẳng và những cú sốc và quản lý để nâng cao năng lực và tài sản của
mình trong hiện tại và trong tương lai, trong khi không gây xói mòn cơ sở tài
nguyên thiên nhiên” [Chambers & Conway 1991, tr.5]. Sinh kế có thể được
nghiên cứu ở nhiều cấp độ nhưng phổ biến nhất là ở cấp độ hộ gia đình.
Tương tự, Scoones xác định: “sinh kế bao gồm khả năng, nguồn lực
(nguồn lực vật chất và nguồn lực xã hội) và các hoạt động cần thiết làm
phương tiện sống của con người. Sinh kế được coi là bền vững khi nó có thể
giải quyết được hoặc có khả năng phục hồi từ những căng thẳng, duy trì và
tăng cường khả năng và nguồn lực hiện tại, mà không làm tổn hại đến cơ sở
tài nguyên thiên nhiên” [Scoones 1998]. Năm 2001, Cơ quan Phát triển quốc
tế Anh (gọi tắt DFID) định nghĩa “sinh kế bao gồm khả năng, nguồn lực cùng
các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống của con người” [DFID 2001].
Các định nghĩa này về sinh kế có những điểm giống nhau nhất định, đó
là coi sinh kế bao gồm nhiều thứ để thỏa mãn nhu cầu của con người và việc
thỏa mãn này bằng những cách khác nhau cần đảm bảo tính bền vững cho
hôm nay và tương lai [Chambers & Conway 1991; Scoones 1998]. Nếu như
Chambers & Conway đánh giá tính bền vững của sinh kế dựa trên 2 phương
diện: bền vững về môi trường (đề cập đến khả năng sinh kế trong việc bảo tồn
hoặc tăng cường các nguồn lực tự nhiên, đặc biệt cho các thế hệ tương lai) và
29
bền vững về xã hội (đề cập đến khả năng sinh kế trong việc giải quyết những
căng thẳng, đột biến và duy trì nó trong dài hạn), thì sau này Scoones và
DFID đã thống nhất phát triển tính bền vững của sinh kế trên 4 phương diện:
kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế:
- Bền vững về kinh tế: được đánh giá chủ yếu bằng chỉ tiêu gia tăng
thu nhập
- Bền vững về xã hội: được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như tạo
thêm việc làm, giảm nghèo đói, đảm bảo an ninh lương thực, cải thiện phúc lợi
- Bền vững về môi trường: được đánh giá thông qua việc sử dụng bền
vững hơn các nguồn lực tự nhiên (đất, nước, tài nguyên, v.v), không gây hại
cho môi trường (ô nhiễm và suy thoái môi trường) và khả năng thích ứng
trước những tổn thương từ bên ngoài
- Bền vững về thể chế: được đánh giá thông qua các tiêu chí như hệ
thống pháp luật được xây dựng đầy đủ và đồng bộ, quá trình quy hoạch chính
sách có sự tham gia của người dân, các cơ quan/tổ chức ở khu vực công và khu
vực tư hoạt động có hiệu quả. Từ đó, tạo ra môi trường thuận lợi về thể chế và
chính sách để giúp các sinh kế được cải thiện một cách liên tục theo thời gian.
Theo các tác giả, cả 4 phương diện này đều có vai trò quan trọng như
nhau và cần tìm ra một sự cân bằng tối ưu cho cả 4 phương diện. Cũng trên
quan điểm đó, một sinh kế là bền vững khi: i/ Có khả năng thích ứng và phục
hồi trước những cú sốc hoặc đột biến từ bên ngoài; ii/ Không phụ thuộc vào
sự hỗ trợ từ bên ngoài; iii/ Duy trì được năng suất trong dài hạn của các nguồn
vốn; iv/ Không làm phương hại đến các sinh kế khác.
Như vậy, sinh kế là khái niệm quan trọng trong nghiên cứu nông thôn,
nông dân và kể cả ở khu vực đô thị, và được sử dụng với những nội hàm đa
dạng, có sự tranh luận sôi nổi trong nửa thế kỷ qua. Tài liệu nghiên cứu của
các nhà Dân tộc học và Nhân học ở Việt Nam sử dụng một số thuật ngữ khác
nhau như “sinh kế”, “hoạt động mưu sinh”, “hoạt động kinh tế”, “tập quán
30
mưu sinh”, v.v., để nói về sinh kế và thường gắn với các đơn vị phân tích là
cá nhân, hộ, cộng đồng hoặc tộc người. Tuy nhiên, càng gần đây chúng ta
càng thấy rõ thuật ngữ “sinh kế” được sử dụng phổ biến hơn. Trong luận án
này, tôi dùng thuật ngữ “sinh kế” với ý nghĩa là cách kiếm sống của người
dân ở làng Gia Trung nói chung và của các hộ gia đình ở Gia Trung bị thu hồi
đất nói riêng dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Biến đổi sinh kế
Biến đổi sinh kế (livelihood change) ngày càng trở thành khái niệm
quan trọng trong nghiên cứu về sinh kế. Một số nhà nghiên cứu [Chamber
1991; Ashley và Carney 1999] đã xây dựng các chỉ số và khung phân tích để
đánh giá biến đổi sinh kế của con người, gồm: i/ Biến đổi về cơ cấu thu nhập;
ii/ Biến đổi về phân công lao động; và iii/ Biến đổi sinh kế từ nông nghiệp
sang phi nông nghiệp. Một số nghiên cứu khác về sinh kế ở Nepal và Trung
Quốc cũng đã sử dụng khái niệm biến đổi sinh kế để nhận diện và phân tích
sự biến đổi trong sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình [Seung Yong Han
2014], hoặc để chỉ sự biến đổi các hoạt động sản xuất của các hộ gia đình
nông dân do tác động của chính sách công nghiệp hóa, đô thị hóa ở khu vực
nông thôn [Liming Liu 2016]. Trong một số công trình nghiên cứu ở Việt
Nam, các tác giả [Trần Thị Hồng Hạnh 2011; Ngô Phương Lan 2012; Nguyễn
Văn Sửu 2014; Trịnh Thị Hạnh 2017, v.v.] coi biến đổi sinh kế là những biến
đổi trong cách thức kiếm sống của người dân trong các bối cảnh khác nhau,
nổi bật trong đó là do tác động bởi chính sách của Nhà nước và do tác động
của thị trường ở cả cấp độ vi mô và vĩ mô. Theo đó, biến đổi sinh kế hàm ý sự
biến đổi về sinh kế của con người ở một địa bàn nhất định trong một khoảng
thời gian cụ thể. Trong luận án này, biến đổi sinh kế liên quan đến những biến
đổi về các nguốn vốn sinh kế, hoạt động sinh kế, kết quả sinh kế và các thể
chế liên quan đến các hộ gia đình ở làng Gia Trung - một làng ven đô, kể từ
khi họ bị thu hồi đất đến thời điểm tác giả dừng nghiên cứu điền dã dân tộc
31
học vào năm 2017.
Làng ven đô
Khái niệm làng ven đô vốn xa lạ với nghiên cứu làng Việt truyền thống,
mà chỉ trở nên phổ biến trong vài thập niên gần đây, khi tốc độ đô thị hóa và
những thảo luận về đô thị hóa ở các nước đang phát triển trở nên sôi động
trong giới hàn lâm. Từ đó, cùng với khái niệm vùng ven đô, khái niệm làng
ven đô được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để nói về các cộng đồng làng ở
vùng ven các đô thị, nơi chứa đựng các đặc điểm xen kẽ giữa nông thôn và đô
thị. Tiếp nối một số học giả trước đó, trong nghiên cứu về vùng ven đô ở các
nước Đông Nam Á, Micheal Leaf cũng dùng khái niệm khu vực ven đô để nói
về khu vực ven đô trong mối tương quan và phân biệt với khu vực đô thị và
khu vực nông thôn [Michael Leaf 2008, tr.420-438].
Cụ thể hơn, các nhà nghiên cứu xác định khu vực/vùng ven đô như sau:
“Về mặt địa lý, vùng ven đô được hiểu là khu vực kế cận với thành phố. Vùng
ven đô là nơi vừa có các hoạt động đặc trưng cho nông thôn vừa có các hoạt
động mang tính chất đô thị. Vùng ven đô không tồn tại độc lập mà nằm trong
một miền liên thông nông thôn - ven đô - đô thị. Các mối quan hệ tương tác lẫn
nhau của các bộ phận hợp thành hệ thống nông thôn - ven đô - đô thị được thể
hiện ở chỗ nông thôn và ven đô là nơi cung cấp thường xuyên, lâu dài lương
thực thực phẩm, nguồn nguyên liệu và nguồn lao động cho đô thị, ngược lại đô
thị tạo ra thị trường để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, tạo cơ hội việc làm
và nơi ở cho các dòng di dân từ nông thôn đến đô thị và cung cấp các sản
phẩm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp” [Nguyễn Duy Thắng 2009, tr.80].
Nằm trong bối cảnh vùng ven đô, làng ven đô ở đây được hiểu là các
làng thuộc các huyện ngoại thành của thành phố [Ngô Văn Giá 2007, tr.7].
Theo quan điểm này thì toàn bộ các làng thuộc các huyện ngoại thành của Hà
Nội, kể cả các làng thuộc các địa phương mới sáp nhập về Hà Nội năm 2008
cũng được xác định là các làng ven đô. Tuy nhiên, khái niệm làng ven đô cần
32
được hiểu một cách tương đối bởi vì tiêu chí hành chính phân chia các làng
thuộc khu vực ngoại thành hay nội thành có thể thay đổi rất nhanh do các
quyết định hành chính của chính quyền nhà nước. Thậm chí, có những khu
vực, cộng đồng làng nằm trong địa giới hành chính không ổn định, có thể biến
đổi theo hướng được tách ra, nhập vào khu vực đô thị hoặc khu vực nông thôn
do sự điều chỉnh của chính sách. Trong luận án này, vùng ven đô được xác
định là vùng cận kề với đô thị Hà Nội, nơi có các hoạt động sinh kế nông
nghiệp và phi nông nghiệp. Tương tự, một làng ven đô cũng mang trong nó
những đặc trưng sinh kế xen kẽ giữa các hoạt động sinh kế nông nghiệp và
phi nông nghiệp dù sự biến đổi sinh kế sẽ làm cho tỷ lệ sinh kế nông nghiệp
giảm và sinh kế phi nông nghiệp tăng, ngoại trừ một số ít trường hợp cho thấy
điều ngược lại.
Công nghiệp hóa và đô thị hóa
Ở Việt Nam trong hai thập niên qua, khái niệm “công nghiệp hóa” và
“đô thị hóa” thường xuyên xuất hiện như những thuật ngữ then chốt trong
nhiều văn bản chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong công trình nghiên
cứu. Tuy nhiên, công nghiệp hóa và đô thị hóa cần được định nghĩa và tiếp
cận theo từng lĩnh vực và bối cảnh cụ thể [Phạm Văn Quyết 2011, tr.18]. Có
nghiên cứu chỉ xem xét đô thị hóa như “một quá trình biến đổi về phân bố lực
lượng sản xuất, là sự phân bố dân cư những vùng không phải đô thị, đồng
thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu” [Trần Thị Minh Ngọc 2010,
tr.78-79]. Một số tác giả khác nhấn mạnh rằng: “Đô thị hóa là một quy luật tất
yếu, tỷ lệ đô thị hóa được xem là một chỉ báo về sự phát triển của một quốc
gia, vùng miền, địa phương. Đô thị hóa không chỉ là sự mở rộng không gian
địa lý của các thành phố, thị xã, mà còn là quá trình biến đổi dân cư” [Hoàng
Bá Thịnh, Đoàn Thị Thanh Huyền 2015, tr.56-59].
Trong khi đó, Lê Du Phong cho rằng:
“Công nghiệp hóa, đô thị hoá là nhân tố quyết định làm thay đổi căn
33
bản quá trình sản xuất, chuyển nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang
phương thức sản xuất mới hiện đại. Trong quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hoá, tiến trình phát triển xã hội đã có thay đổi căn bản, đó là phát
triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn, là thay đổi căn bản xã
hội nông thôn theo hướng công nghiệp. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
đô thị hoá cần phải thực hiện việc thu hồi đất cho xây dựng các khu
công nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội” [Lê Du Phong 2007, tr.8].
Tương tự, nghiên cứu của nhóm tác giả Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị
Huyền, Võ Trọng Thành [2007, tr.50] nhận định “Công nghiệp hoá, đô thị
hoá được hiểu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp, dịch vụ và tập trung dân cư đô thị”. Quan điểm của nhóm tác giả này
nhấn mạnh đôi thị hóa là sự chuyển dịch theo hướng nông thôn sang đô thị,
nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
Phạm Văn Quyết khẳng định “Đô thị hóa như một quá trình kinh tế - xã
hội lịch sử mang tính quy luật trên quy mô toàn cầu. Đô thị hóa được xem
như là quá trình tổ chức lại môi trường cư trú của nhân loại, ở đó bên cạnh
mặt dân số, địa lý, môi trường còn có mặt xã hội [dẫn lại Trịnh Duy Luân
1996], còn công nghiệp hóa là quá trình nâng cao cao tỷ trọng của công
nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng, một nước” [Phạm Văn
Quyết 2011, tr.19].
Các quan điểm và định nghĩa nêu trên về đô thị hóa và công nghiệp
hóa bao quát một số đặc điểm của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở
ven đô Hà Nội. Theo đó, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở vùng ven
đô Hà Nội trong thời kỳ Đổi mới bao hàm những chuyển đổi ở nhiều khía
cạnh khác nhau, như chuyển đổi trong sử dụng đất nông nghiệp, chuyển đổi
về cơ sở hạ tầng, các hoạt động sinh kế, lối sống và không gian sống của
cộng đồng dân cư, v.v. Nếu như “quá trình đô thị hóa ở các làng ven đô
thuộc vành đai 1 trong những năm 1996-2003 là một quá trình đô thị hóa
34
“cưỡng bức”, được tác động trực tiếp bằng các quyết định hành chính, điều
chỉnh lại địa giới hành chính, biến các vùng ven đô trở thành nội thành do
yêu cầu mở rộng không gian đô thị” [Lương Hồng Quang 2013, tr.282-283],
thì từ những năm 2000 quá trình này còn gắn với công nghiệp hóa dẫn đến
sự xuất hiện và phát triển các trung tâm công nghiệp và đô thị ở khu vực ven
đô của thành phố.
Người nông dân
Các nghiên cứu về nông thôn và nông dân trong những thập niên 1950
đã nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa ba khái niệm: người sơ khai (primitive),
người nông dân (peasant), nhà nông (farmer). Trong tác phẩm “Peasants”, Eric
Wolf cho rằng “người sơ khai” là người sống hoàn toàn tự cấp tự túc trong
những cộng đồng biệt lập với thế giới bên ngoài; còn “nông dân” là những
người tuy có sản xuất hàng hóa nhưng chưa thoát hẳn ra khỏi tình trạng tự cấp
tự túc và sống trong những cộng đồng nông thôn có mối liên hệ với thành thị;
và “nhà nông” là những người có mức độ sản xuất hàng hóa cao theo nhu cầu
của thị trường, coi ruộng đất là hàng hóa [dẫn lại Bùi Quang Dũng 2012].
James Scott đã kiến tạo tiếp cận moral economy (kinh tế duy tình) vì
ông nhận định rằng những nông dân do ông nghiên cứu sống ở cận ngưỡng
sinh tồn là những người tránh rủi ro. “Sống cận ngưỡng sinh tồn và phụ thuộc
vào sự thất thường của thời tiết và sự đòi hỏi của người bên ngoài, hộ nông
dân không có cơ hội cho sự tính toán tối đa hóa lợi ích theo truyền thống của
kinh tế học tân cổ điển” [Scott 1976, tr.4]. Trái ngược với Scott, công trình
The Rational Peasant của Samuel Popkin nhấn mạnh người nông dân Việt
Nam trong thời điểm ông nghiên cứu là những người luôn sẵn sàng nắm bắt
cơ hội và chấp nhận rủi ro để tăng mức sinh tồn, mặc dù là họ nghèo và sống
cận với mức sinh tồn và luôn “quan tâm đến sự sinh tồn của họ” [Popkin
1979, tr.18-20]. Theo Popkin, “các cá nhân đánh giá các kết quả có thể theo
từng chọn lựa của họ dựa trên những giá trị và sở thích của họ”. Họ sẽ chọn
35
lựa quyết định nào mà họ tin là sẽ “tối đa hóa lợi ích mong đợi của họ” và
mối quan tâm hàng đầu của họ là sự “thịnh vượng và an toàn của bản thân và
gia đình” [dẫn lại Hoàng Cầm, Ngô Thị Phương Lan 2017]. Những cách tiếp
cận và lý giải này cho thấy sự đa dạng trong phân tích về hoạt động sinh kế
của người nông dân, đồng thời cho thấy những tranh luận sôi động về đề tài
nông dân Việt Nam [P. Papin, O. Tessier 2002, tr.24].
Gắn với nghiên cứu nông dân là những phân tích về gia đình của họ
như một đơn vị kinh tế. GS. Đào Thế Tuấn cho rằng “trong các thể chế của xã
hội, gia đình là một thể chế cơ bản nhất và vững chắc nhất”, và hộ gia đình
nông dân chính là “trung tâm” của hệ thống xã hội nông thôn. Ông nhấn mạnh
“việc nghiên cứu hộ gia đình càng ngày càng được chú ý vì chính các quyết
định của họ đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và xã hội của một nước,
bởi lẽ các ứng xử của từng thành viên nông hộ phụ thuộc chủ yếu vào các đặc
trưng của cả hộ (như đất, lao động, vốn, v.v) và chiến lược sinh kế của từng
hộ [Đào Thế Tuấn 1999, tr.28].
Nghiên cứu trường hợp một làng nông thôn miền Bắc, nơi đã và đang
chứng kiến những đổi thay đáng kinh ngạc qua ba thập kỷ Việt Nam tiến hành
đổi mới theo mô hình kinh tế thị trường, Lâm Minh Châu [2017] đã phân tích
những chuyển biến trong đời sống kinh tế ở nông thôn Việt Nam thời kỳ mở
cửa, đồng thời, xây dựng hình ảnh các hộ gia đình nông dân “đa gi năng”
trong việc tìm kiếm và thích nghi với các chiến lược sinh kế dưới tác động
của chính sách công nghiệp hóa tại địa phương.
Đặt người nông dân Gia Trung ở trung tâm của vùng ven đô Hà Nội,
luận án của tôi cũng khám phá và nhấn mạnh đến quá trình thích nghi và sự
linh hoạt của các hộ gia đình nông dân ở làng Gia Trung trước các cơ hội sinh
kế. Trong hoàn cảnh đất nông nghiệp của các hộ còn lại manh mún và xen
kẹt, họ phải tìm kiếm và thích nghi với một số hoạt động sinh kế mới gắn với
khu công nghiệp, khu đô thị. Những người nông dân còn làm nông nghiệp đã
36
không thể hội đủ các nguồn lực để có thể sản xuất nông nghiệp như trước khi
bị thu hồi đất, vì thế sản xuất nông nghiệp bị chuyển đổi từ sinh kế chính
(nghề chính) thành sinh kế phụ (nghề phụ, hoặc bổ trợ) trong bối cảnh các hộ
kết hợp và đa dạng hóa các hoạt động sinh kế của họ.
1.2.2. Khung phân tích sinh kế bền vững
Cách tiếp cận sinh kế đã được đề cập từ giữa những năm 1980. Khái
niệm này sau đó được sử dụng trong nhiều nghiên cứu khác nhưng đều gắn
với ý tưởng về sinh kế của Chambers & Conway [1991]. Sau khi được các tổ
chức phát triển quốc tế như DFID, OXFAM, CARE, IFAD, v.v, thúc đẩy theo
tính đặc thù của mỗi tổ chức để thực hành phát triển trên phạm vi toàn thế
giới thì chúng ta thấy có sự khác biệt trong quan điểm và cách phân tích sinh
kế bền vững. Trong bối cảnh đó, luận án này của tôi sử dụng Khung sinh kế
bền vững của DFID (sau đây viết là Khung sinh kế bền vững) theo cách linh
hoạt chứ không bám sát làm rõ theo trình tự từng yếu tố trong tổng thể 5
nhóm yếu tố cơ bản của Khung sinh kế bền vững, bao gồm: (i) Bối cảnh; (ii)
Các loại vốn; (iii) Các cấu trúc/thể chế; (iv) Các chiến lược sinh kế; và (v)
Các kết quả sinh kế.
Khung sinh kế bền vững là một bộ công cụ được xây dựng để phân tích
và đánh giá một cách toàn diện 5 nhóm yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sinh
kế của con người, lấy con người làm trung tâm và hướng tới kết quả sinh kế
37
bền vững về nhiều mặt, như được thể hiện trong Hình 1.1.
Hình 1.1: Khung sinh kế bền vững của DFID
Vốn sinh kế
Các kết quả
sinh kế
Tự nhiên
01
Chính sách,
Bối cảnh dễ tổn thƣơng
Con người
tiến trình và cơ cấu
Vật thể
- Xu hướng
- Thời vụ
Tài chính
Xã hội
- Ở các cấp khác nhau của chính phủ, luật pháp, chính sách công, các động lực, quy tắc;
- Chấn động (trong tự nhiên và môi trường, thị trường, chính trị v.v).
- Chính sách và thái độ đối với khu vực tư nhân;
Các chiến lƣợc sinh kế - Các tác nhân xã hội (nam, nữ, hộ gia đình) - Cơ sở tài nguyên thiên nhiên; - Cơ sở thị trường - Đa dạng.
- Các thiết chế công dân, chính trị và kinh tế (thị trường, văn hóa).
- Thu nhập nhiều hơn; - Cuộc sống đầy đủ hơn; - Giảm khả năng tổn thương; - An ninh lương lương thực được cải thiện; - Công bằng xã hội được cải thiện; - Tăng tính bền vững của tài nguyên thiên nhiên - Giá trị không sử dụng của tự nhiên được bảo vệ.
Nguồn: DFID, 2001
38
Yếu tố đầu tiên của Khung sinh kế bền vững là “bối cảnh của khả năng
tổn thương”, chính là những thay đổi, xu hướng và tính mùa vụ. Những nhân
tố này con người hầu như không thể điều khiển được trong ngắn hạn. Vì vậy,
trong phân tích sinh kế không chỉ nhấn mạnh hay tập trung vào khía cạnh con
người sử dụng các tài sản như thế nào để đạt mục tiêu mà phải chú ý đến bối
cảnh mà họ phải đối mặt và khả năng họ có thể chống chọi trước những thay
đổi hay phục hồi dưới những tác động trên.
Thứ hai, nguồn vốn sinh kế (hay tài sản sinh kế) là toàn bộ năng lực vật
chất và phi vật chất mà con người có thể sử dụng để duy trì hay phát triển sinh
kế, được chia làm 5 loại vốn cơ bản: vốn tự nhiên, vốn vật chất, vốn tài chính,
vốn con người, và vốn xã hội.
Vốn tự nhiên (Natural capital): Chú trọng vào các loại tài nguyên thiên
nhiên mà con người tận dụng để tiến hành các hoạt động sinh kế như đất đai,
nước, thực động vật, khoáng chất và những thứ khác không được tạo ra bởi
con người mà là đại diện cho một tiềm năng hữu hạn từ thiên nhiên.
Vốn vật chất (Physical capital): Gồm cơ sở hạ tầng xã hội, tài sản mà
người con người cần để hỗ trợ sinh kế như: giao thông, hệ thống cấp thoát
nước, cung cấp năng lượng, nhà cửa, đồ đạc, các phương tiện vận chuyển, v.v.
Vốn tài chính (Financial capital): Ngụ ý về các nguồn lực tài chính mà
con người sử dụng để đạt được các mục tiêu tài chính của mình. Thông
thường, có hai nguồn tài chính: nguồn vốn sẵn có (tiền tiết kiệm, tiền gửi
ngân hàng, v.v) và nguồn vốn thường xuyên (lương, khoản trợ cấp, v.v).
Vốn con người (Human capital): Được xem là nhân tố quan trọng nhất.
Nguồn vốn này đại diện cho trình độ giáo dục, kinh nghiệm, kỹ năng, năng
lực, v.v., giúp con người theo đuổi những chiến lược sinh kế khác nhau và đạt
được mục tiêu sinh kế của mình.
Vốn xã hội (Social capital): Là các nguồn lực xã hội mà con người có
thể khai thác để theo đuổi mục tiêu sinh kế của mình, thông qua các mạng
39
lưới và mối liên kết, niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau.
Nguồn vốn sinh kế không chỉ thể hiện ở trạng thái hiện tại mà còn thể
hiện khả năng thay đổi trong tương lai. Chính vì thế, khi xem xét vốn thì
không chỉ xem xét hiện trạng các nguồn vốn sinh kế mà cần quan tâm đến cả
khả năng hay cơ hội thay đổi của nguồn vốn đó như thế nào.
Thứ ba, tiến trình và cấu trúc sinh kế. Đây là yếu tố thể chế, tổ chức,
chính sách và luật pháp xác định hay ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các
nguồn vốn, điều kiện trao đổi của các nguồn vốn và thu nhập từ các chiến
lược sinh kế. Những yếu tố trên có tác động thúc đẩy hay hạn chế chiến lược
sinh kế. Chính vì thế, hiểu biết các vấn đề cấu trúc, tiến trình có thể giúp xác
định những cơ hội cho các chiến lược sinh kế thông qua quá trình chuyển đổi
cấu trúc.
Thứ tư, chiến lược sinh kế theo khung phân tích bền vững là sự phối
hợp lựa chọn các hoạt động mà con người sử dụng để thực hiện mục tiêu sinh
kế của họ nhằm khai thác hiệu quả nhất các nguồn vốn hiện có.
Thứ năm, kết quả sinh kế là mục tiêu quan trọng của con người để cải
thiện về mặt vật chất hay tinh thần, hoặc xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập
hay sử dụng bền vững và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Dù có sự nhấn
mạnh đến các nguồn vốn hay các hoạt động, chiến lược để đạt được mục tiêu
sinh kế của con người thì tính bền vững của kết quả sinh kế cũng là một mục
tiêu hướng tới của Khung sinh kế bền vững.
Ở Việt Nam, Khung sinh kế bền vững đã được ứng dụng trong các
nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu cơ bản ở cả khu vực đô thị, ven đô, nông
thôn và miền núi. Đóng góp vào hướng tiếp cận này, luận án của tôi sử dụng
Khung sinh kế bền vững theo hướng có gắn kết với nhóm 5 yếu tố quan trọng
của Khung sinh kế bền vững, nhưng như đã đề cập ở trên, không bám sát một
cách cứng nhắc theo trình tự từng yếu tố để trình bày mà phân tích sinh kế
40
truyền thống và sự biến đổi sinh kế ở Gia Trung đương đại.
Về bối cảnh, để phân tích biến đổi sinh kế của người nông dân ở làng
Gia Trung sau thu hồi đất, luận án chú ý đến bối cảnh phát triển công nghiệp
và đô thị dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp ở làng. Một số vấn đề then chốt
liên quan đến bối cảnh chính sách được tác giả làm rõ trong chương 2 của
luận án.
Về 5 loại vốn sinh kế, dưới tác động của bối cảnh nêu trên, các nguồn
vốn sinh kế của người dân ở làng Gia Trung đã có sự chuyển hóa theo
hướng tăng, giảm, thay thế nhau tùy thuộc vào từng loại vốn cụ thể của hộ
gia đình, tạo điều kiện và thúc đẩy hộ gia đình lựa chọn các chiến lược sinh
kế phù hợp với hoàn cảnh của mình. Trong các loại vốn, đất đai (vốn tự
nhiên) ở Gia Trung được xem một tài sản tự nhiên rất quan trọng đối với
sinh kế của người dân làng. Quyền sử dụng đất có vị trí quan trọng và tạo cơ
sở để người dân tiếp cận, sử dụng các loại vốn khác và sự lựa chọn những
sinh kế thay thế. Các nguồn vốn sinh kế được trình bày và phân tích ở các
chương 3, 4 và 5 của luận án.
Gắn với các loại vốn là các chiến lược sinh kế. Luận án này tập trung
vào 3 nhóm chiến lược sinh kế chủ đạo của các hộ gia đình nông dân ở Gia
Trung kể từ khi bị thu hồi đất: sinh kế nông nghiệp; sinh kế công nghiệp và
sinh kế dịch vụ. Trong từng chiến lược sinh kế, tôi làm rõ vai trò của từng
nguồn vốn sinh kế được người dân huy động để thực hiện trong bối cảnh địa
phương và rộng lớn hơn. Các chiến lược sinh kế còn được đơn giản hóa là các
hoạt động sinh kế gắn với các nguồn vốn sinh kế trong các chương 3, 4 và 5
của luận án.
Các yếu tố thể chế và chính sách có ý nghĩa quan trọng trong nghiên
cứu này. Mỗi cá nhân, hộ gia đình cần phải thực hiện sự tiếp cận được các
nguồn vốn sinh kế để chuyển hóa thành các sinh kế thực tế có giá trị, thông
qua kiến thức, kỹ năng và đặc biệt là các thiết chế xã hội. Ở địa bàn nghiên
41
cứu, các mối quan xã hội như quan hệ gia đình, dòng họ, làng xóm và các
nhóm tổ chức chính thức và phi chính thức có vai trò hỗ trợ các hộ gia đình
trong quá trình xác lập các hoạt động sinh kế mới cũng như huy động nguồn
vốn sinh kế để đạt được mục tiêu sinh kế. Kết quả sinh kế là một nhóm yếu tố
quan trọng, giống với các yếu tố thể chế và chính sách, được phân tích trong
các chương nội dung chính của luận án.
1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ Nhân học của tôi là sự kế thừa kết
quả nghiên cứu từ bậc Cử nhân (năm 2008), Thạc sĩ (năm 2013) đến Tiến sĩ
ở Khoa Nhân học (trước năm 2010 là Bộ môn Nhân học thuộc Khoa Lịch
sử). Mạch nghiên cứu này giúp tôi có nhiều thuận lợi về phương pháp luận.
Trong toàn bộ quá trình nghiên cứu, tôi nhất quán sử dụng tiếp cận nghiên
cứu dân tộc học, lấy điền dã dân tộc học làm phương pháp thu thập tài liệu
sơ cấp (tài liệu thực địa) và thứ cấp để có thông tin viết luận án. Theo đó,
điền dã dân tộc học trong nghiên cứu này là một quá trình, gồm nhiều đợt
điền dã ở làng Gia Trung, giúp tôi trực tiếp trải nghiệm cuộc sống hàng ngày
ở cộng đồng làng. Trong khoảng thời gian ở làng, tôi tiến hành quan sát,
phỏng vấn những đối tượng liên quan dưới nhiều hình thức khác nhau, thu
thập các tài liệu thành văn có liên quan và luôn cố gắng nhìn nhận, lý giải
vấn đề từ góc độ của chính đối tượng nghiên cứu và chính bản thân nhà
nghiên cứu.
Cụ thể, với đợt điền dã dân tộc học năm 2008, tôi đã thu thập được các
thông tin định lượng và định tính về quá trình thu hồi và bồi thường đất,
những biến đổi về lao động việc làm, tín ngưỡng văn hóa và biến đổi tâm lý
của người dân Gia Trung cho đến thời điểm điền dã. Tiếp đó, trong những
năm 2011 - 2013, tôi thực hiện điền dã dân tộc học ở làng Gia Trung, tiếp tục
khảo sát các vấn đề liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp và biến đổi sinh kế
của các hộ gia đình ở làng. Trong khuôn khổ luận án tiến sĩ này, trong những
42
năm 2015 - 2017, tôi thường xuyên có các đợt nghiên cứu điền dã dân tộc học
ở làng để hoàn thiện hệ thống tài liệu dân tộc học, cập nhật những gì còn
thiếu, đối chiếu và kiểm tra một số thông tin còn nghi vấn về đề tài nghiên
cứu của luận án là biến đổi sinh kế ở làng kể từ khi các hộ gia đình bị thu hồi
đất nông nghiệp.
Trong toàn bộ quá trình điền dã, tôi sử dụng và đặc biệt coi trọng
phương pháp quan sát tham gia trong điền dã dân tộc học tại địa bàn nghiên
cứu. Tôi thực hiện quan sát tham gia vào các hoạt động ở các không gian khác
nhau của làng có liên quan đến đời sống kinh tế của người dân địa phương
như các hoạt động nông nghiệp, hoạt động công nghiệp và các hoạt động dịch
vụ, v.v, để hiểu được sinh kế và biến đổi sinh kế của người dân.
Tôi tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn sâu ở địa bàn nghiên cứu. Nội
dung các cuộc phỏng vấn sâu được thiết kế theo nhóm nội dung của đề tài
như: (i) Quá trình thu hồi đất, các hình thức bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất,
mâu thuẫn đất đai; (ii) Nguồn lực đất đai, con người và mục tiêu chính sách
có tác động thế nào đến nghề nông và sinh kế gắn với hoạt động sản xuất
nông nghiệp sau thu hồi đất; (iii) Hoạt động sinh kế gắn với khu công nghiệp
của nhóm công nhân là người địa phương xuất hiện và hình thành như thế
nào? Họ là ai, kỹ năng nghề nghiệp và quá trình thích nghi với phương thức
sinh kế này; và (iv) Sinh kế gắn với kinh doanh dịch vụ gồm những hoạt động
gì, đóng góp thế nào cho thu nhập cá nhân và hộ gia đình? Từng nội dung
phỏng vấn sâu được liên kết theo hướng phỏng vấn hồi cố nhằm lý giải
nguyên nhân dẫn đến biến đổi sinh kế và thích ứng của người dân. Tổng số tôi
đã phỏng vấn 58 người là chủ hộ gia đình, 11 người không phải là chủ hộ
(gồm cả người chưa lập gia đình và đã lập gia đình nhưng ở cùng bố mẹ), 27
công nhân thuê trọ ở làng. Những người được phỏng vấn đều có trải nghiệm
và hiểu biết về những biến đổi ở Gia Trung ở các góc độ khác nhau, nhất là
những biến đổi sinh kế ở cấp độ cá nhân, hộ và cộng đồng. Nhiều người dân
43
không ngại chia sẻ với tôi câu chuyện đời sống của bản thân và gia đình họ kể
từ khi bị thu hồi đất. Những gì họ chia sẻ cho thấy sinh kế của các hộ gia đình
đã biến đổi mạnh mẽ trong những năm 2002 - 2017, làm cho làng Gia Trung
vốn nổi trội với các hoạt động nông nghiệp chuyển thành cộng đồng có nhiều
hoạt động phi nông nghiệp. Trong quá trình phỏng vấn, tùy thuộc vào độ tuổi,
giới tính mà tôi lựa chọn cách thức và địa điểm phỏng vấn.
Ngoài ra, tôi còn phỏng vấn sâu một số cán bộ và những người am
hiểu, có trình độ trong làng: cán bộ nguyên là Chủ nhiệm hợp tác xã, Trưởng
thôn, Bí thư qua các thời kỳ; cán bộ là người Gia Trung giữ các chức vụ ở xã
Quang Minh các thời kỳ; cán bộ giữ các chức vụ Trưởng thôn/ Tổ trưởng tổ
dân phố, Bí thư, Chủ nhiệm hợp tác xã hiện nay ở Gia Trung, v.v. Thông qua
các cuộc phỏng vấn này, tôi hiểu thêm về nhiều vấn đề trong cộng đồng làng,
nhất là những biến đổi sinh kế, các vấn đề xã hội, và những vấn đề chính sách
do các cấp chính quyền triển khai liên quan đến đề tài luận án. Thêm vào đó,
tôi còn tham khảo ý kiến của các nhà khoa học có chuyên môn liên quan đến
đề tài, dù số lượng chưa được nhiều và chưa bao quát được các chuyên gia
quốc tế.
Một phương pháp khác được sử dụng là thảo luận nhóm theo giới, độ
tuổi. Tôi tiến hành 19 cuộc thảo luận nhóm trong những năm 2015 - 2017.
Nội dung của các cuộc thảo luận nhóm tập trung vào những vấn đề “nóng” ở
địa bàn nghiên cứu và liên quan mật thiết đến người dân địa phương, như vấn
đề sinh kế mà người dân đã và đang phải đối mặt, mâu thuẫn đất đai, vấn đề
đất dịch vụ, hiện trạng nguồn vốn sinh kế của hộ, v.v. Các cuộc thảo luận
nhóm thường kéo dài từ 30 đến 90 phút và đem lại cho luận án nhiều thông
tin có giá trị.
Trong thời gian điền dã dân tộc học, tôi còn quan sát từng khu đồng, vẽ
bản đồ, chụp ảnh các thửa ruộng, cánh đồng, nhà máy và cả những không
44
gian cư trú bên trong làng.
Toàn bộ những phương pháp nêu trên giúp tôi thu được một số lượng
lớn tài liệu thực địa về làng Gia Trung và biến đổi sinh kế ở Gia Trung trong
hai thập niên vừa qua. Bên cạnh nguồn tài liệu này, tôi còn thu thập được
nhiều tài liệu thứ cấp dưới dạng tài liệu địa chí, địa bạ, tài liệu thống kê, các
báo cáo và văn bản liên quan của các tổ chức, đảng và chính quyền ở địa
phương phục vụ cho luận án.
Tiểu kết chƣơng 1
Sinh kế và biến đổi sinh kế là những chủ đề được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, khi đất nước càng đi sâu vào quá trình
công nghiệp hóa và đô thị hóa thì càng tạo ra những tiền đề cho biến đổi sinh
kế của hộ gia đình nông dân. Hiện đã có một số lượng đáng kể các công trình
nghiên cứu về biến đổi sinh kế ở nhiều địa bàn cụ thể trong cả nước. Nhìn
chung, những phân tích và lý giải về biến đổi sinh kế cho thấy những cách
tiếp cận khác nhau, cùng với những kết quả sinh kế đa dạng, đan xen trong đó
có sự xuất hiện ngày càng nhiều những hoạt động sinh kế phi nông nghiệp và
bộc lộ nhiều kiến giải về tính bền vững của biến đổi sinh kế.
Riêng đối với khu vực ven các đô thị lớn, nhất là Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa là các tác nhân quan
trọng dẫn đến biến đổi sinh kế của hộ gia đình nông dân. Dù có một số nghiên
cứu đã đề cập trực diện đến biến đổi sinh kế trong bối cảnh này, thực tiễn biến
đổi theo hướng thích nghi sinh kế của các hộ gia đình nông dân ở các cộng
đồng làng cụ thể còn là những khoảng trống đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu, phân
tích. Luận án này là một đóng góp có tính mới đối với khoảng trống này. Sử
dụng Khung sinh kế bền vững với phương pháp là nghiên cứu dân tộc học,
luận án chứa đựng những nguồn tài liệu sơ cấp và thứ cấp do tác giả thu thập
trong những năm vừa qua tại làng Gia Trung, giúp cho tác giả phân tích thỏa
45
đáng vấn đề biến đổi sinh kế trong hai thập niên vừa qua ở làng.
Chƣơng 2. LÀNG GIA TRUNG: BỐI CẢNH LỊCH SỬ, VĂN HÓA,
XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP HÓA, ĐÔ THỊ HÓA
Phần đầu của chương 2 trình bày khái quát về lịch sử làng Gia Trung,
những biến đổi ít nhiều về địa giới hành chính qua các giai đoạn lịch sử, và
nêu lên một số đặc trưng văn hóa, xã hội của làng. Phần tiếp theo của chương
phân tích bối cảnh chính sách, quá trình thu hồi đất nông nghiệp ở Gia Trung
và những mâu thuẫn trong quá trình thu hồi đất ở địa bàn này.
2.1. Bối cảnh lịch sử và đặc trƣng văn hóa, xã hội
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Làng Gia Trung thuộc huyện Mê Linh, Đông giáp làng Thụy Hà, Tây
giáp làng Gia Thượng, Nam giáp làng Đông Đồ, Bắc giáp sông Cà Lồ, được
đánh dấu bằng các cột mốc, gò, mõm, lũy cho thấy địa giới của làng có tổng diện tích đất ở và đất sản xuất kéo dài khoảng 2,5 km2. Nhìn trên bản đồ hành
chính, có thể thấy làng Gia Trung ở vị trí rất quan trọng, thuận lợi khi nằm ở
trung tâm của một mạng lưới nhiều loại đường giao thông huyết mạch (đường
bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy) kết nối đô thị Hà Nội với quốc
tế, với phía Bắc và phía Nam, v.v.
Từ năm 1945 trở về trước, làng có 2 cổng chính bằng gạch và nhiều
cổng phụ đi ra các xứ đồng của làng. Mọi hoạt động trao đổi với bên ngoài
đều phải thông qua cổng làng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hợp tác xã, các cổng
và con đường đã có sự thay đổi nhanh chóng, hình thành các đường trục nối
với các thôn làng xung quanh. Xung quanh làng có lũy tre bao quanh và hào lũy để bảo vệ làng1, “lũy tre là biểu hiện của tính biệt lập làng xã, đó là một
thành lũy rất kiên cố, đốt không cháy, trèo không được, đào không qua”
[BCH Đảng bộ thị trấn Quang Minh 2015, tr.17]. Hiện nay, dấu hiệu hào lũy
46
chỉ còn là các dấu tích ở một vài đoạn ngắn giáp với làng Gia Thượng. 1 Các tài liệu lịch sử của làng Gia Trung thế kỷ XVIII và XIX đều ghi nhận các ông Nguyễn Gia Yến, Nguyễn Đức Thịnh là những người lãnh đạo dân làng đắp hào lũy chống nạn cướp bóc và là những người đầu tiên chỉ huy xây dựng đình làng.
Thật khó để tìm một niên đại chính xác cho sự ra đời của làng Gia Trung. Theo bia “Hậu phật bi ký”2 ở chùa Đại Bi, làng được hình thành năm
Chính Hòa 11 (1690), với tên thôn Hạ thuộc tổng Gia Thượng, huyện Kim
Hoa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc. Theo thời gian, tên gọi và địa giới của làng
có nhiều thay đổi.
Trong thế kỷ XIX, từ thời vua Gia Long (1810) đến đời vua Thành
Thái thứ 4 (1892), làng thuộc xã Gia Thượng, tục gọi làng Dừa Hè, tổng Gia
Thượng, huyện Kim Hoa (sau là huyện Kim Anh), phủ Bắc Hà (sau rồi phủ
Thiên Phúc, phủ Đa Phúc), tỉnh Bắc Ninh [Nguyễn Văn Huyên 1996, 2000;
Ngô Đức Thọ 2003]. Từ năm Thành Thái 15 (1903) đến những năm 20 của
thế kỷ XX, làng thuộc tổng Gia Thượng, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên
[Ngô Vi Liễn 1999, tr.107-108; Vũ Thị Minh Hương 1999, tr.692-693]. Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng được sáp nhập với các thôn bên bờ
nam sông Cà Lồ thành lập xã Đại Đồng, thuộc huyện Kim Anh, tỉnh Phúc
Yên, với tên xã cũ là Gia Trung. Đầu năm 1950, Gia Trung thuộc xã Đại
Đồng, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc, và cuối 1954 lại thuộc xã Hoà Bình,
và từ năm 1956 thuộc xã Quang Minh.
Ở thời điểm tháng 02/1968, làng Gia Trung thuộc xã Quang Minh,
huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phú. Ngày 29/12/1978, Quốc hội khoá VI
phê chuẩn đề án mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội bằng việc
sáp nhập một số huyện, thị xã, thị trấn và xã của tỉnh Hà Sơn Bình và tỉnh
Vĩnh Phú vào thành phố Hà Nội. Theo đó, xã Quang Minh được sáp nhập
vào huyện Mê Linh, huyện ngoại thành Hà Nội. Ngày 12/8/1991, Quốc hội
khóa VIII ra Nghị quyết điều chỉnh thu hẹp địa giới hành chính thành phố
Hà Nội, chuyển toàn bộ huyện Mê Linh của thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh
47
Phú. “Trong lịch sử phân chia hành chính của huyện Mê Linh cần nhấn 2 Bia hậu là loại bia ghi họ tên người gửi giỗ tại chùa, đình; tên bia chủ yếu có từ “hậu thần”, “hậu Phật”, “hậu kỵ” v.v.
mạnh là thời kỳ từ 1978 đến 1991 vùng đất này thuộc về Hà Nội, điều này
là quan trọng vì các dấu ấn của thời kỳ này còn thể hiện sâu sắc trong sự
phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội phần mở rộng” [UBND Tp. Hà Nội
2018, tr.24].
Tỉnh Vĩnh Phúc chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày
01/01/1997. Khi tách ra, tỉnh có 6 đơn vị hành chính: thị xã Vĩnh Yên, huyện
Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Đảo và Mê Linh. Thời điểm này,
huyện Mê Linh có 2 thị trấn và 22 xã, trong đó xã Quang Minh có 4 thôn: Chi
Đông, Gia Trung, Gia Thượng và Giai Lạc [BCH Đảng bộ thị trấn Quang
Minh 2015].
Ngày 29/5/2008, Quốc hội khoá XII thông qua Nghị quyết 15 điều
chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội, chuyển toàn bộ huyện Mê Linh
của tỉnh Vĩnh Phúc về thành phố Hà Nội, gồm diện tích tự nhiên 141.64 km2
và dân số 186.255 người. Từ đây, làng Gia Trung thuộc xã Quang Minh được
đổi thành tổ dân phố số 6 và 7 thị trấn Quang Minh3, huyện Mê Linh, thành
phố Hà Nội.
Trong một giai đoạn dài của quá trình biến đổi địa giới hành chính này
của làng Gia Trung, thì việc được tách khỏi hay sáp nhập vào Hà Nội vẫn
định vị làng trong khu vực nông thôn. Chỉ đến lần sáp nhập năm 2008, những
biến đổi về địa giới hành chính mới làm cho Gia Trung chuyển từ một làng
làm nông biến thành các tổ dân phố thuộc phường đô thị, làm thay đổi mạnh
mẽ các đặc trưng kinh tế, xã hội vốn có của làng, biến làng thành một cộng
3 Theo Nghị định số 39/2008/NĐ-CP của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường, thành lập thị trấn, phường thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội. Trong đó, thành lập thị trấn Chi Đông thuộc huyện Mê Linh trên cơ sở điều chỉnh 486 ha diện tích tự nhiên và 9.861 nhân khẩu của xã Quang Minh. Thành lập thị trấn Quang Minh thuộc huyện Mê Linh trên cơ sở 889,6 ha diện tích tự nhiên và 19.126 nhân khẩu còn lại của xã Quang Minh. Thị trấn Quang Minh ngày nay là sự hợp nhất 6 thôn làng thuộc xã Quang Minh trước kia: Ấp Tre, Gia Tân, Gia Trung, Gia Thượng, Giai Lạc và thôn Đồng.
48
đồng ven đô của thủ đô.
Nguồn: Ảnh vệ tinh Google Earth
Hình 2.1: Vị trí làng Gia Trung, thị trấn Quang Minh năm 2018
Như vậy, lịch sử của làng Gia Trung là quá trình phát triển trải qua
nhiều biến đổi về hành chính. Nếu tính từ khi lập làng (năm Chính Hòa 1690)
cho đến thời Nguyễn và Pháp thuộc (trên 300 năm), Gia Trung chỉ có 2 lần
thay đổi hành chính thực sự và vị trí làng chủ yếu thuộc địa phận vùng Kinh
Bắc; thì từ năm 1946 đến 2008 (hơn 50 năm), cùng với những thay đổi về
chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội trong cả nước dẫn đến những thay đổi về địa
giới và địa danh hành chính cũng diễn ra rất phức tạp, trong đó làng Gia
Trung đã chứng kiến đến 6 lần thay đổi lớn nhỏ. Đây vừa là quá trình có tính
cưỡng bức vừa có tính định hướng, đồng thời bản thân cộng đồng làng cũng
không ngừng tự điều chỉnh để thích nghi với những điều kiện mới.
2.1.2. Đặc điểm văn hóa, xã hội
Tuy nằm trong vùng đất có nền văn hóa lâu đời nhưng việc tìm hiểu
đặc trưng văn hoá và xã hội của làng Gia Trung trong lịch sử chủ yếu căn cứ
vào ghi chép trong phả ký của các dòng họ, trong một số văn bản của hội tư
49
văn và một số tài liệu thực địa khác ở làng.
Qua lịch sử phát triển của các làng Bắc Bộ cho thấy bao giờ dân cư ổn
định mới có đình, có chùa và đình chùa ổn định thì mới có bia, sắc phong.
Theo phả ký và sự tích cột đình làng để lại thì đình và chùa ở Gia Trung được
hình thành sau khi lập làng trên dưới 100 năm. Đình làng thờ thánh Tam
Giang (Trương Hống, Trương Hát và Trương Lừng). Ở chùa làng hiện còn
lưu giữ một bia Hậu, niên hiệu Chính Hoà 11 (1690) đời Lê.
Làng Gia Trung có truyền thống ham học. Từ xưa, các gia đình đều có
truyền thống cho con học để biết chữ, biết làm các loại giấy tờ, v.v. Làng có
lệ đặt “học điền”, tức là trích ra một số ruộng tốt nhất trong tổng số ruộng
công của làng cấp cho những người đỗ đạt (đậu tú tài được cấp 1 mẫu ruộng,
cử nhân được cấp 2 mẫu) để cày cấy hưởng hoa lợi mà không phải nộp thuế.
Từ rất sớm, ở đây đã xuất hiện các trường tư thục, với nhiều thầy đồ, thầy
khoá, thu hút đông đảo học trò (giữa thế kỷ XVIII có các trường tư thục của
ông Nguyễn Gia Yến (tức cử Yến), Nguyễn Đức Sơn; thế kỷ XIX có trường
của ông Nguyễn Đức Trạch, Nguyễn Hữu Rượu (Tú Rượu), Nguyễn Thuấn
Hạnh (Tú Cát, người làng Thượng Cát, Từ Liêm), Nguyễn Châu Khanh (Đồ
Bảy, người huyện Thọ Xương), v.v. Đến thế kỷ XX, có các trường của ông đồ
Nguyễn Văn Bộ (Thủ Trai), Lê Quynh (Đồ Thanh, từ Thanh Hoá ra mở), đồ
Biểu (người làng Thuỵ Hà), đồ Chèm (người làng Thuỵ Phương, Từ Liêm),
đồ Bồng, v.v. Năm 1925, làng có một trường Hương học, dạy theo hệ 12 phổ
thông và được duy trì cho đến năm 1985.
Gia Trung cũng có nhiều người đỗ khoa mục: Ông Trần Hán (tức Vinh
Hiến), đỗ tú tài khoa Đinh Mão năm 1687; Ông Trần Lộ (tức Phúc Nho) tú tài
khoa Quý Dậu, năm 1693; Ông Nguyễn Quán (tức Nhã Thực), tú tài đời vua
Dụ Tông, năm 1706-1734; Ông Trần Nhuệ (Nhã Chất) đỗ tú tài khoa Bính
Tý, niên hiệu Cảnh Hưng 17 (năm 1756); Ông Nguyễn Gia Yến (tức Đạo
Nguyên) đỗ tú tài khoa Kỷ Mão (1759), đỗ cử nhân khoa Mậu Tý (1768);
50
Ông Nguyễn Hữu Rượu (Hối Trai) đỗ tú tài khoa Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu
Trị 7 (năm 1847), v.v. Sang đầu thế kỷ XX, việc chuyển hướng học tập của
người làng chậm, vì vậy, trong thời gian dài hơn 60 năm kể từ khi tân học ra
đời, cả làng chỉ có 2 người đỗ bằng tiểu học, hơn 10 người có bằng sơ học yếu
lược, chỉ có 2 phụ nữ đi học chữ quốc ngữ. Mặc dù làng Gia Trung có truyền
thống ham học từ xưa, có nhiều người đỗ đạt nhưng “việc học của dân làng
mang tính lững chững” [Trần Văn Tuyên 1985, tr.87].
Đi đôi với việc học văn hoá, Gia Trung còn là một làng có truyền thống
võ nghệ. Đấu võ đã thành lệ làng, hàng năm cứ đến ngày mùng 4 và 6 tết Âm
lịch diễn ra giải đấu vật, đấu côn ở đình. Làng có những người giữ chức chỉ
huy trong quân đội như Trần Diệp (tức Phúc Quảng) giữ chức Chánh đội thời
Lê, Ngô Mẫn (Phúc Lâm) giữ chức suất đội thời vua Quang Trung; thời
Nguyễn có Nguyễn Kinh Vĩ là người võ nghệ kiêm toàn giữ chức Bang Biện
quân vụ tỉnh Hưng Hoá, đốc kinh tỉnh Bắc Ninh trong phong trào nghĩa quân
chống Pháp (1882-1884).
Hướng phát triển lúc đầu của làng từ Tây sang Đông và mỗi họ thường
cư trú trong một khu đất nhỏ. Khi dân cư tương đối đông lên thì chia thành 2
khu vực, lấy con đường chạy dọc giữa làng làm ranh giới, nửa làng phía Nam
gọi là mái trước, nửa làng phía Bắc gọi là mái sau; về sau gọi là xóm Đình và
xóm Chùa. Phía trước làng có các cánh đồng. Khu dân cư có chiều dài khoảng
1 km, rộng 400 m. Ngay từ khi mới lập làng thì thành phần dân cư đã không thuần nhất. Thông qua “Phả ký”4 của một số dòng họ, cho phép xác định được
thời gian ra đời của một số họ chính như: Nguyễn (Hồng), Trần, Trương,
Ngô, Hạ, Lê (Cam), Nguyễn (Hè), Dương, v.v. Tính theo hệ trưởng tộc, đến
51
cuối thế kỷ XX đã có từ 10 đến 15 đời sinh sống ở làng. Trước năm 1945, 4 Các Phả ký này cũng ghi rõ các chi phái của dòng họ đến giai đoạn hiện nay và phạm vi sinh sống của họ, từng chi phái của các dòng họ cũng được ghi chép thế thứ lớp trước sau cụ thể. Việc lưu giữ các gia phả này giúp cho việc tìm hiểu lịch sử dòng họ và tạo ra ý thức họ tộc. Hiện tượng làm tộc phả (Phả ký họ Nguyễn, phả ký chi Bính họ Nguyễn) phổ biến ở làng Gia Trung. Sự phục hồi dòng họ phải kể đến vai trò giúp sức rất to lớn của những người tri thức trong làng, mà nhiều người trong số họ đã thoát ly trong thời gian dài, khi về nghỉ hưu họ quay trở lại địa phương và tham gia công tác tìm hiểu và ghi chép về lịch sử của làng và dòng họ.
quan hệ dòng họ ở làng khá bền chặt. Mỗi họ cư trú theo một địa vực riêng.
Những dòng họ lâu đời cư trú ở trung tâm của làng, những họ hình thành sau
cư trú phía ngoài làng và không gian cư trú của làng càng ngày mở rộng.
Những dòng họ Nguyễn (Hồng), Trần, Trương, Ngô, Hạ, Lê (Cam), Nguyễn
(Hè), Dương đã tạo nên các mối quan hệ và tinh thần cộng đồng, chi phối và
có vai trò quan trọng trong nhiều hoạt động của làng (hiện nay làng có thêm
21 dòng họ mới).
Sau nhiều lần tách nhập, số lượng dân cư của làng có nhiều thay đổi.
Những năm đầu thế kỷ XX, dân số cả xã Gia Trung (gồm thôn Hè và thôn
Đồng) có 999 người [Ngô Vi Liễn 1999, tr.107-108]. Đến năm 1945, làng có
125 hộ với 671 nhân khẩu. Đến năm 1985, căn cứ vào sổ chia lương thực của các đội sản xuất thì làng có 1.591 khẩu, gồm 719 nam, 874 nữ5. Tháng
5/2002, làng có 551 hộ, 2.129 khẩu; tháng 12/2007, có 564 hộ (chiếm 14.03%
số hộ của xã), với 2.483 khẩu (chiếm 13.65% dân số toàn xã). Với đặc điểm là
“nơi đất lành chim đậu”, vị trí giao thông thuận lợi, làng Gia Trung đã thu hút
được nhiều người dân ở các địa phương khác về đây sinh sống, làm cho dân
số của làng tăng nhanh nhưng vẫn lấy sản xuất nông nghiệp là nghề chính.
2.2. Chính sách công nghiệp hóa, đô thị hóa và quá trình thu hồi đất
2.2.1. Chính sách công nghiệp hóa, đô thị hóa
Công nghiệp hóa
Sau khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc năm 1997, UBND tỉnh đã triển khai một
loạt chính sách khuyến khích chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển theo hướng công nghiệp và dịch vụ, đồng thời “củng cố quyền hạn
của tỉnh trong quy hoạch địa bàn của từng địa phương, cho phép tỉnh tăng
nguồn thu tự chủ ngân sách thông qua việc áp dụng các loại thuế, trong đó một
52
phần lớn thu được nhờ khai thác sử dụng đất và các hoạt động kinh tế có tính 5 Số lượng thống kê trên chưa bao gồm gần 200 người là bộ đội tại ngũ, cán bộ công nhân viên chức, cán bộ về hưu, trẻ em ăn theo phần lương thực của bố mẹ, v.v do không có khẩu phần lương thực được hợp tác xã cấp.
chất đô thị” [Fanchette và cộng sự 2018, tr.103]. Do vậy, nói đến quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa thì cần đặt trong bối cảnh chính trị và mục tiêu
phát triển của địa phương và quốc gia được các cấp chính quyền triển khai.
Hình 2.2: Bản đồ phân bố các KCN ở miền Bắc Việt Nam và
Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư và JICA (2016)
vị trí KCN Quang Minh
Để phát triển khu công nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc chủ yếu áp dụng hình
thức kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước tới phát triển cơ sở
hạ tầng khu công nghiệp, nhiều ưu đãi dành cho các doanh nghiệp đã được
chính quyền địa phương áp dụng, được thể hiện bằng những hành động thiết
thực, cụ thể của cả hệ thống chính trị trong tỉnh.
Trên cơ sở những yếu tố thuận lợi về địa lý, tiềm năng về nguồn nhân
lực dồi dào, kết hợp với sự hỗ trợ từ Chính phủ, tỉnh Vĩnh Phúc đã quy hoạch
xã Quang Minh thành một xã trọng điểm về công nghiệp, đô thị và dịch vụ,
trung tâm kinh tế - xã hội phía Đông Nam của tỉnh. Mục tiêu của Nhà nước và
chính quyền tỉnh bấy giờ là tạo ra một động lực thu hút vốn đầu tư, đồng thời,
53
dùng khu công nghiệp, khu đô thị mới xây dựng làm biểu tượng cho “tính
hiện đại”, góp phần “thay đổi căn bản tư duy của các hộ gia đình nông thôn,
đặc biệt là tầng lớp thanh niên về công việc và cuộc sống” [Lâm Minh Châu
2016, tr.236].
KCN Quang Minh nằm trong đồ án quy hoạch định hướng phát triển
không gian thị tứ Quang Minh, huyện Mê Linh, được tỉnh Vĩnh Phúc phê
duyệt năm 2002, hiện là một trong 9 khu công nghiệp lớn nhất miền Bắc Việt Nam, là khu công nghiệp thuộc nhóm 26; được quy hoạch tại vùng nông thôn
sát đại đô thị Hà Nội và nằm dọc ven tuyến đường huyết mạch Bắc Thăng
Long - Nội Bài, nằm cạnh 7 KCN mới mà Hà Nội đã xây dựng và đi vào hoạt
động nằm bên kia sông Hồng tại các khu vực biệt lập của huyện Gia Lâm và Đông Anh. Tổng diện tích đất thu hồi để thực hiện dự án hơn 500 hecta7 (năm
2017), là đất nông nghiệp của các làng Giai Lạc (nay là tổ dân phố số 1, 2, 3),
Gia Thượng (số 4, 5), Gia Trung (số 6, 7), Gia Tân (số 11) và Chi Đông (nay
là thị trấn Chi Đông); trong đó KCN Quang Minh I có diện tích 344,4 ha, hiện
đã lấp đầy 100% diện tích, còn KCN Quang Minh II hiện lấp đầy 60%.
Không giống như các khu công nghiệp Trung Quốc bao gồm các cộng
đồng tự cung tự cấp lớn [Nguyễn Quang 2013, tr.325] và không có nhiều
đóng góp cho các cộng đồng địa phương [Lâm Minh Châu 2016, tr.235] thì
các khu công nghiệp của Hà Nội nói chung, KCN Quang Minh nói riêng có
quy mô nhỏ hơn, được xây dựng độc lập, gần với các cộng đồng dân cư, được
6 Kết quả nghiên cứu phối hợp của Bộ Kế hoạch & Đầu tư và JICA (2016) khi tiến hành khảo sát khoảng 55 KCN ở miền Bắc, 58 KCN ở miền Nam và 5 KCN ở miền Trung đã phân loại các KCN ở Việt Nam thành 4 nhóm theo mối quan hệ giữa các khu công nghiệp và nhà ở công nhân, và tính chất của nó, chủ yếu dựa vào thời điểm và địa điểm xây dựng, đặc điểm về không gian. KCN nhóm 1 chủ yếu nằm ở ngoại ô thành phố lớn/ đại đô thị; KCN nhóm 2 nằm tại vùng nông thôn sát các thành phố lớn/ đại đô thị; KCN nhóm 3 là nhóm các KCN nằm biệt lập tại vùng nông thôn; và KCN nhóm 4 là các khu công nghiệp được phát triển trong tổng thể cụm công nghiệp và các khu đô thị và khu dân cư xung quanh. 7 Theo quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ những KCN có diện tích trên 500 hecta trở lên phải có nhiều nhà đầu tư tham gia xây dựng - kinh doanh kết cấu hạ tầng theo từng khu riêng biệt.
54
xây dựng ở vùng ven đô của thành phố dọc theo các tuyến đường giao thông
huyết mạch8, “hình hành nên các hành lang kinh tế có tác dụng thúc đẩy kinh
tế toàn vùng phát triển” [Trần Thị Minh Ngọc 2010, tr.94]. Do vậy, việc xây
dựng KCN Quang Minh là cơ hội rất tốt cho việc thu hút và giải quyết việc
làm cho người nông dân mất đất ở địa bàn xung quanh khu công nghiệp.
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017; Bản vẽ: Đoàn Văn Luân
Hình 2.3: KCN Quang Minh và vị trí thôn/làng phụ cận
Kết quả khảo sát cho phép tôi khẳng định, sự phát triển của KCN
Quang Minh đã hiện thực hóa kỳ vọng mà mục tiêu xây dựng ban đầu của
Nhà nước và chính quyền địa phương đặt ra khi thu hút và tiếp nhận một số
lượng lớn lao động chưa qua đào tạo từ các địa phương khác; đồng thời mang
lại cơ hội việc làm trực tiếp và gián tiếp cho các cộng đồng làng: xây nhà trọ
cho thuê, phát triển các loại hình dịch vụ cung ứng nhu cầu từ khu công
nghiệp. Điều này cho thấy mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ giữa khu công
8 Trên trục đường giao thông huyết mạch này, có đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội Bài liên kết tuyến giao thông với một loạt KCN: Kim Hoa, Tiền Phong (Vĩnh Phúc), KCN Bắc Thăng Long, Nội Bài (Hà Nội); các cụm công nghiệp Phong Khê, Quế Võ (Bắc Ninh).
55
nghiệp và các cộng đồng làng xung quanh.
Đô thị hóa
Ngoài thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp, ở Gia Trung còn diễn
ra hình thức thu hồi đất để phục vụ quá trình đô thị hóa với mục tiêu tạo ra cơ
sở hạ tầng như: đường giao thông, trung tâm thương mại, các khu nhà ở, khu
đô thị v.v., tổ chức lại môi trường cư trú, lối sống và thực hành văn hóa, xã
hội của cộng đồng làng gắn với môi trường đô thị.
Quá trình đô thị hóa ở Gia Trung diễn ra sớm hơn từ năm 1997 với việc
thu hồi diện tích đất nông nghiệp xây dựng đường cao tốc Bắc Thăng Long -
Nội Bài. Quá trình thu hồi đất để phát triển các dự án khu nhà ở, khu đô thị
cũng diễn ra đồng thời với thu hồi đất phát triển khu công nghiệp, chủ yếu là
đất nông nghiệp nằm ở các xứ đồng thuộc nửa làng phía xóm Chùa (tổ dân
phố số 7) với một số dự án tiêu biểu như:
Trung tâm thương mại9 được quy hoạch năm 2004 với tổng diện tích
71.500 m2, là tổ hợp thương mại vật liệu xây dựng và trang thiết bị nội thất.
Khu đô thị được phê duyệt xây dựng theo Quyết định số 3908/QĐ-UB
ngày 15/10/2003 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, diện tích thu hồi để thực hiện dự án là 490.170 m2, trong đó đất nông nghiệp 383.948 m2 (chiếm 78,3% tổng
diện tích dự án), chủ yếu là đất nông nghiệp quỹ 1; phần đất còn lại bị thu hồi
là đất thuỷ lợi, đất giao thông và đất chuyên dùng như đường giao thông,
mương, nghĩa địa. Diện tích thu hồi có liên quan đến 321 hộ dân của các làng
Gia Trung, Gia Tân.
Khu biệt thự được UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt năm 2004. Để
phục dự án này, 231 hộ dân không còn đất để sản xuất vì phải bàn giao 24,5 hecta đất nông nghiệp (tương đương 88.200 m2). Đến năm 2008, dự án đã bồi
thường 20,46 hceta cho 205 hộ gia đình. Mức giá bồi thường được UBND
56
tỉnh ấn định là 17 triệu đồng/sào. Đến nay, đã xây dựng với 80 lô biệt thự để 9 Tuân thủ nguyên tắc ẩn danh để đảm bảo quyền riêng tư của người cung cấp tin trong nghiên cứu định tính, trong bản luận án này, tôi ẩn danh tên thật của các cá nhân/ hộ gia đình được nêu trong bảng biểu hoặc phỏng vấn sâu; ẩn danh tên của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến nội dung luận án.
bán. Từng được mệnh danh là siêu dự án có khả năng thay đổi bộ mặt huyện
Mê Linh, nhưng tính đến thời điểm năm 2017 tất cả các căn biệt thự thuộc dự
án này đều bỏ hoang và thị trường bất động sản ở đây vẫn bị đóng băng.
Với việc sáp nhập vào thành phố Hà Nội, thị trấn Quang Minh và Chi
Đông là hai thị trấn thuộc huyện Mê Linh được thành lập theo Nghị định số
39/2008/NĐ-CP ngày 4/4/2008 của Chính phủ, đây là các thị trấn nhỏ, không
phải huyện lỵ của huyện Mê Linh. Quang Minh được xếp vào loại thị trấn có
dân số trên 10.000 người (tính đến ngày 1/4/2009). Nằm trong mạng lưới
đường giao thông đi lên phía Bắc chạy theo đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội Bài10, có tác động mạnh đến quá trình và xu hướng đô thị hóa và mang lại
nhiều cơ hội phát triển công nghiệp, dịch vụ. Đến nay, tính chất đô thị công
nghiệp của địa phương đã thành hiện thực, đã và đang giữ vị thế quan trọng,
có tầm ảnh hưởng lớn đến cơ cấu nhân khẩu, cơ cấu đất đai, tổ chức quy
hoạch giao thông, công trình công cộng của địa phương.
Do vậy, công nghiệp hóa và đô thị hóa trên địa bàn làng Gia Trung
hướng tới hai mục tiêu phát triển khác nhau trong cùng một thời điểm: dự án
công ích của Nhà nước và dự án phát triển kinh tế tư nhân. Việc thu hồi đất
không chỉ bó hẹp ở việc phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, dịch vụ mà xa
hơn, quá trình này còn có nghĩa là công nghiệp hóa cả địa bàn nông thôn rộng
hơn (bao gồm cả thị trấn Quang Minh và thị trấn Chi Đông, v.v.), đưa công
nghiệp về nông thôn thông qua phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và vốn đầu tư trong nước, thu hút lực lượng lao động nông
nghiệp, làm thay đổi phương thức sinh kế của người dân ở khu vực này.
2.2.2. Chính sách thu hồi và hỗ trợ thu hồi đất
Chính sách thu hồi đất
Ở Gia Trung, đất bị thu hồi chủ yếu là đất nông nghiệp và quá trình thu
10 Tính đến thời điểm 31/12/2012, đây là một trong 4 hướng phát triển mạng lưới đô thị của Hà Nội phần mở rộng.
57
hồi diễn ra nhanh chóng, ồ ạt trong khoảng 3 năm (2003 đến 2005) với chính
sách thu hồi duy nhất là bắt buộc. Dù có nhiều dự án tiến hành thu hồi khác
nhau nhưng các bước thu hồi đất đều diễn ra tương tự và được áp dụng thống
nhất ở tất cả các dự án. Điều này cho thấy tính bị động của người nông dân,
họ gần như không có tiếng nói trong công tác quy hoạch, chủ trương bồi
thường và hỗ trợ thu hồi đất.
Sau khi kế hoạch thu hồi đất phục vụ các dự án trên địa bàn làng Gia
Trung được Chính phủ phê duyệt và UBND tỉnh Vĩnh Phúc quyết định, Hội
đồng bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) được thành lập với sự tham
gia của 4 bên: đại diện các Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường và
Ban Quản lý khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc; đại diện của các phòng Tài
chính, Tài nguyên và Môi trường huyện Mê Linh; đại diện của UBND xã
Quang Minh; đại diện chủ các dự án và trưởng thôn làng Gia Trung.
Trình tự thu hồi đất để phục vụ các dự án được thực hiện qua sáu bước:
i/ UBND xã lên danh sách hộ gia đình thuộc diện bị thu hồi; ii/ Tiến hành họp
mặt giữa chính quyền xã, nhà đầu tư và đại diện hộ gia đình để thông báo lý
do thu hồi, định ước giá bồi thường và các khoản hỗ trợ; iii/ Hội đồng bồi
thường GPMB cùng đại diện dự án và đại diện thôn làng tiến hành khảo sát
thực tế khu đất bị thu hồi để lập biên bản kiểm kê làm căn cứ xác định mức
bồi thường và hỗ trợ cụ thể cho từng hộ sử dụng đất; iv/ Ban tài chính GPMB
căn cứ vào biên bản kiểm kê thực tế của Hội đồng bồi thường GPMB để lập
phương án bồi thường và trình UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt; v/ Sau khi
dự án được phê duyệt, Hội đồng GPMB tổ chức họp các hộ gia đình để thông
báo mức bồi thường, hỗ trợ; và vi/ Chi trả các khoản bồi thường, hỗ trợ cho
hộ gia đình nằm trong diện thu hồi.
Quá trình thu hồi đất ở Gia Trung có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bồi
thường và hỗ trợ, trong đó, chính sách bồi thường là điều kiện đầu tiên và bắt
buộc, còn chính sách hỗ trợ thì được thực hiện sau đó. Căn cứ để thực hiện
58
bồi thường thu hồi đất được áp dụng theo Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày
24/4/1998 về việc “Đền bù11 thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia”; Quyết định số
2308/1998/QĐ-UB ngày 9/9/1998 về “Đền bù và đơn giá đền bù thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng”; và Quyết định số 3579/2002/QĐ-UB ngày
27/9/2002 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt điều chỉnh bổ sung một số cơ
chế khuyến khích và hỗ trợ đền bù GPMB khi Nhà nước thu hồi đất vào mục
đích quốc phòng, an ninh.
Bảng 2.1: Khung giá bồi thường các loại đất năm 2003-2005
Giá đất
Hạng đất
Loại đất
(H)
Giá đất quy định (đồng/m2)
bồi thƣờng (đồng/m2)
H1
19.200
21.850
H2
16.000
19.200
Đất nông nghiệp quỹ I
H3
13.000
15.600
H4
9.000
10.800
H5
6.000
7.200
H1
19.200
21.850
Đất nông nghiệp quỹ II
H4
9.000
10.800
Đất giao thông, thủy lợi
10.800
Nguồn: Tài liệu được tổng hợp từ phương án GPMB huyện Mê Linh
11 Trong quá trình thu hồi đất ở Việt Nam, một số thuật ngữ liên quan đến vấn đề bồi thường thu hồi đất đã có sự thay đổi qua các bộ luật và không được sử dụng thống nhất trong một số văn bản pháp luật. Luật Đất đai năm 1987 và 1993 sử dụng thuật ngữ „đền bù‟ và „đền bù thiệt hại‟ để chỉ sự “đền trả lại những thiệt hại do một hoạt động của một chủ thể gây ra”, nhưng từ năm 2001 và đặc biệt Luật Đất đai năm 2003, Quốc hội đã thống nhất sử dụng các thuật ngữ „bồi thường‟, „hỗ trợ‟ thay cho các thuật ngữ này. Tuy nhiên, Luật Xây dựng năm 2003 vẫn còn sử dụng các thuật ngữ này, hoặc như Luật Đất đai 2003 đã thống nhất sử dụng cụm từ “bồi thường” nhưng ở một số địa phương vẫn còn sử dụng cụm từ „bồi hoàn‟ v.v. Điều này dẫn đến những nhận định và sự nhầm lẫn giữa các thuật ngữ, gây thắc mắc từ phía người có đất bị thu hồi. Bài viết thống nhất sử dụng các thuật ngữ như Luật Đất đai năm 2003 (hiện nay là Luật Đất đai 2013) đã sử dụng.
Theo Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 thì: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào
tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
59
Chính sách bồi thường chủ yếu là bồi thường đất nông nghiệp. Các
khoản bồi thường không được tính đồng loạt/sào đối với tất cả diện tích đất bị thu hồi mà được áp giá theo hạng đất nông nghiệp12, trong đó khung giá bồi
thường đất nông nghiệp hạng 1 là cao nhất và lần lượt giảm khi áp giá với
hạng đất 2, 3, 4, 5 và 6. Ở Gia Trung, tùy thuộc vào tính bình quân chia đất từ
năm 1993, mỗi hộ gia đình được chia đều các diện tích đất, gồm đất tốt và
xấu, do vậy, một số dự án phải bồi thường chủ yếu là đất hạng 1, nhưng nhiều
dự án là đất hạng 2 và 3 (chẳng hạn, khi thực hiện bồi thường ở dự án Khu đô
thị, chủ dự án phải bồi thường là đất nông nghiệp hạng 3 và 4). Do vậy, có
nhiều mức giá bồi thường, dao động từ 16 đến 22 triệu đồng/sào và mức giá
được áp dụng thống nhất giữa các dự án thu hồi ở trong cùng khu vực. Tuy
12 Theo Điều 42 Luật Đất đai năm 1993, đất nông nghiệp là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Theo đó, để thuận lợi trong việc tính thuế sử dụng đất nông nghiệp, Nghị định số 73- CP ngày 25/10/1993 đã đưa ra quy định chi tiết để phân thành các hạng đất nông nghiệp dựa vào yếu tố chất đất, vị trí, địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu. Tiêu chuẩn của từng yếu tố được xác định như sau:
1. Yếu tố chất đất là độ phì của đất thích hợp với từng loại cây trồng; đối với đất có mặt nước
nuôi trồng thuỷ sản còn bao gồm độ muối và nguồn dinh dưỡng của nước;
2. Yếu tố vị trí của đất là khoảng cách so với nơi cư trú của người sử dụng đất, khoảng cách so
với thị trường tiêu thụ nông sản phẩm theo từng trường hợp cụ thể;
3. Yếu tố địa hình của đất là độ bằng phẳng, độ dốc, độ trũng hoặc ngập úng của mảnh đất; 4. Yếu tố điều kiện khí hậu, thời tiết là nhiệt độ trung bình hàng năm và các tháng trong năm; lượng mưa trung bình hàng năm và các tháng trong năm; số tháng khô hạn trong năm; tần suất xuất hiện lũ, bão, sương muối, độ ẩm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trồng, v.v;
5. Yếu tố điều kiện tưới tiêu đối với đất trồng cây hàng năm là mức độ tưới tiêu chủ động; đối
với đất trồng cây lâu năm là mức độ gần, xa nguồn nước và điều kiện thoát nước.
Căn cứ vào quy định của Nghị định này, đất nông nghiệp ở Gia Trung được phân loại thành đất nông nghiệp quỹ I (từ hạng 1 đến hạng 6) đã giao sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình nông dân, mỗi hộ gia đình được chia khẩu phần đất theo khẩu và lứa tuổi. Đất nông nghiệp quỹ II là đất dành cho dự trữ đường, mương, nghĩa trang, v.v. 13 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Châm, Đỗ Lan Phương [2016] nhấn mạnh quá trình thu hồi và bồi thường đất ở địa bàn Xuân Đỉnh có các mức giá bồi thường khác nhau theo từng thời điểm và tùy thuộc vào từng văn bản chính sách, nhưng nhìn chung tăng ngày càng cao. Những năm 1990, người dân được nhận mức giá bồi thường từ 32-36 triệu đồng /sào, đến những năm 2003- 2004 giá bồi thường tăng lên 40-47 triệu đồng /sào; đến năm 2006-2008 tăng lên 70 triệu đồng /sào; từ cuối những năm 2010 tăng tới 460 triệu đồng /sào, thậm chí 500 triệu đồng /sào [tr.91- 103]. Tương tự, tác giả Nguyễn Văn Sửu cho thấy mức giá bồi thường đất nông nghiệp ở làng Phú
60
nhiên, giá bồi thường ở Gia Trung chủ yếu là đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn nên có mức giá thấp hơn nhiều so với các làng ở khu vực đô thị13.
Ngoài bồi thường về đất, một số dự án thu hồi (Khu nhà ở, Trung tâm
thương mại, v.v.) còn bồi thường thiệt hại về hoa màu. Mức giá bồi thường
đối với hoa màu được áp dụng tại Nghị định 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ
và Quyết định 2308/1998/QĐ-UB của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, được tính bằng
giá trị sản lượng thu hoạch trong 1 năm theo năng suất bình quân của 3 năm
trước đó.
350
300
250
200
150
100
50
0
Năm 1997
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2006
Năm 2015
Nguồn: Số liệu được tổng hợp từ báo cáo thu hồi đất ở làng Gia Trung và
tài liệu điền dã năm 2013 và 2017 của tác giả
Biểu đồ 2.1: Giá tiền bồi thường đất nông nghiệp (ĐVT: Triệu đồng)
Từ năm 2006 trở đi, quá trình thu hồi đất ở Gia Trung diễn ra theo cả
hai cơ chế thu hồi bắt buộc và tự nguyện, người nông dân bắt đầu có tiếng nói
trong việc thỏa thuận giá cả thu hồi và các loại hỗ trợ. Ngoài căn cứ theo Luật
Đất đai 2003, giá đất bồi thường của các dự án đều được tính theo khung giá
tại Quyết định số 50/2005/QĐ-UB ngày 31/12/2005 của UBND tỉnh Vĩnh
Điền tăng cao hơn song không đồng nhất giữa các dự án thu hồi. Ví dụ vào giữa năm 2008, một dự án thu hồi có giá bồi thường là 97 triệu đồng /sào; đến cuối năm 2008, một dự án thu hồi khác có giá bồi thường lên tới hơn 200 triệu đồng /sào, trong đó có một số hộ còn được nhận thêm suất đất dịch vụ. Tuy nhiên, đến năm 2009, để xây dựng trụ sở một cơ quan nhà nước lại áp dụng mức giá bồi thường chỉ có 126 triệu đồng /sào cộng với suất đất dịch vụ, v.v [Nguyễn Văn Sửu 2014, tr.119-120].
61
Phúc. Sau khi sáp nhập về Hà Nội, chính sách bồi thường thu hồi đất trên địa
bàn từ năm 2008 đến 2013 được căn cứ vào quy định Luật Đất đai năm 2003
và các Nghị định đi kèm như: Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 bổ
sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư; Quyết định 108/2009/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ tái định cư
trên địa bàn thành phố Hà Nội, v.v. Từ năm 2013 đến nay, việc thu hồi đất
được căn cứ vào Luật Đất đai năm 2013, Nghị định 47/2014/NĐ-CP và Quyết
định 23/2014/QĐ-UBND, v.v; đến năm 2017 được thay thế bằng Quyết định
10/2017/QĐ-UBND ngày 29/03/2017 có nội dung giống với Quyết định
23/2014 trước đó. Đồng thời, công tác bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất còn
được tính theo Quyết định số 96/2014/QĐ-UBND quy định giá các loại đất
trên địa bàn thành phố Hà Nội áp dụng từ ngày 01/10/2015 đến 31/12/2019.
Bảng 2.2: Các khoản bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất
nông nghiệp hạng 1 năm 2005
Số tiền (đồng /m2) Stt Các khoản bồi thƣờng và hỗ trợ
1. Quyền sử dụng đất 25.000
2. Bồi thường hoa màu (thửa ruộng canh tác) 9.028
3. Hỗ trợ chuyển đổi nghề 3.800
4. Hỗ trợ ổn định đời sống 7.851
5. Thưởng giải phóng mặt bằng nhanh 2.000
6. Hỗ trợ khác (tùy khu vực đất) 3.359
Nguồn: Tổng hợp từ phương án GPMB huyện Mê Linh
Chính sách hỗ trợ
Thứ nhất là hỗ trợ bằng tiền và đào tạo nghề. Theo quy định của pháp
luật về đất đai thì Nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
được giao cho các cá nhân, hộ và tổ chức và khi có liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của người sử dụng đất, có tác động đến đời sống kinh tế - xã hội, an
62
ninh trật tự ở địa phương. Ngay từ những văn bản hướng dẫn sơ khai về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất, pháp luật Việt Nam đã xây dựng chế định
hỗ trợ với các hình thức đa dạng như: hỗ trợ chuyển đổi nghề, giải quyết việc
làm; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, v.v.
Ở Gia Trung, cùng với chính sách bồi thường thì chính sách hỗ trợ của
Nhà nước cũng được triển khai, gồm có:
(1) Hỗ trợ chi phí đào tạo để chuyển đổi nghề dành cho những lao
động nông nghiệp. Số tiền này được cấp trực tiếp cho người dân hoặc có thể
cấp cho tổ chức thực hiện đào tạo tại địa phương. Nhiều lao động trong các hộ
gia đình đã đi học nghề, tuy nhiên chỉ có một bộ phận rất nhỏ lao động đã học
nghề có thể áp dụng ngành nghề đã đào tạo, còn phần lớn không áp dụng
được vào công việc;
(2) Hỗ trợ ổn định đời sống. Về bản chất, tùy thuộc vào từng địa
phương và thời điểm thu hồi mà chính sách hỗ trợ này được áp dụng với cơ
chế khác nhau, với mục tiêu khôi phục lại nguồn thu nhập cho người dân.
Thứ hai là hình thức hỗ trợ bằng đất dịch vụ. Trong những năm đầu,
cơ chế hỗ trợ này được áp dụng cho một số dự án thu hồi và được tính gộp
vào các khoản tiền bồi thường, hỗ trợ. Từ năm 2005 được thay thế bằng
chính sách hỗ trợ đất dịch vụ. Nguyên tắc chung của Luật Đất đai ở Việt
Nam là đảm bảo sự hỗ trợ đầy đủ cho người có đất bị thu hồi để họ có thể
phục hồi sinh kế và thay đổi thu nhập. Từ năm 2006 trở về trước, trong quá
trình Nhà nước thu hồi đất, ngoài quy định bồi thường thiệt hại về đất thì
còn có các văn bản hướng dẫn thực thi chính sách hỗ trợ (hỗ trợ chuyển đổi
nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm), tuy nhiên ở đa số địa phương, người dân
không được tham gia loại hình hỗ trợ này mà trực tiếp nhận hình thức hỗ trợ
bằng tiền. Với Nghị định 17/2006/NĐ-CP, ngoài hỗ trợ bằng tiền như trước
đó, đã xuất hiện chính sách hỗ trợ bằng hình thức giao đất dịch vụ. Trên cơ
sở sửa đổi Điều 29 Nghị định 197/2004/NĐ-CP, tại Điều 4 Nghị định
63
17/2006/NĐ-CP bổ sung:
“Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên
30% diện tích đất mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp
tương ứng thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy
định: Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản
xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; mức đất được giao do UBND
cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của từng hộ gia
đình, cá nhân để quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương
ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại
thời điểm thu hồi đất đã được UBND cấp tỉnh quy định và công bố”.
Đất dịch vụ tiếp tục được nhấn mạnh và áp dụng qua Nghị định số
84/2007/NĐ-CP:
“Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên
30% diện tích đất trong trường hợp không được Nhà nước bồi thường bằng
đất nông nghiệp tương ứng mà không có nguyện vọng nhận bồi thường bằng
đất làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp theo quy
định tại khoản 4 Điều 4 Nghị định 17/2006/NĐ-CP thì được bồi thường bằng
giao đất ở (còn gọi đất dịch vụ) có thu tiền sử dụng đất tại khu tái định cư
hoặc tại vị trí trong khu dân cư phù hợp với quy hoạch” (Điều 48).
Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn đất đai hiện hành
không có quy định nào về đất dịch vụ, nghĩa là hỗ trợ bằng đất dịch vụ chỉ
được thực hiện trong những năm 2004 - 2008. Đây là lúc khiếu kiện, khiếu
nại về đất đai ở Việt Nam nói chung, khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng
gia tăng. Vì thế, hỗ trợ bằng đất dịch vụ được thực hiện như một giải pháp
chính sách cho thu hồi đất ở Việt Nam nhằm thu hồi đất nhanh hơn, dễ hơn,
đồng thời hỗ trợ người dân chuyển đổi sinh kế, yên tâm sản xuất sau thu hồi
đất. Trong thực tế, có một số tỉnh đã áp dụng giải pháp hỗ trợ này, như tỉnh
64
Vĩnh Phúc và Hà Tây (cũ), Hà Nội, Bắc Ninh, v.v., trong khi một số tỉnh khác
thì cho rằng “giải pháp này không phù hợp bởi vì nó đòi hỏi số lượng lớn đất
phi nông nghiệp cần được chuyển đổi từ đất nông nghiệp. Giải pháp hỗ trợ
này nghe có vẻ tốt nhưng cần được lên kế hoạch cẩn thận và đưa vào quy
hoạch sử dụng đất cho tính khả thi cao hơn” [Ngân hàng thế giới 2011]. Từ
năm 2009, thành phố Hà Nội và tỉnh Vĩnh Phúc không áp dụng chính sách hỗ
trợ đất dịch vụ nữa mà chỉ tập trung giải quyết những tồn đọng trong công tác
giao đất dịch vụ của những năm trước đó.
Ở Vĩnh Phúc, UBND tỉnh ra quyết định giao đất dịch vụ14 cho tất cả hộ
gia đình nằm trong diện bị thu hồi đất nông nghiệp. Theo đó, mỗi hộ gia đình
sẽ nhận được 17 m2 đất dịch vụ /sào bị thu hồi, mỗi ô đất dịch vụ tối thiểu 50
m2, tối đa 100 m2. Đất dịch vụ được coi là hình thức hỗ trợ sáng tạo của tỉnh
Vĩnh Phúc nhằm từng bước giải quyết những khó khăn, khiếu kiện của người
dân trong việc chuyển đổi từ sản xuất thuần nông sang sản xuất công nghiệp,
thương mại dịch vụ, tạo động lực thúc đẩy công tác bồi thường giải phóng
mặt bằng. Vì thế, “áp dụng chính sách cấp đất cho dân làm dịch vụ khi thu hồi
đất để phục vụ phát triển công nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã giúp cho trung ương
bài học giải phóng mặt bằng”15.
Trong bối cảnh đó, vì là một địa phương thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, ở làng
Gia Trung, đất dịch vụ16 được quy hoạch thuộc phần đất nông nghiệp ở tổ dân
phố số 7, nằm liền kề với các khu biệt thự và khu đô thị. Bản vẽ năm 2006 đã
65
quy hoạch thành 17 khu nhà ở và hệ thống đường giao thông, trường học, bệnh 14 Vĩnh Phúc là tỉnh đầu tiên trong cả nước thực hiện chính sách hỗ trợ bằng hình thức giao đất dịch vụ, chính sách này được áp dụng theo Nghị quyết 15/2004/NQ-HĐND ngày 25/5/2004: “Các hộ gia đình ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc bị thu hồi đất nông nghiệp để phát triển khu công nghiệp tập trung, các vùng được quy hoạch làm khu dịch vụ du lịch và đô thị của tỉnh tự nguyện thực hiện đầy đủ các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng thì được bố trí đất sử dụng làm dịch vụ” và Quyết định số 2502/2004/QĐ-UB ngày 22/7/2004, số 25/2006/QĐ-UBND ngày 04/4/2006 của UBND tỉnh. 15 Lời khẳng định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khi khảo sát việc thực hiện chính sách pháp luật về đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc, ngày 6/4/2005. 16 Chính sách giao đất dịch vụ được xã Quang Minh dự kiến tiến hành ở 6/7 thôn/làng, với tổng diện tích quy hoạch 353.044 m2, giao cho khoảng 3.686 hộ dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.
viện, trung tâm thương mại với tổng diện tích 83.563 m2, cấp cho khoảng 900
hộ gia đình, dự kiến giao đất vào tháng 10/2007. Tuy nhiên, khi Gia Trung
được sáp nhập vào Hà Nội (2008) thì chính sách này bị đình chỉ.
“Thời điểm được chia đất theo Nghị định 64/NĐ-CP năm 1993, gia
đình tôi có 6 khẩu được chia ruộng với tổng diện tích 4.146 m2, phân tán ở 18
xứ đồng, là đất quỹ I dùng cho sản xuất nông nghiệp với thời hạn giao đất sử
dụng trong vòng 20 năm. Năm 2003 - 2004, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã thu hồi
của gia đình tôi 3.099,2 m2 (chiếm 74,8% tổng diện tích) để quy hoạch xây
dựng khu công nghiệp Quang Minh. Theo quy định, gia đình tôi được nhận
tối đa 100 m2 đất dịch vụ. Năm 2007, chính quyền xã Quang Minh thông báo
đã có bản vẽ quy hoạch đất dịch vụ của làng và trong thời gian tới sẽ triển
khai xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở để giao đất vào cuối năm 2007 - 2008.
Khi nhận được thông tin này, gia đình tôi có dự định sử dụng mảnh đất dịch
vụ đó vào việc cho thuê làm mặt bằng kinh doanh. Thế nhưng, đến nay 10
năm trôi qua, phần đất dịch vụ mà chính quyền hứa giao khi gia đình tôi vẫn
chưa biết nằm ở vị trí nào trong mảnh đất hoang hóa rộng gần 23 ha ngoài
đồng kia” (N.V.T, 65 tuổi, tổ 6).
Ở Quang Minh, các làng Gia Thượng, Gia Trung, Gia Tân và làng
Đồng đều thuộc diện được cấp đất dịch vụ, nhưng đến nay chỉ có làng Đồng
và Gia Thượng là được giao đất. Riêng làng Gia Thượng, khu đất dịch vụ
được quy hoạch nằm đối diện KCN Quang Minh, có bản vẽ quy hoạch đồng
thời với làng Gia Trung (2006). Đến năm 2008, khi sáp nhập về Hà Nội thì cơ
bản mặt bằng khu đất đã được giải phóng, và đến năm 2014 chính quyền
thành phố Hà Nội đã tiến hành giao đất cho các hộ dân. Hiện nay (năm 2017),
khu vực này đã trở thành một công trường xây dựng, phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu sinh sống, ăn uống, giải trí của người dân và bộ phận công nhân trong
66
khu công nghiệp.
Nguồn: Phòng Địa chính xã Quang Minh, huyện Mê Linh
Hình 2.4: Bản đồ quy hoạch chi tiết đất dịch vụ làng Gia Trung (2006)
Như vậy, cứ một đến hai năm Chính phủ ban hành một nghị định điều
chỉnh những khía cạnh có liên quan đến cơ chế bồi thường, hỗ trợ cho người
bị nhà nước thu hồi đất [Ngân hàng Thế giới 2011, tr.80]. Sau mỗi nghị định
mới được ban hành, mức bồi thường, hỗ trợ ổn định đời sống cho người có
đất bị thu hồi được nâng cao hơn. Nghị định số 17/2006/NĐ-CP và số
84/2007/NĐ-CP phản ánh rõ bước tiến trong chính sách hỗ trợ ổn định đời
sống cho người dân - cụ thể là chính sách hỗ trợ đất dịch vụ, như một giải
pháp chính sách cho quá trình thu hồi, bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất ở Việt
Nam đương đại.
Mâu thuẫn trong thu hồi đất
Như đề cập ở phần trên, quá trình thu hồi đất ở Gia Trung diễn ra ồ ạt
từ năm 2003 đến 2005, được xem là giai đoạn xáo trộn nhất của làng, từ một
làng thuần nông nhưng chỉ trong thời gian ngắn, người dân làng đã chứng
67
kiến và trải qua nhiều vấn đề quanh câu chuyện thu hồi đất. Đồng thời, họ
cũng phải đối mặt với những lo lắng khi mất đi sinh kế truyền thống và phải
thích ứng với cuộc sống không còn nhiều hoạt động nông nghiệp. Nhưng bao
trùm và căng thẳng hơn cả là sự thiếu minh bạch dẫn đến những mâu thuẫn
trong thu hồi và hỗ trợ thu hồi đất, điều này thể hiện rõ ở một số điểm:
Thứ nhất, trình tự thu hồi đất không thực hiện đúng quy định của Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Trách nhiệm của UBND huyện là
tổ chức tuyên truyền về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và thực hiện
giải phóng mặt bằng theo đúng quyết định thu hồi đất nhưng người dân làng
Gia Trung không được nghe thông báo, không nhận được bất kỳ một quyết
định thu hồi đất của UBND huyện hay phương án bồi thường hỗ trợ nào.
Thứ hai là sự không nhất quán trong thu hồi quyền sử dụng đất. Ví dụ,
các hộ dân có đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng dự án “Khu biệt thự” đã
áp dụng nhiều mức giá bồi thường khác nhau, vừa công khai vừa có sự thỏa
thuận ngầm với một số hộ không chấp nhận mức bồi thường theo chính sách
của Nhà nước.
“Vì chúng tôi không nhận được những thông tin cụ thể, chi tiết, không
thỏa thuận được giá đất bồi thường nên Công ty A cho người về vận
động nhân dân cứ lấy 17 triệu đồng /sào, sau này đất lên giá hoặc có ai
trả cao hơn thì công ty sẽ trả dân như vậy. Chúng tôi tin vào lời hứa
nên 170 hộ dân làng đã nhận tiền bồi thường 17 triệu đồng và không
được hưởng tiền do thực hiện đúng tiến độ. Nhưng sự việc lại không
dừng lại ở đó. Có gần 20 hộ dân không đồng ý với mức giá này nên
không nhận tiền, cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất nhưng
lại không bị cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và
tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định. Không những thế có 13 hộ
dân còn được 2 cán bộ của Công ty đem tiền vào tận nhà trả tiền bồi
68
thường với nhiều mức giá khác nhau, từ 100 đến 300 triệu đồng /sào
(Chúng tôi đều có danh sách xác nhận của các hộ gia đình lấy sau nhưng được bồi thường cao gấp nhiều lần những hộ lấy trước)”17.
Khi thông tin về sự chênh lệch trong giá bồi thường này bị tiết lộ, 170
hộ gia đình - những người chấp nhận mức bồi thường 17 triệu đồng /sào đã
tập hợp nhau khiếu kiện, đòi công ty phải tính mức giá bồi thường cho gia
đình họ bằng với mức các hộ gia đình khác được hưởng. Bởi lẽ, họ nhận thấy
một sự chênh lệch rất lớn giữa những mức bồi thường khác nhau cho các hộ
gia đình trong cùng một dự án thu hồi. Đỉnh điểm của sự phản kháng của hơn
100 hộ gia đình là họ công khai thách thức và ngăn chặn việc thi công dự án
bằng cách dựng lều trên diện tích đất bị thu hồi, treo biểu ngữ phản đối việc
thu hồi đất, rào cổng và không cho doanh nghiệp thi công dự án.
Thứ ba là vấn đề giao đất dịch vụ cho hộ gia đình bị thu hồi trên 30%
diện tích đất đưa ra ở Gia Trung từ năm 2006. Đến thời điểm năm 2017,
người dân vẫn chưa được nhận đất dịch vụ. Người nông dân ngày ngày trông
chờ vào phần đất dịch vụ được giao, liên tục kiến nghị chính quyền sớm giao
đất để yên tâm ổn định sản xuất. Trong khi chính quyền thì lại nhận định “rất
khó thực hiện được các phương án bố trí đất dịch vụ do thiếu kinh phí đầu tư
hạ tầng và chưa hoàn thành việc giải phóng mặt bằng”, dẫn đến mâu thuẫn
không công bằng giữa một số hộ dân không tuân thủ pháp luật và đa số hộ
dân tuân thủ pháp luật. Đại diện cho gần 800 hộ dân có đất nông nghiệp bị thu
hồi, trong nhiều năm liền thông qua các cuộc họp của Hội nông dân, họp tổ
dân phố, các buổi tiếp xúc cử tri, bà N.T.Đ (73 tuổi, tổ 7) liên tục kiến nghị về
vấn đề đất dịch vụ ở Gia Trung:
“Rằng bao giờ chúng tôi được giao đất dịch vụ, rốt cuộc các cấp chính
quyền làm thế nào trả lời để dân chúng tôi yên tâm lao động và sản xuất. Khi
cần dân thì các ông ý hứa sẽ kiến nghị lên cấp trên đẩy nhanh tiến độ giao
đất dịch vụ và trong nhiệm kỳ công tác của mình cũng sẽ cố gắng hoàn trả
69
đất cho người dân. Nhưng các ông ý hứa vậy thôi, xong rồi không thấy đâu”. 17 Trích dẫn nội dung đơn khiếu kiện thu hồi đất của 170 hộ dân làng Gia Trung.
Tiểu kết chƣơng 2
Chương này đã cho thấy một giai đoạn phát triển nhiều biến đổi của
làng Gia Trung. Trong lịch sử, dù có nhiều lần bị điều chỉnh địa giới hành
chính, Gia Trung luôn là khu vực cộng cư của những người tiểu nông làm lúa
nước; đất nông nghiệp, canh tác lúa và hệ sinh thái lúa nước đã góp phần hình
thành những đặc trưng văn hóa, xã hội tiêu biểu của làng.
Từ cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, dưới tác động của chính sách
công nghiệp hóa, đô thị hóa, làng Gia Trung đã trải qua quá trình biến đổi
nhanh chóng về cơ cấu sử dụng đất do một diện tích lớn đất nông nghiệp bị thu
hồi. Chính sách thu hồi, bồi thường và hỗ trợ thu hồi đất như được áp dụng ở
Gia Trung phản ánh rõ những quy định của Nhà nước về sở hữu và sử dụng
đất, đặc biệt là đất nông nghiệp; phản ánh một số điểm chung về bất cập liên
quan đến bồi thường và hỗ trợ quyền sử dụng đất nói chung và quá trình thực
hiện chính sách hỗ trợ đất dịch vụ nói riêng trong thời gian qua. Có thể khẳng
định, nguyên nhân biến đổi sinh kế của người dân ở làng Gia Trung đều bắt
nguồn từ những thay đổi trong bối cảnh được trình bày ở chương này. Những
tác nhân tạo ra bối cảnh sinh kế trong nghiên cứu này rất quan trọng, bởi chúng
có tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự biến đổi, sự lựa chọn và thích nghi
sinh kế của người dân và mở ra cơ hội cho họ cách theo đuổi những sinh kế có
lợi cho cuộc sống của cá nhân và hộ gia đình sau thu hồi đất. Sự biến đổi sinh
kế ấy được thể hiện ở những khía cạnh nào, đặc điểm ra sao, chính là nội dung
70
các chương tiếp theo mà tôi muốn tìm hiểu và phân tích.
Chƣơng 3. SINH KẾ NÔNG NGHIỆP
Phần một của chương cung cấp cái nhìn tổng quan về đất đai và hoạt
động sản xuất nông nghiệp (gồm diện tích, quá trình thu giảm diện tích đất
nông nghiệp do tác động của chính sách kinh tế - xã hội của địa phương và
đặc điểm một số loại cây trồng chính giữ vai trò nguồn cung lương thực) ở
Gia Trung trong lịch sử cho đến trước khi diễn ra quá trình thu hồi đất. Phần
thứ hai của chương phân tích những biến đổi trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp từ năm 2000 đến năm 2017, chỉ ra vai trò của nguồn lực sinh kế (đất
đai, con người, v.v.) đối với sự lựa chọn của người dân trong sản xuất nông
nghiệp, đánh giá vai trò của phương thức sinh kế này đối với sự đa dạng sinh
kế của hộ gia đình.
3.1. Đất đai và sản xuất nông nghiệp trƣớc khi thu hồi đất
3.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Tôi không có tư liệu về đất đai và ruộng đất ở Gia Trung thời kỳ mới
thành lập làng. Ngoài tấm bia hậu dựng ở chùa Đại Bi của làng, một số ghi
chép cá nhân và một vài cuốn phả ký có nhắc đến một số thông tin cơ bản về
ruộng đất, thì tình hình ruộng đất của làng có thể tiếp cận được đều căn cứ
vào địa bạ được lập năm Gia Long thứ 4 (1805). Địa bạ này mô tả một cách
chi tiết và cung cấp thông tin tương đối toàn cảnh về bức tranh ruộng đất của
làng trong những năm đầu thế kỷ XIX. Thời điểm này, Gia Trung với làng
Đồng cùng thuộc xã Gia Thượng (tổng Gia Thượng), tuy có địa phận cư trú
riêng biệt nhưng ruộng đất và thuế vẫn tính chung sổ sách, có diện tích đất tự
nhiên (còn gọi đất bao đạc) hơn 2.033 mẫu Bắc Bộ, bao gồm đất trồng trọt,
thổ cư, gò đống, bãi sông và các loại đất khác, v.v. Trong đó, làng Gia Trung
có diện tích 701 mẫu, gồm 86 mẫu đất thổ cư và 616 mẫu đất trồng trọt, riêng
71
đất trồng trọt của làng được phân bổ như sau:
Bảng 3.1: Ruộng đất trồng trọt ở Gia Trung đầu thế kỷ XIX
Diện tích
Quy đổi ha
Tỷ lệ
Stt
Loại ruộng
(mẫu Bắc Bộ)
(hecta)
(%)
1. Ruộng công (công điền)
70
25,2
11,3
335
120,6
54,3
2. Ruộng tư (ruộng của tư gia) 3. Ruộng xâm canh
151
54,36
24,5
4. Ruộng chùa họ (nửa công, nửa tư)
60
21,6
9,7
Nguồn: Địa bạ xã Gia Thượng năm 1805, KH: 02618, (TTLTQG I)
Những số liệu này cho thấy vào đầu thế kỷ XIX, diện tích đất trồng trọt
của làng Gia Trung có sự phân hóa lớn, ruộng đất tư hữu (ruộng của các tư
gia) đã tương đối cao và phức tạp, được phân bố ở tất cả các xứ đồng của
làng. Ruộng đất xâm canh (tức phần diện tích đất của làng do người làng khác
sở hữu và canh tác hoặc cho thuê) lúc này cũng phát triển mạnh. Đồng thời,
ruộng đất tư hữu ở làng đã có thể chuyển nhượng và mua bán, hiện tượng xâm
canh, phụ canh đã phát triển; có những chủ sở hữu ruộng đất đến 60 mẫu,
thuộc loại địa chủ lớn, đồng nghĩa với ruộng đất công của làng ngày càng
giảm và bị thu hẹp. Với một mật độ dân cư khá cao, hầu hết diện tích đất
nông nghiệp của làng đều được trồng lúa và hoa màu.
Bảng 3.2: Bảng thống kê tư điền xã Gia Thượng năm 1805
Chủ sở hữu
Mẫu
Sào
Thƣớc
Ghi chú
8
7
Người xã Giai Lạc
Đào Văn Đột
3
Người xã Thường Lệ
Bùi Văn Thực
4
Đỗ Văn Mạc
4
Nt
Nguyễn Văn Trác
4
Nt
Nguyễn Thị Tả
4
Nt
Đào Văn Màng
4
Nt
Nguyễn Biểu
6
Người xã Da Hạ
Nguyễn Giáp
6
Phường Đại Phùng
Nguyễn Thị Lư
7
5
Xã Phú Gia, huyện Từ Liêm,
xứ Sơn Tây
72
Nguyễn Vận
40
Xã Do Nhân
Nguyễn Trầm
60
Người xã Đông Đồ
Nguyễn Mô
8
30
Người xã Đông Đồ
Nguyễn Bàng
1
2
Xã Chu Lão
Nguyễn Thi
9
Xã Thụy Hà
9
Nguyễn Bế
9
3
10
Nt
Nguyễn Thống
2
4
14
Nt
Dương Thừa
4
4
14
Nt
Nguyễn Nhật
2
5
11
Nt
Nguyễn Thao
4
5
1
Nt
Nguyễn Dũng
5
5
3
Nt
Nguyễn Lũng
30
Xã Giai Lạc
Nguyễn Nhậm
40
Xã Giai Lạc
Nguồn: Địa bạ xã Gia Thượng năm 1805, KH: 02618, (TTLTQG I)
Bên cạnh đó cũng có nhiều người dân ở làng Gia Trung mua thêm
ruộng đất và canh tác phụ canh ở các làng bên cạnh. Địa bạ xã Giai Lạc có ghi
tên 9 chủ sở hữu vốn là người Gia Trung phụ canh với tổng diện tích gần 51
mẫu trên cánh đồng làng Giai Lạc
Bảng 3.3: Diện tích đất tư điền của người dân Gia Trung phụ canh
trên các cánh đồng của xã Giai Lạc
Họ tên
Mẫu
Sào
Thƣớc
Tấc Phân Ghi chú
Dương Đắc Thọ
2
5
Nguyễn Đình Kinh
6
5
7
Ngô Thị Sáng
5
6
Tạ Thị Phương
6
1
8
Ngô Lãng
6
7
9
Ngô Tài
5
14
7
Quách Quốc Kỳ
3
8
8
Ngô Trình
7
10
3
Dương Đức Thị
5
5
Nguồn: Địa bạ xã Giai Lạc năm 1805, KH: 02621 (TTLTQG I)
73
Trong tuyển tập Trên quê hương của người Dừa hè, Trần Văn Tuyên
[1985] đã mô tả và cung cấp cho chúng tôi thông tin khá chi tiết về một số
loại cây trồng và vật nuôi của người dân làng Gia Trung trước năm 1945:
(1) Cây lúa: là cây trồng chính trong mọi thời kỳ phát triển của dân
làng, đồng thời là căn cứ để tính “Bãi bỏ thuế”. Tùy theo năng suất cây
trồng hàng năm mà có những quy định riêng. Chính quyền không đánh
thuế hoặc đánh thuế thấp những năm năng suất cây trồng thấp hay mất
mùa; còn những năm được mùa thì năng suất của cây lúa trên các loại ruộng được chia làm 3 loại để định thuế điền: nhất đẳng điền18 tính
thuế 3 thăng/1 sào Bắc Bộ, nhị đẳng điền 2 thăng/1 sào, tam đẳng điền 1 thăng/1 sào19.
(2) Cây thầu dầu: được trồng phổ biến cả ở chân ruộng tốt và xấu và
chiếm một diện tích lớn so với các cây hoa màu khác bởi đây là loại cây
tập quán của làng. Ngoài ra, nông dân Gia Trung cũng trồng thêm các
loại đậu, khoai (khoai lang, khoai sọ), v.v nhưng với quy mô tự phát,
nhỏ lẻ ở hộ gia đình.
Chăn nuôi mang tính chất tự phát với quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng trong gia đình như lợn, trâu bò
và các loại gia cầm, v.v.
Cùng với nông nghiệp trồng trọt thì hoạt động kinh tế gắn với vườn, ao
cũng phát triển. Bên trong lũy tre của làng có hơn 10 mẫu vườn và khoảng 10
mẫu ao, có hộ gia đình sở hữu 2-3 mẫu vườn và nhiều ao. Vườn ao không
mang giá trị kinh tế, chủ yếu trồng các loại rau màu, cây ăn quả, thả cá, v.v,
phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp của hộ gia đình.
Các ghi chép và tài liệu hồi cố của người dân làng đều khẳng định, làng
74
Gia Trung có ít nghề phụ. Từ xưa, ở làng không có ai xuất thân từ buôn bán, 18. Cách tính thuế điền vào thời Nguyễn. 19. Thăng hay Thưng: Đơn vị đo thể tích cổ của Việt Nam.
đại bộ phận dân cư sống bằng nông nghiệp, chỉ có một số gia đình làm thêm
nghề đan dành, làm hàng xáo nhưng chỉ làm vào những lúc nông nhàn. “Vào
những năm 1930-1955, có ông Dương Văn Lược, là một nhà buôn lớn và bà
Nguyễn Thị Tính chuyên buôn bán hàng xén, nhưng họ đều là người từ nơi
khác đến làng lập nghiệp” [Trần Văn Tuyên 1985, tr.69].
Nhìn vào bức tranh kinh tế của làng Gia Trung trong lịch sử thì nông
nghiệp trồng trọt là hoạt động chính, mang đặc trưng của làng xã vùng đồng
bằng Bắc Bộ là cây lúa và chăn nuôi ở quy mô nhỏ, sản xuất nông nghiệp
không chỉ thu hút một phần cơ bản lực lượng lao động của các hộ gia đình
nông dân mà còn là một nguồn sinh kế quan trọng của họ.
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2000
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngoài những thay đổi về địa giới
và địa danh hành chính, thì diện tích đất đai của làng Gia Trung cũng bị biến
động mạnh. Căn cứ vào bản đồ địa hình của làng những năm 1950-1960, tôi
phác họa được những đặc trưng cơ bản về cấu trúc làng và ruộng đất của làng.
Diện tích đất nông nghiệp và đất ở (thổ cư) được bố trí thành những không
gian riêng biệt, không gian sản xuất gắn với không gian cư trú nhưng không
đan xen, hòa trộn với nhau. Thời điểm này, ruộng đất (không gian sản xuất)
của làng được phân bố ở 27 xứ đồng. Mỗi xứ đồng là một gợi nhớ về những
mốc lịch sử của làng. Việc phân chia thành các xứ đồng là căn cứ quản lý
75
ruộng đất của các đội sản xuất trong giai đoạn hợp tác xã sau này.
Nguồn: Trần Văn Tuyên, 1985
76
Hình 3.1: Bản đồ không gian địa lý và khu dân cư làng Gia Trung (1950-1960)
Giai đoạn 1959-1963: Hợp tác xã nông nghiệp ở Gia Trung chính thức
đi vào hoạt động năm 1959, là một đội sản xuất gồm 37 hộ xã viên. Từ năm
1960 trở đi, số lượng hộ xã viên tăng nhanh chóng, đồng nghĩa với việc từng
bước tập trung ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nhiều hộ nông dân
vào sản xuất tập thể, lấy hợp tác xã làm đơn vị sản xuất chính theo phương
thức canh tác chung và chia lợi nhuận cho xã viên, làm suy thoái kinh tế hộ
gia đình.
Giai đoạn 1964-1978: Phát triển thành liên thôn hợp tác xã Hè Đồng,
gồm Gia Trung và thôn Đồng. Làng Gia Trung được tổ chức thành 8 đội sản
xuất, đội 1-4 thuộc nửa làng phía xóm Đình (nay là tổ dân phố số 6), đội 5-8
nằm ở nửa làng phía xóm Chùa (tổ dân phố số 7). Sự phát triển kinh tế theo
mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở Gia Trung làm chuyển đổi nền sản xuất
nông nghiệp lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế cơ bản sang nền kinh tế nông
nghiệp lấy hợp tác xã là đơn vị sản xuất chính. Vì thế, trong giai đoạn này hộ
gia đình không còn là một đơn vị sản xuất tự chủ vì phải phụ thuộc vào hợp
tác xã, thay đổi này làm cho cấu trúc xã hội của cộng đồng làng (gồm gia đình
và xã hội) bị biến đổi. Đồng thời, đất nông nghiệp ở làng bị tách khỏi người
lao động, làm cho người nông dân không đầu tư công sức vào những mảnh
ruộng tập thể.
Bà có gần 30 năm gắn bó với hợp tác xã. Theo bà, sự hình thành và
phát triển hợp tác xã ở Gia Trung là quá trình kéo dài, gắn liền với xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cung cấp về người và của cho chiến
trường miền Nam. Giai đoạn này, làng được chia thành 8 đội sản xuất,
đứng đầu là đội trưởng, đội phó và một thư ký, có nhiệm vụ điều hành
các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đội sản xuất và
dưới sự chỉ đạo thống nhất của chủ nhiệm hợp tác xã. Từ năm 1977 đến
1980 với việc đưa quy mô hợp tác xã lên toàn xã, phần thì không thích
77
ứng với trình độ quản lý của cán bộ, phần thì không phù hợp với
nguyện vọng của xã viên, lại do ảnh hưởng của nạn tiêu cực (một số
cán bộ hay ăn mà chẳng hay làm, của cải của tập thể bị thâm hụt, đời
sống xã viên sút kém, v.v.). Xã viên chán nản sản xuất, nhiều xã viên rời
bỏ hợp tác xã (bà Ng.T.Đ, 68 tuổi, tổ 6).
Thông qua những câu chuyện phỏng vấn định tính cho thấy, trong trí
nhớ của lớp người trung niên và cao tuổi hiện nay ở làng Gia Trung thì hợp
tác xã ngoài việc trở thành động lực, tinh thần lao động của một thế hệ người
làng, còn là mô hình mà con người sống và làm việc theo hợp tác xã, tập
trung vào công việc quản lý hành chính, dùng mệnh lệnh hành chính để giải
quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của địa phương. Người nông dân làng ít
quan tâm đến kinh tế, đến sản xuất mà chỉ lo hoàn thành nhiệm vụ chính trị,
không có ý thức phát triển kinh tế hàng hóa,do vậy, không phát huy được
động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Bảng 3.4: Sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp ở Gia Trung
giai đoạn tập thể hóa nông nghiệp
Diện tích
Diện tích
Thu giảm diện
Năm Lý do suy giảm diện tích
thu giảm
quy đổi
tích ở xứ đồng
(mẫu Bắc Bộ)
(hecta)
Xây dựng hệ thống kênh
Đồng Đám Da
1963
40
14,4
mương (kênh Tây)
1965 Làm đường đi lại sau làng Đồng Hối
3,2
1,15
1965 Mở đường đi Do Nhân
2
0,72
Chính quyền lấy đất giao
Đồng Hối
5,8
2,09
cho làng Gia Thượng
Vườn Cầu
3,8
1,37
Giao cho làng Gia Tân
Đồng Bậm,
1977
5,8
2,09
Đồng Lân
Giao cho làng Chi Đông Đám Da,
50
18
Cầu Táo
Nguồn: Số liệu được tập hợp và thống kê dựa trên mô tả của Trần Văn Tuyên, 1985
78
Từ thập kỷ 1980, việc thực hiện một loạt chính sách đổi mới trong nông
nghiệp, kinh tế Gia Trung đã có nhiều thay đổi. Với chủ trương khoán sản
phẩm cho người lao động (1981), đặc biệt là chính sách khoán 10 (1988), hộ
gia đình trở lại là đơn vị sản xuất kinh doanh, theo đó Nhà nước giao lại đất
canh tác cho hộ và sẽ nhận lại một phần thành quả lao động, phần còn lại các
hộ gia đình được sử dụng và bán đổi ra thị trường. Điều này làm cho đời sống
người nông dân khá hơn trước, thóc lúa, hoa màu, lợn gà của các gia đình
không những nhiều nhất xã. Do có thóc, có tiền, nên việc kiến thiết và mua
sắm tăng, nhà ngói mọc lên thay thế hầu hết nhà tranh.
Đến đầu những năm 1990, với mục đích giảm xung đột trong nông
nghiệp, Luật Đất đai năm 1993 ra đời đã giải quyết được những vấn đề nêu
trên. Mô hình kinh tế hợp tác xã được thay thế bằng mô hình kinh tế hộ gia
đình. Hợp tác xã không còn giữ vai trò tổ chức và chỉ đạo sản xuất như trước
đây mà chuyển sang vai trò dịch vụ như cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu,
con giống cho nông dân, v.v. Theo quy định của Luật này, các hộ gia đình
được cấp quyền sử dụng với thời hạn là 20 năm và được giao 5 quyền sử dụng
đất bao gồm: Quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế và thế chấp.
Nguyên tắc quan trọng nhất trong việc giao đất là duy trì sự công bằng.
Những tiêu chuẩn khác cũng được xem xét khi giao đất là chính sách xã hội,
chất lượng đất, tình hình thuỷ lợi, khoảng cách đến thửa ruộng và khả năng
luân canh cây trồng. Do đó, để duy trì nguyên tắc công bằng mỗi hộ thường
được giao nhiều mảnh với nhiều hạng đất khác nhau, ở các cánh đồng khác
nhau với chất lượng đất khác nhau.
Trong đợt giao quyền sử dụng đất này, làng Gia Trung có 129 hecta đất
nông nghiệp, trong đó 95% quỹ đất được giao ổn định cho các hộ gia đình,
5% còn lại do xã quản lý. Phân chia ruộng đất được tính theo nguyên tắc bình
quân chủ nghĩa, “có tốt, có xấu, có gần, có xa” dựa trên nhân khẩu hoặc số lao
79
động của mỗi gia đình nhận ruộng. Trung bình, mỗi nhân khẩu được nhận 1
sào 6 thước20 (tương đương 504 m2), trong đó 10-15% hộ gia đình có diện
tích từ 1 đến 3 sào, từ 5 đến 8 sào chiếm khoảng 50% số hộ, khoảng 25%-
30% hộ được chia 9 sào đến trên 1 mẫu, số thửa ruộng bình quân của mỗi hộ
từ 5 đến 10 mảnh và có nhiều loại đất khác nhau: đất trồng lúa, đất trồng màu,
đất trồng rau, v.v. Cá biệt có hộ gia đình, thời điểm được chia ruộng với tổng diện tích 4.146 m2 nhưng có tới 18 mảnh phân bố ở 13 xứ đồng, mảnh rộng nhất chỉ 1,3 sào (495,9 m2), mảnh hẹp nhất 52 m2 (hơn 2 thước), tức là mức
bình quân ruộng đất tính theo hộ và nhân khẩu có xu hướng giảm xuống và
đạt mức thấp.
Bảng 3.5: Quy mô đất đai, số mảnh, xứ đồng của hộ gia đình chia đất năm 1993
Số mảnh Xứ đồng Hộ khảo sát Quy mô diện tích đất (m2)
N.T.N 16 11 4.680
N.T.L 11 8 2.976
P.T.H 12 11 3.240
N.V.L 18 13 4.146
T.T.L 11 12 1.800
P.T.T 8 11 2.160
N.V.N 24 10 5.992,3
N.T.L 17 11 3.360
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017
Trong khi chính sách chia nhỏ đất đai tỏ ra là một phương thức hiệu
quả để đảm bảo ruộng được phân chia bình đẳng cho các hộ gia đình và mang
lại một số lợi ích cho nông dân (giảm rủi ro về sản lượng và sử dụng lao động
mùa vụ, cho phép đa dạng hoá cây trồng), nhưng tình trạng này được coi là
80
một trong những rào cản của sản xuất nông nghiệp ở Gia Trung, vì nó ngăn 20 Ngoài quy đổi 1 sào ra mét vuông và mẫu, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ còn rất phổ biến cách đo diện tích đất bằng „thước‟, 1 sào = 15 thước, 1 thước = 24 m2.
cản việc sử dụng máy móc quy mô lớn và dẫn đến tốn kém các nguồn lực đất
đai để làm ranh giới và nguồn lực lao động để đi lại giữa các mảnh ruộng
khác nhau. Nếu manh mún đất đai làm cho lao động và các nguồn lực khác
phải chi phí nhiều hơn thì việc giảm mức độ manh mún đất đai sẽ tạo điều
kiện để các nguồn lực này được sử dụng ở các ngành khác hiệu quả hơn. Như
vậy, trên tổng thể nền kinh tế sẽ đạt được lợi ích khi giảm mức độ manh mún
đất đai. “Những giải thích về nguyên nhân của manh mún đất đai thường xuất
hiện do các yếu tố phi tự nguyện. Đó là kết quả từ các vấn đề như lịch sử, địa
hình, áp lực dân số hoặc nguyên nhân do thừa kế” [dẫn lại Phạm Văn Hùng và
cộng sự 2007, tr.72]. Điều này chỉ ra thực tế rằng: bình quân ruộng đất nông
nghiệp tính trên đầu người ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới và có xu
hướng giảm dần qua các năm, nhất là đối với các khu vực có đất đai màu mỡ
như khu vực đồng bằng sông Hồng. Để khắc phục tình trạng này, nhiều khu
vực, địa phương đã có những lựa chọn hướng đi khác nhau, trong đó có việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp và đô
thị như trường hợp làng Gia Trung.
Như vậy, cùng với những biến đổi về địa giới hành chính thì diện tích
đất đai và sinh kế gắn với sản xuất nông nghiệp của làng Gia Trung từ đầu thế
kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX cũng có sự bị biến động nhưng không làm mất đi
bản chất của các hoạt động của cộng đồng, đó là sinh kế gắn với sản xuất
nông nghiệp. Thay vào đó, sau khi giao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho
hộ gia đình thì mới là thời điểm triển khai các chương trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa và đó là những tác nhân làm biến đổi mạnh mẽ hoạt động sinh kế
của hộ gia đình ở Gia Trung.
3.2. Hoạt động sản xuất nông nghiệp từ 2000-2017
3.2.1. Nguồn lực sản xuất nông nghiệp
Tài nguyên đất và nước
Trước khi diễn ra thu hồi đất, làng Gia Trung có diện tích đất nông
81
nghiệp 129 hecta phân tán ở gần 30 xứ đồng thì nay chỉ còn 38 hecta (chủ yếu
là đất nông nghiệp hạng 3, 4, 5 và 6) nằm rải rác ở 5 xứ đồng21. Kết quả khảo
sát 46 hộ gia đình vẫn đang còn làm ruộng cho thấy, diện tích đất nông nghiệp
trung bình của hộ trước thu hồi đất khá lớn (từ 5-9 sào), hiện nay là 1-2 sào,
đã giảm đi 4,5 lần. Diện tích đất nông nghiệp còn lại của làng tiếp tục bị manh
mún, đồng thời bị xen ghép với nhiều không gian sản xuất khác (nhà máy, xí
nghiệp, khu đô thị, đường giao thông, đường ống dẫn nước thải, v.v.). Hệ quả
của sự manh mún và xen ghép ruộng đất không chỉ tác động đến việc cơ giới
hoá, tăng chi phí sản xuất, giảm diện tích sử dụng do ảnh hưởng của các bờ
ruộng (bờ vùng, bờ thửa) và tăng các tác động xấu ngoại vi mà còn là một
trong nguyên nhân chính ảnh hưởng đến chính sách phát triển nông nghiệp và
tình trạng bỏ ruộng ở địa phương này. Sự suy giảm mạnh mẽ của nguồn vốn
tự nhiên (đất đai) đã buộc hộ gia đình nông dân phải thay đổi chiến lược sinh
kế của mình. Một bức tranh nhiều màu sắc mô tả các chiến lược này, “làm gì
và làm ở đâu là vấn đề mà các hộ gia đình nông dân đã lựa chọn dựa trên
chính điều kiện kinh tế xã hội (các nguồn tài sản) của họ” [Lê Thái Thị Băng
Tâm 2011, tr.49,57].
Bảng 3.6: Sự thay đổi quy mô ruộng đất của hộ gia đình bị thu hồi đất
Trƣớc khi thu hồi đất (2000) Sau khi thu hồi đất (2017)
Hộ Hộ Tỷ lệ Tỷ lệ Tình trạng sở hữu ruộng đất (m2) gia gia Tình trạng sở hữu ruộng đất (m2) (%) (%) đình đình
Không còn ruộng 7 15,2
≤ 360 (≤ 1 sào) 0 ≤ 360 (≤ 1 sào) 0 9 19,6
21 Ở 5 xứ đồng này, đồng Cây Trâm và đồng Găng thuộc phần diện tích canh tác của tổ dân phố số 7; đồng Đám Da (thuộc tổ 6), nằm tiếp giáp với cánh đồng của thôn Ấp Tre và xã Đông Đồ, hiện vẫn còn nước tưới; đồng Trước và khu Rau Xanh thuộc chung của cả 2 tổ dân phố. Riêng khu “Rau Xanh” vốn được quy hoạch là khu trồng rau màu nhưng vài năm trở lại đây được người tự phát trồng nhiều loại cây trồng khác nhau, ngoài trồng rau màu theo mùa thì một số thửa ruộng trồng lúa nằm xen kẽ với vườn cây ăn quả, cây dừa cảnh và các thửa ruộng bỏ hoang, v.v.
82
360-1.080 (1-3 sào) 6,5 360-1.080 (1-3 sào) 3 24 52,2
1.080-1.800 (3-5 sào) 8,7 1.080-1.800 (3-5 sào) 4 8,7 4
1.800-2.520 (5-7 sào) 10,9 1.800-2.520 (5-7 sào) 2 4,3 5
2.520-3.240 (7-9 sào) 43,5 2.520-3.240 (7-9 sào) 0 0 20
≥ 3.600 (≥ 1 mẫu) 30,4 ≥ 3.600 (≥ 1 mẫu) 0 0 14
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017
Tổng số hộ 100 46 100 46
Trước khi bị thu hồi đất, 70% diện tích đất nông nghiệp của làng do hệ
thống kênh Đại Nộ cung cấp nước, 30% diện tích phải bơm hoặc chờ nước tự
nhiên thì nay hệ thống kênh mương đã bị san lấp hoặc bị ngăn cách toàn bộ,
nông dân muốn canh tác được phải tự be bờ lấy nước ở những thửa ruộng gần
nguồn nước hoặc trông chờ nước tự nhiên.
Trưa tháng 7 khô hạn, giữa xứ đồng cây Trâm, bà T.T.V xách từng xô
nước lấy từ hố nước đọng cách xa 50 m để tưới từng gốc rau mồng tơi,
rau bí và một số luống lạc. Ở một góc khác, ông Đ.B (tổ 7) đang lúi húi
đặt máy bơm chạy bằng dầu để dẫn nước tưới mảnh ruộng đã khô cạn.
“Việc xây dựng khu công nghiệp làm cho hệ thống kênh mương của
làng bị san lấp, việc bơm nước tưới tiêu cho diện tích đất còn lại rất
khó khăn. Để cấy lúa được ở những thửa ruộng này, tôi phải mua sắm
một cái máy bơm tay, việc làm này đã diễn ra 7 năm nay rồi”. Trên
cánh đồng, cách vài mảnh ruộng lại có một máy bơm thủ công như vậy,
người nông dân phải tự hút nước, tự tưới nước cho mảnh ruộng của
mình. Cách đó vài chục mét là trạm bơm bỏ hoang, các ống nước đều
hoen gỉ. Xung quanh trạm bơm, cây dại mọc chằng chịt. Cơ ngơi tồi
tàn ấy từng là công trình phục vụ nước tưới cho gần 100 ha đất trồng
lúa trước đây của làng Gia Trung, làng Đồng (xã Quang Minh) và làng
83
Thụy Hà (huyện Đông Anh) (Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017).
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017; Bản vẽ: Đoàn Văn Luân
Hình 3.2: Sơ đồ hóa hệ thống kênh mương bị san lấp
Rõ ràng, nguồn vốn tự nhiên (đất đai, nước) được sử dụng cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp ở Gia Trung hiện nay đã bị suy giảm nghiêm trọng
và chịu tác động rõ nhất từ bối cảnh thu hồi đất nông nghiệp tại địa phương.
Lao động nông nghiệp
Nông dân là một trong những chủ thể kinh tế, lấy sản xuất nông nghiệp
làm nguồn sống chính và sinh sống chủ yếu ở nông thôn. Trong quá trình thị
trường hóa, phương thức sản xuất tiểu nông dần chuyển thành nông nghiệp
thương phẩm và nông nghiệp trở thành một lĩnh vực kinh doanh. Đây là sự
thay đổi căn bản phương thức sản xuất tiểu nông và xác lập phương thức sản
xuất thị trường - công nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Quá trình này tạo ra
sự quá độ với nhiều cung bậc khác nhau trong cấu trúc kinh tế của hộ nông
dân: hộ thuần nông, hộ kinh doanh tổng hợp và hộ chuyên kinh doanh các
84
lĩnh vực đặc thù nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, v.v. Ngay trong một
hộ gia đình nông thôn, cũng gồm nhiều người hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau: dịch vụ, làm thuê, công nhân, giáo viên v.v. Điều này dẫn tới kinh
tế của các hộ nông dân có sự thay đổi và sự đa dạng về cơ cấu kinh tế, về
nghề nghiệp [Lê Cao Đoàn 2016, tr.297]. Nhận định này phù hợp với thực tế
đang diễn ra trong trường hợp làng Gia Trung, khi cơ cấu nghề nghiệp có xu
hướng giảm dần số lao động làm nông nghiệp. Do tác động của thu hồi đất,
nhiều hộ gia đình chỉ sau một đêm đã từ hộ thuần nông buộc phải chuyển
sang hộ phi nông nghiệp, tuy nhiên, có nhiều gia đình, quá trình chuyển đổi
diễn ra qua nhiều năm và phụ thuộc vào độ tuổi, nhu cầu an ninh lương thực
và chi phí /điều kiện sản xuất của hộ.
Hiện nay, tính trên quy mô hộ gia đình, rất khó để thống kê được chính
xác có bao nhiêu hộ còn sản xuất nông nghiệp, bởi các hộ đều gắn với nông
nghiệp ở những mức độ khác nhau và không ổn định, trong đó vốn con người
là một nhân tố về số lượng và chất lượng lao động có sẵn thì đang ngày càng
chuyển đổi sang xu hướng phi nông nghiệp. Số lượng lao động nông nghiệp
giảm mạnh, nếu như năm 2001 là 1.800 người thì sau một thập kỷ giảm
xuống còn 695 người, hiện nay (năm 2016) là 169 người và 90% trong số họ
ở độ tuổi từ 40-75 (nghĩa là những người sinh trong khoảng từ năm 1940 đến 1970)22. Điều này có nghĩa lực lượng lao động nông nghiệp còn lại ở làng Gia
Trung là những người ngày càng già đi, họ là lớp lao động trung và lớn tuổi
trong cơ cấu thành phần lao động, những người không còn hoặc khó xin được
việc làm trong khu công nghiệp và các công việc dịch vụ khác. Ở đây, vấn đề
việc làm cho lao động nữ trung tuổi sau thu hồi đất rất được người dân quan
tâm cũng như là chủ đề nghiên cứu, thảo luận của giới khoa học và nhà hoạch
định chính sách với những trăn trở về tương lai của nhóm đối tượng này.
Hành trình chuyển đổi và thích nghi với hoạt động sinh kế mới của những
85
người phụ nữ trung tuổi trải qua nhiều thăng trầm, những người có khả năng 22 Thống kê số lượng lao động tính đến ngày 20/5/2016.
chuyển đổi thường tìm những công việc phi nông nghiệp trong khu công
nghiệp như: công nhân vệ sinh, tạp vụ, v.v; còn một bộ phận lớn không có
khả năng chuyển đổi thì vẫn loay hoay gắn với sản xuất nông nghiệp như một
thói quen không dễ từ bỏ.
“Bao đời nay gia đình cô sống nhờ vào đất, vào nông nghiệp. Hiện nay
tuy bị thu hồi đất, nhưng rất nhiều diện tích vẫn bỏ hoang. Gia đình
không muốn sản xuất nông nghiệp nữa nhưng cô vẫn tranh thủ canh
tác 3 sào ruộng, vừa trồng rau, vừa trồng lúa. Cô cảm thấy luyến tiếc
với nghề nông, làm ruộng như một cách cô duy trì thói quen gần đời
người của mình, cũng là cách để nhớ về tổ tiên của mình, những người
đã sống, khai hoang để có những cánh đồng như hiện nay. Bỏ ruộng
tiếc lắm” (T.T.V, 71 tuổi, tổ 7).
Bảng 3.7: Lao động phân theo chiến lược sinh kế chính ở Gia Trung
Tổ dân phố số 6 Tổ dân phố số 7
Stt Các chỉ tiêu Năm Năm Năm Năm
2011 2016 2011 2016
412 428 351 368 1. Số hộ
Nhân khẩu 1.562 1.736 1.205 1.368 Trong đó
1. Lĩnh vực nông nghiệp 380 67 290 102 2.
2. Lĩnh vực công nghiệp 310 610 232 494
Nguồn: Số liệu được tổng hợp từ báo cáo biến động dân số thị trấn Quang Minh và
tài liệu điền dã của tác giả năm 2011 và 2017
3. Lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ 30 181 91 123
Tuy nhiên, những con số thống kê lực lượng lao động nông nghiệp ở
Gia Trung không phản ánh đầy đủ các động thái biến đổi của nhóm lao động
này, bởi đây là con số thống kê dựa trên quy mô hộ gia đình còn đất nông
86
nghiệp, đồng nghĩa với việc còn đất nông nghiệp nghĩa là họ vẫn là nông dân.
Có thực tế xảy ra là, trong gần một thập kỷ trở lại đây, ở Gia Trung có nhiều
người vẫn tự gọi mình là nông dân nhưng họ lại không còn làm nông nghiệp
hoặc gia đình không còn đất nông nghiệp, họ là những bà nội trợ, chủ nhà cho
thuê trọ, người buôn bán nhỏ hoặc công nhân, v.v.
Chính sách phát triển nông nghiệp
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa trên địa bàn làng Gia Trung đã
làm thu hẹp và biến mất nguồn sinh kế nông nghiệp truyền thống, buộc người
nông dân phải chuyển đổi từ môi trường sống tiểu nông sang môi trường đô
thị (ở thị trấn Quang Minh) và sang các hình thức sinh kế mới. Thành thị hóa,
ở khía cạnh cấu trúc dân cư, được quyết định bởi dân cư nông thôn chuyển
thành dân cư thành thị và tập trung vào thị trấn. Đây là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thị trấn Quang
Minh. Trên phương diện sinh kế, các chính sách phát triển được thừa nhận
trong việc thúc đẩy bền vững sinh kế một cách hiệu quả. Chúng cùng ảnh
hưởng đến lựa chọn sinh kế của người dân. Tuy nhiên, trong sản xuất nông
nghiệp hiện nay, chính sách dành cho phát triển nông nghiệp đã và đang chịu
tác động rõ rệt từ hai phía, nguồn lực sinh kế và bối cảnh phát triển kinh tế
của các cấp chính quyền địa phương. Chính quyền vẫn quản lý diện tích đất
nông nghiệp còn lại nhưng việc sản xuất trên những diện tích đó: sản xuất như
thế nào, lúc nào, trồng cây gì, ai làm thì chính quyền không nắm được và
không quản lý. Hoạt động sản xuất nông nghiệp được thực hiện một cách cầm
chừng, không có sự giám sát và quản lý của chính quyền địa phương, với các
mối quan hệ không rõ ràng trong việc phân cấp và trách nhiệm giải trình.
Nếu như chính quyền địa phương là nơi quản lý và giám sát việc thực
hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội thì hợp tác xã được coi là nơi
quản lý và nắm bắt trực tiếp hoạt động sản xuất nông nghiệp của làng Gia
Trung, nay là của 2 tổ dân phố. Hiện nay hợp tác xã đã chuyển đổi công năng
87
từ hợp tác xã nông nghiệp thành hợp tác xã dịch vụ, ngoài đảm bảo các dịch
vụ thủy nông cần thiết như: nông lịch, thóc giống, còn kiêm các hoạt động
dịch vụ khác: cho thuê bến bãi, đất đai. Hợp tác xã không còn phát huy được
vai trò là cầu nối, tạo môi trường cho sự hợp tác của những người nông dân
trên cơ sở huy động được sự tham gia của người dân nhằm theo đuổi một mục
đích chung trong sản xuất nông nghiệp.
3.2.2. Hoạt động sản xuất nông nghiệp
Hiện trạng sản xuất
Từ việc lấy đất đai là nguồn cung cấp sinh kế và những hình thức canh
tác đa dạng cho cộng đồng làng sống dựa vào nông nghiệp, thì nay sự thay đổi
bối cảnh kinh tế của địa phương đã dẫn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp ở
Gia Trung bị thiếu hụt các nguồn lực sản xuất. Những người còn làm ruộng
và tiến hành sản xuất nông nghiệp nhằm cung cấp lương thực cho gia đình mà
không phải đem lại thu nhập, song mục tiêu này cũng không đảm bảo trong
bối cảnh các nguồn lực cần thiết nhất dành cho sản xuất nông nghiệp không
còn và không được đảm bảo, dẫn đến tình trạng bỏ ruộng ở một bộ phận nông
dân còn đất. Bảng 3.8 cung cấp nhiều thông tin về hiện trạng sản xuất nông
nghiệp ở làng Gia Trung từ năm 2011 đến 2017, trong đó hiện tượng bỏ ruộng
của người dân không phải diễn ra ngay từ khi thu hồi đất (những năm đầu thế
kỷ XXI), mà là một quá trình diễn tiến theo từng năm, nguyên nhân từ những
hạn chế, thiếu hụt của nguồn lực sản xuất đến nhận thức duy lý của người dân
và lực hút từ hoạt động phi nông nghiệp.
Tình trạng nông dân bỏ ruộng hiện nay đã và đang trở thành vấn đề xã
hội được quan tâm khi diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương, đã được các
ngành chức năng quan tâm nghiên cứu và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản
như: i/ Giá lúa, rau màu thấp trong khi đầu vào như vật tư phân bón, dịch vụ
bảo vệ thực vật, công chăm sóc ngày càng tăng cao, dẫn tới thu chẳng đủ chi;
ii/ Tình trạng ruộng đất manh mún, sản xuất đơn lẻ cũng là yếu tố làm tăng
88
chi phí do khó có thể áp dụng các thiết bị cơ giới hóa; và iii/ Do phát triển đô
thị. Sự hình thành các khu công nghiệp hút hết lao động thanh niên đến làm
việc. Nông dân bỏ ruộng là một “cảnh báo về việc môi trường kinh doanh từ
lâu được Chính phủ khuyến khích phát triển nhưng hầu như chỉ mới đến được
khu vực đô thị và các thành phố lớn, khi không chú trọng đến khu vực nông
nghiệp, nông thôn. Trong khi, khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn phải liên
tục “hy sinh” để phục vụ cho công nghiệp hóa và đô thị hóa, công nghiệp vẫn
chưa phát triển để hỗ trợ nông nghiệp” [Trần Thị Minh Ngọc 2010, tr.150].
Hệ quả nông dân bỏ ruộng dưới cái nhìn của chuyên gia không chỉ ảnh hưởng
đến sự ổn định trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đời sống xã hội mà còn
khiến đất đai màu mỡ bị hoang hóa trong khi nhu cầu lương thực vẫn có xu
hướng tăng do sức ép của gia tăng dân số.
Bảng 3.8: So sánh hiện trạng làm nông nghiệp của hộ gia đình năm 2011 và 201723
Sản xuất nông nghiệp năm 2011
Sản xuất nông nghiệp năm 2017
Diện
Diện
Chỉ tiêu
Hiện trạng
Hiện trạng
hộ
tích
tích
canh tác
canh tác
- Cấy 2 sào ruộng của gia
- Ngoài 2 sào ruộng của gia
đình và mượn thêm 1 sào
đình, còn mượn thêm gần 1
3 sào
của người làng
Hơn 1
mẫu ruộng của họ hàng và
- Cấy lúa lấy thóc ăn liên
mẫu
người làng để canh tác.
tục từ sau khi hoàn thành
- Một số diện tích gần
quá trình thu hồi đất đến
nguồn nước để cấy lúa, còn
N.Q.L
(tổ 7)
nay
lại trồng: Ngô, lạc, đậu và
- Hai vợ chồng tranh thủ
một số rau màu theo mùa.
làm ruộng
- Ngoài 2 vợ chồng làm
ruộng, còn có sự hỗ trợ của
2 người con gái và vợ chồng
người con trai.
23 Đây là những hộ gia đình được tôi tiến hành phỏng vấn sâu có chủ đích với mục tiêu tìm hiểu tình hình biến động trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của các hộ vào năm 2011 và 2017.
89
- Sản phẩm nông nghiệp
ngoài cung ứng cho gia đình
(gồm các con đã lập gia
đình), thì còn bán cho người
làng và cung ứng một phần
cho cửa hàng ăn uống.
- Cấy liên tục từ khi mất
- Không còn canh tác nữa
hết ruộng cho KCN đến
Hơn
2
do cao tuổi.
Hơn
2
nay. Lấy thóc ăn 1 phần
sào
- Ruộng nhà cho người làng
sào
còn phần lớn để chăn
ruộng
mượn canh tác
ruộng
nuôi
T.T.H, 67
- Việc cấy hái, thu hoạch
tuổi, tổ 7
lúa do mình bác H làm.
Việc phơi hoặc chuyển
thóc thường nhờ công
nhân ở trọ của gia đình
giúp.
- Ruộng của gia đình bỏ
Không còn làm ruộng nữa
1,5 sào
hoang, nhưng mượn 2
1,5 sào
do cao tuổi và nước tưới
sào ruộng của người làng
không có và chuột bọ phá.
T.T.T
để cấy thóc ăn.
Ruộng cho họ hàng mượn
(tổ 7)
- 1 mình
làm ruộng.
trồng rau màu.
Ngày mùa thu hoạch thì
có trợ giúp của chồng và
vợ chồng con trai
- Gia đình không còn
ruộng nhưng vẫn canh
Hiện vẫn canh tác 2 sào
P.T.Y, 40
tác 3 sào ruộng nhà mẹ
ruộng với mục đích duy trì
tuổi, tổ 7
đẻ và tận dụng ruộng bị
nguồn lương thực cho gia
bỏ hoang của các hộ gia
đình
đình
trong
làng. Thóc
90
được dùng để ăn và bán
cho người làng.
- Trồng rau màu theo
mùa, bán ở chợ làng.
- Vẫn còn 4 sào ruộng,
4 sào
phân tán thành 5 mảnh và
Đã bỏ làm ruộng từ năm
N.T.L, 38
bị xen ghép. Do vậy, từ
2014, hiện bán rau ở chợ
tuổi, tổ 7
năm 2010 gia đình đã
cóc của làng. Diện tích đất
dồn ghép với một số hộ
còn lại cho một số hộ mượn
để canh tác tập trung ở
canh tác.
một khu.
- Bỏ hoang 1 phần diện
2 sào
- Một phần diện tích vẫn bỏ
2 sào
tích và 1 mảnh cho người
hoang. Năm 2016, gia đình
N.V.D,
làng mượn canh tác.
đã lấy lại mảnh ruộng cho
tổ 6
người làng mượn trước đó
để trồng cây ăn quả.
Gia đình canh tác gần 3
1 sào Không còn làm ruộng từ
N.V.G,
1 sào
sào, đủ để cung cấp
năm 2013
tổ 6
lương thực cho gia đình.
Diện tích của gia đình thì
2 sào
- Không còn làm ruộng từ
2 sào
bỏ hoang. Mượn đất của
năm 2012
N.V.N,
hộ khác để cấy lúa và
- 1 phần diện tích bỏ hoang;
tổ 6
trồng hoa màu.
1 phần cho mượn làm trang
trại.
- Diện tích của nhà bỏ
- Từ năm 2013, gia đình
Gần 2
hoang do chân ruộng cao,
mượn thêm đất của 8 hộ
sào
không có nước tưới;
khác
trong
làng để
làm
T.T.V, tổ 7
- Mượn đất để cấy lúa và
trang trại: trồng cây ăn quả,
trồng hoa màu
chăn nuôi gà, lợn và rau
màu, v.v.
91
- Sản phẩm trang trại được
cung ứng cho một số nhà
hàng tại địa phương, hoặc
bán cho người dân làng.
- Cả gia đình đều tham gia
làm trang trại.
N.T.T, 68
2 sào 12
Canh tác ở đồng Trước
- Không còn sản xuất nông
tuổi, tổ 7
thước
và đồng Găng, cấy lúa và
nghiệp nữa. Một phần diện
tích đất bỏ hoang, một số
rau màu.
khoảnh được các hộ mượn
canh tác, nhưng không biết
người mượn là ai!
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2011, 2017
Một xu hướng ngược lại là vẫn có một số nông dân gắn với nghề nông
và sản xuất nông nghiệp, họ đã tận dụng đất đai bỏ hoang theo nhiều cách
(mượn đất của người làng, họ hàng) để mở rộng diện tích canh tác với phương
châm “đằng nào cũng mất công làm ruộng” và trở thành những người “cấy
hộ”. Trong khi việc mở rộng và tích tụ ruộng đất ở nhiều địa phương khác gắn
với tăng cường máy móc, cơ giới hóa trong sản xuất thì ở Gia Trung, người
nông dân hoàn toàn thủ công trong canh tác. Sự mở rộng diện tích canh tác
của họ chỉ là tận dụng đất đai bỏ hoang để linh hoạt trong chuyển đổi cây
trồng theo hình thức đa dạng hóa, “vì giờ làm ruộng hoàn toàn tự phát, nông
dân không phải đóng bất cứ một khoản nào trong khi ruộng bỏ hoang thì lãng
phí” (T.T.V, 71 tuổi, tổ 7).
Một số nghiên cứu trường hợp cũng phân tích hiện tượng tương tự.
Nghiên cứu tại một làng ven đô thị trấn Trâu Quỳ (Gia Lâm, Hà Nội) chỉ rõ:
“Nếu đem so sánh với các ngành nghề khác, thu nhập bằng tiền từ sản xuất
nông nghiệp đối với hộ giảm đi một cách tương đối, nhưng sản xuất nông
92
nghiệp vẫn có những vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và
an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn tạo việc làm cho lao động
nông thôn, đặc biệt là những người không có điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp
như không có vốn, trình độ chuyên môn và tay nghề thấp, người đã quá tuổi
tuyển dụng vào các nhà máy công nghiệp và phụ nữ. Hơn nữa, đất nông nghiệp
được các hộ coi như một loại tài sản bảo đảm cho cuộc sống lâu dài nên việc
giữ đất nông nghiệp để được đền bù sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất,
hoặc giữ đất kế thừa lại cho con cháu được các hộ khá coi trọng. Ngoài những
đóng góp về kinh tế, nông nghiệp còn giúp bảo đảm an ninh sinh kế trong điều
kiện các chiến lược phi nông nghiệp gặp phải rủi ro do biến động thị trường
hoặc suy thoái kinh tế. Về khía cạnh văn hóa, nông nghiệp còn giúp giữ gìn các
mối quan hệ cộng đồng truyền thống đồng thời rèn luyện cho con người đức
tính cần cù chịu khó” [Nguyễn Phượng Lê, Lê Văn Tân 2013, tr.106].
Tương tự, nghiên cứu tại làng La Cả (Dương Nội, Hà Đông) cũng chỉ
ra: “Do mô hình đô thị hóa bằng sáp nhập hành chính không tạo được nhiều
việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại - dịch vụ hoặc những việc
làm không phù hợp với nhu cầu, mong muốn của người dân, người dân địa
phương phải tự tìm cách chuyển đổi phương thức mưu sinh của họ tùy điều
kiện cụ thể của địa phương, v.v. Với truyền thống cần cù lao động, kinh
nghiệm trồng hoa màu, trồng đào sẵn có cùng với một diện tích đất canh tác
đáng kể của các làng xung quanh chưa bị thu hồi là nguyên nhân chính khiến
nhiều người dân tìm cách quay trở lại và thậm chí tăng cường sản xuất nông
nghiệp” [Nguyễn Thị Thanh Bình 2014, tr.25].
Rõ ràng, việc mở rộng sản xuất nông nghiệp của người dân ở những
trường hợp này có nhiều nguyên do, cụ thể nhất là vì tạo việc làm, duy trì
quyền tài sản với đất, an toàn lương thực, rộng hơn còn vì duy trì những giá
trị văn hóa của người làm nông, của không gian xã hội truyền thống và đồng
thời để đảm bảo những bất ổn kinh tế từ môi trường sản xuất mới. Một loạt
93
giá trị có ý nghĩa từ quá khứ, đến hiện tại và tương lai được đưa ra để giải
thích hiện tượng quay lại và gia tăng sản xuất nông nghiệp ở một số làng ven
đô bị tác động bởi thu hồi đất. Quay trở lại trường hợp làng Gia Trung, lý do
nào giải thích việc người dân vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp trong điều kiện
công nghiệp hóa, đô thị hóa đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh và cơ hội tìm
kiếm việc làm cũng như thu nhập từ lĩnh vực phi nông nghiệp khá dễ dàng?
Vấn đề quyền tài sản đối với đất
Như đã đề cập ở trên, bên cạnh bộ phận nông dân bỏ ruộng thì vẫn còn
một số nông dân ở làng Gia Trung vẫn tiếp tục làm ruộng và gắn với đồng
ruộng dưới nhiều hình thức. Kết quả từ những cuộc phỏng vấn sâu và quan sát
thực tế của tôi cho thấy quyền tài sản đối với đất là lý do khiến cho các hộ dân
duy trì hoạt động sinh kế này. Trong đó, việc duy trì quyền tài sản với đất của
người nông dân có những riêng biệt và trong trạng thái mâu thuẫn, đó là tình
trạng đất đai manh mún, xen kẹt, sự suy giảm của phương thức mưu sinh và
giá trị thương mại mà mảnh đất đó mang lại trong bối cảnh công nghiệp hóa,
đô thị hóa. Điều này thể hiện rõ qua hai xu hướng.
Thứ nhất, ngay cả khi không muốn thì một số hộ gia đình vẫn tiếp tục sản
xuất nông nghiệp nhằm giữ đất, chờ đợi cơ hội chuyển đổi. Điều này ngụ ý rằng,
quyền sử dụng đất vẫn được người dân gìn giữ và bảo lưu nhưng giá trị mảnh đất
nông nghiệp không giống như trước. Bởi quyền sử dụng đất được duy trì nhằm
mục đích thương mại (thu hồi cho dự án hay bán đất cho doanh nghiệp tư nhân
nhằm thu khoản tiền bồi thường lớn), nhiều người coi những diện tích đất còn lại
như một “tài sản để dành” đổi lấy nguồn bảo đảm sinh kế cho gia đình.
“Hiện gia đình chú còn 3 sào ruộng phân tán thành 4 mảnh, 1 mảnh
nhỏ hẹp, 1 mảnh không có nước tưới và 2 mảnh thì bị xen ghép nằm
giáp với khu công nghiệp. Điều kiện đất đai như thế làm sao canh tác
và cho năng suất được, nhưng gia đình vẫn cố gắng cấy 2 mảnh, ruộng
nhà mình thì phải canh tác thôi, đó là cách an toàn nhất để giữ đất”
94
(P.V.L, 63 tuổi).
Thứ hai, vì số hộ làm nông rất ít trong khi hoạt động sinh kế này gần
như không mang lại nguồn thu nhập nên ở Gia Trung phổ biến hiện tượng
người dân vẫn giữ đất nhưng không trực tiếp sản xuất trên mảnh đất ấy. Tức
là, dù mặc định là nông dân nhưng họ đã không còn làm nông nghiệp nữa, mà
cho người khác (anh em họ hàng, người làng) mượn đất để canh tác. Một sự
tự nguyện, tin tưởng trên tinh thần cùng duy trì quyền lợi với đất mà các cá
nhân, hộ gia đình trong cộng đồng làng liên kết để sử sụng hiệu quả nhất
nguồn lực đất đai hiện có.
Đây là hiện tượng được nhấn mạnh trong các nghiên cứu ở những cộng
đồng khác. Ở đó, sự mở rộng quyền tài sản này “thể hiện ở sự tái sinh các
quan niệm pháp lý về quyền tài sản vốn đã biến mất thành một loại hàng hóa
giá trị có thể mua bán, chuyển nhượng trong môi trường bất động sản phát
triển” [Erik Harms 2016, tr.16-17]. Tình trạng này cho thấy “một vấn đề quan
trọng về định danh, tức là các tác động tiềm năng của các đặc tính không quan
sát được của mảnh đất có ảnh hưởng đến quyền tài sản” [Finn Tarp 2016,
tr.128]. Tương tự, người dân vẫn duy trì quyền tài sản nhưng không sản xuất
nông nghiệp cũng được quan sát qua trường hợp một làng ở tỉnh Thái Bình.
“Thay vì tiếp tục canh tác trên những mảnh ruộng này, khoảng hơn 100 hộ gia
đình ở làng Xuân đã đem ruộng cho một số hộ gia đình khác thuê lại. Các hộ
gia đình này được gọi chung là những người cấy hộ. Việc cho thuê thường
được tiến hành theo thỏa thuận miệng, và thời gian thuê thường là theo từng
vụ hoặc từng năm, sau đó gia đình có ruộng có thể tùy ý quyết định cho thuê
tiếp hay lại lấy về cày cấy. Theo hình thức này, gia đình có ruộng sẽ cho phép
người cấy hộ toàn quyền canh tác thửa ruộng của gia đình. Đổi lại, người cấy
hộ sẽ trả cho hộ một phần thu hoạch, có thể là khoảng nửa tạ thóc trên mỗi
sào đất được thuê” [Lâm Minh Châu 2016, tr.86-87].
Như vậy, những hành động có chủ đích của các hộ gia đình trong việc
95
duy trì nguồn lực đất đai của một cá nhân hay hộ đã tạo ra hình thức sản xuất
nông nghiệp không chỉ đơn giản là thu nhập mà còn vì mục đích giữ đất, giữ
quyền tài sản của họ đối với đất nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp vì an ninh lương thực
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc, an ninh
lương thực là trạng thái mà tất cả mọi người, tại mọi thời điểm, đều có sự tiếp
cận về mặt vật chất và kinh tế với nguồn lương thực đầy đủ, an toàn và đủ
dinh dưỡng, đáp ứng chế độ ăn uống và thị hiếu lương thực của mình, đảm
bảo một cuộc sống năng động và khỏe mạnh. Định nghĩa này đưa ra 4 khía
cạnh của vấn đề an ninh lương thực: i/ Tính sẵn có; ii/ Khả năng tiếp cận; iii/
Độ thỏa dụng; và iv/ Tính ổn định [FAO 2007]. Những tiêu chí này được dựa
trên quan điểm về sự bền vững của sinh kế trên 4 phương diện về: kinh tế, xã
hội, môi trường và thể chế mà Scoones [1998] và DFID [2001] đã chỉ ra. Điều
này ám chỉ vấn đề an ninh lương thực chỉ thực sự được bảo đảm khi nền sản
xuất nông nghiệp đó đáp ứng đầy đủ các yếu tố như: tài nguyên đất, hệ thống
thủy lợi, chính sách quản lý và mối quan hệ chặt chẽ giữa “3 nhà”24. Sự thiếu
hụt bất cứ yếu tố nào cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và bảo đảm an
ninh lương thực. Như đã chỉ ra, hiện trạng sản xuất nông nghiệp hiện nay ở
làng Gia Trung thấy rõ phương thức sinh kế này đã và đang đối mặt với sự
thiếu hụt các nguồn lực. Tuy nhiên, người dân vẫn cố gắng duy trì phương
thức sinh kế này ở trạng thái mâu thuẫn và tự phát, họ tự quyết định cách thức
sản xuất và sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp dựa trên các nguồn lực sẵn có
để đạt được mục tiêu sinh kế mong muốn là nguồn cung lương thực an toàn
cho gia đình.
Sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp nghĩa là có thể chuyển đổi việc sử
dụng đất vào nhiều mục đích sản xuất khác nhau phù hợp với điều kiện và cơ
24 Nhà nông - Nhà nước - Nhà khoa học.
96
hội sản xuất khác nhau [Marsh và cộng sự 2007, tr.233], đòi hỏi người nông
dân Gia Trung phải thay đổi cách bố trí sử dụng đất sao cho phù hợp trước sự
thay đổi của điều kiện sản xuất cũng như thời cơ sản xuất. Một tỷ lệ lớn các
nông hộ được điều tra cho rằng có sự thay đổi lớn trong sử dụng đất trong
vòng 5 năm qua và sự đa dạng hoá hoạt động sản xuất có quan hệ thuận với
số mảnh ruộng còn lại của gia đình. Những công thức luân canh cây trồng đã
có sự thay đổi đáng kể. Lúa không còn là cây trồng được coi trọng như trước,
mà ưu tiên trồng các loại rau màu theo mùa. Đây là hướng phát triển nông
nghiệp mới ở Việt Nam hiện nay.
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017; Bản vẽ: Đoàn Văn Luân
97
Hình 3.3: Sơ đồ hóa sự linh hoạt trong canh tác nông nghiệp năm 2017
“Do những báo động về tình trạng thực phẩm không an toàn mà bản
thân tôi gần như đã mất lòng tin với những loại rau, củ, quả mua ở
chợ. Vì thế, suốt từ thời điểm thu hồi đất đến nay, tôi luôn cấy 3 sào lúa
/năm và trồng thêm các loại rau màu đủ dùng quanh năm cho 6 người
trong gia đình. Khi trồng rau màu, tôi không bao giờ sử dụng phân bón
hoặc thuốc trừ sâu để tránh ngộ độc” (N.T.L, tổ 6).
Có thể nói, những phân tích ở trên phản ánh một ý tưởng là việc sử
dụng linh hoạt diện tích đất nông nghiệp còn lại của các hộ gia đình ở Gia
Trung trong điều kiện hạn hẹp về nguồn lực sản xuất và thị trường tiềm ẩn
những rủi ro về lương thực, thực phẩm.
Tiểu kết chƣơng 3
Chương 3 cho thấy một số vấn đề liên quan đến nguồn lực sinh kế gắn
với sản xuất nông nghiệp ở làng Gia Trung. Trong sinh kế truyền thống, sản
xuất nông nghiệp với trồng trọt và chăn nuôi là nguồn sống chính và đảm bảo
cuộc sống ổn định. Tuy nhiên, sự thay đổi quy mô ruộng đất của làng từ giai
đoạn tập thể hóa đến các chương trình cải cách ruộng đất trong thập kỷ 80 và
90 của thế kỷ XX đã tác động không nhỏ đến mức độ manh mún và phân tán
ruộng đất của dân làng. Sinh kế và nền nông nghiệp truyền thống vẫn duy trì
và phát triển ở cộng đồng làng cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI.
Dưới tác động của chính sách công nghiệp hóa, đô thị hóa, hoạt động
sinh kế nông nghiệp của người dân ở làng Gia Trung vẫn được duy trì ở một
mức độ nhất định. Tuy nhiên, việc duy trì hoạt động sinh kế trong trạng thái
không bền vững, khi nguồn vốn tự nhiên là đất đai bị manh mún và xen kẹt,
nguồn nước bị ô nhiễm và hệ thống thủy lợi đã bị san lấp, trong khi thể chế
của địa phương không còn chính sách cho phát triển của nông nghiệp. Thêm
vào đó, nguồn lực con người dành cho sản xuất nông nghiệp cũng hạn chế.
98
Sinh kế nông nghiệp vẫn được duy trì ở một số hộ gia đình nhưng không
mang lại nguồn vốn tài chính thường xuyên để cải thiện thu nhập và nâng cao
mức sống mà chỉ được người dân coi là hoạt động bổ trợ cho cuộc sống của
họ. Một luận điểm quan trọng ở đây là vấn đề quyền tài sản gắn với đất nông
nghiệp. Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản trong sản xuất nông nghiệp nhưng
trong bối cảnh hiện nay, các hộ gia đình ở Gia Trung đang có những mảnh
ruộng nhỏ bé, manh mún không thuận lợi cho sản xuất hàng hóa, song các hộ
gia đình vẫn muốn giữ đất nông nghiệp như một tài sản và công cụ “bảo
hiểm” cho cuộc sống của họ.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Gia Trung đang phải chịu hai tác
động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, một là “sự xâm lấn” từ bên
ngoài, hai là “sự phá vỡ kết cấu” của chính người dân. Cái “mác” nông dân
hiện nay gắn liền với quyền sở hữu diện tích đất đai còn lại chứ thực chất
không phản ánh đầy đủ các hoạt động bên trong của phương thức sinh kế này.
Do vậy, trong thời gian tới, khi nhiều hoạt động sinh kế của người dân làng
ngày càng tách rời khỏi đất nông nghiệp thì đó cũng là thời điểm đất nông
nghiệp bị biến mất ở Gia Trung. Như vậy, từ thu hồi đất đến quá trình suy
giảm các nguồn lực sinh kế kết hợp với sự thay đổi các yếu tố thể chế và
chính sách, là nhân tố quan trọng để chuyển hóa thành sự lựa chọn và thích
nghi trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân ở làng Gia Trung
99
trong gần hai thập kỷ trở lại đây.
Sự xuất hiện KCN Quang Minh đã thu hút một lực lượng rất lớn công
Chƣơng 4. SINH KẾ CÔNG NGHIỆP
nhân công nghiệp. Bên cạnh nguồn lao động nhập cư đến từ nhiều địa
phương khác, lao động tại địa phương cũng là nguồn nhân lực quan trọng.
Đã có một số nghiên cứu về công nhân công nghiệp, nhưng tập trung chủ
yếu vào nhóm công nhân nhập cư và các vấn đề: nhà ở, thu nhập, an sinh xã
hội của họ [Bùi Thị Thanh Hà 2003; Lê Du Phong 2007; Nguyễn Bình
Giang 2012]. Trong khi đó, một vấn đề quan trọng nhưng ít được quan tâm
là lực lượng công nhân người địa phương trong các khu công nghiệp. Họ là những người nông dân được “công nhân hóa”25 từ chính quá trình thu hồi đất
phục vụ xây dựng khu công nghiệp, có đặc trưng về xuất thân và phương
thức thích nghi sinh kế mới khác với lực lượng công nhân nhập cư.
Ở chương 2, tôi đã xác định bối cảnh thu hồi đất để xây dựng khu
công nghiệp, khu đô thị trên địa làng Gia Trung là nhân tố quan trọng làm
biến đổi sinh kế của người dân ở làng. Trong chương 3, tôi đã phân tích
những biến đổi trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và sinh kế gắn với
nông nghiệp, cho thấy vì sao chiến lược sinh kế này suy giảm so với trước
và vì sao còn tồn tại như chúng ta thấy. Trong chương này, tôi phân tích
lực lượng công nhân là người làng Gia Trung và sinh kế gắn với sản xuất
công nghiệp từ những năm 2005 đến nay (2017). Đây là sinh kế mới xuất
hiện có mối liên hệ chặt chẽ nhất với công nghiệp hóa và đô thị hóa. Tôi
làm rõ đặc điểm, loại hình và vai trò của sự phát triển sinh kế này ở ven đô
Hà Nội trong việc cải thiện thu thập và làm bền vững cuộc sống người dân
100
bị thu hồi đất. 25 “Nông dân được công nhân hóa” là một khái niệm mới xuất hiện, gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và thu hồi đất ở nhiều địa phương, khi mà một bộ phận nông dân dần dần chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Đó là quá trình chuyển hóa một cách từ từ các thuộc tính, phẩm chất và đặc điểm ở một bộ phận nông dân mới được tuyển vào làm trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
4.1. Đặc điểm nhóm công nhân ở làng Gia Trung
Công nghiệp hóa và đô thị hoá trên địa bàn làng Gia Trung đã và đang
tạo ra sự chuyển đổi tích cực cho nền kinh tế địa phương theo hướng công
nghiệp, dịch vụ. Lực lượng lao động nông nghiệp chiếm phần lớn trước kia đã
thay đổi, xuất hiện một số loại hình sinh kế mới trong không gian làng. Sự
tham gia của người dân vào khu công nghiệp là một sự chuyển đổi quan trọng
nhất trong các loại hình sinh kế sau bị thu hồi đất ở Gia Trung. Năm 2008, số
lượng công nhân ở làng chỉ chiếm 14,53% tổng số lao động, năm 2017 chiếm
gần 50% (Bảng 3.7). Trong số 428 hộ dân ở tổ 6 (năm 2016) với 1216 nhân
khẩu trong độ tuổi lao động thì có 610 công nhân. Tính trung bình mỗi hộ có
1-1,3 lao động làm việc trong khu công nghiệp. Tài liệu phỏng vấn sâu 58 hộ
gia đình năm 2017 cho thấy gần 80% tổng số hộ ở làng có lao động làm việc
trong khu công nghiệp, trong đó có những hộ có từ 4-6 người làm công nhân.
“Gia đình bác có 17 người, đều sống quây quần trong cùng khu đất. Cả vợ
chồng con trai và vợ chồng 3 con gái đều làm trong khu công nghiệp, riêng 2
con rể và con gái út là công nhân đã được đào tạo nghề” (T.V.T, tổ 6). Sự gia
nhập vào sản xuất công nghiệp của người dân làng không chỉ “co cụm” trong
phạm vi KCN Quang Minh mà còn “lan tỏa” ra một số khu công nghiệp ở địa
bàn xung quanh như Bắc Thăng Long và Nội Bài, v.v.
Bảng 4.1: Sự phân hóa theo độ tuổi công nhân ở tổ 6 (năm 2016)
Độ tuổi (năm sinh)
Số lƣợng công nhân (người)
Tỷ lệ (%)
> 1960-1970
90
15,0
1971-1980
178
29,1
1981-1990
237
38,5
1991-2000
105
17,4
Tổng
610
100 %
Nguồn: Tài liệu được tổng hợp dựa trên bảng kê khai giới, độ tuổi, nghề nghiệp của
cử tri năm 2016
101
Tài liệu điền dã cho thấy, tuy trong cùng một làng nhưng lao động công
nhân ở hai tổ dân phố có sự biến đổi khác nhau. Số lượng công nhân ở nửa
làng thuộc tổ 6 nhiều hơn nửa làng tổ 7. Hiện tượng này gắn liền với bối cảnh
thu hồi đất, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi của tổ 6 nhiều và triệt để,
đất đai bị thu hồi được sử dụng để xây dựng khu công nghiệp, người dân ở
đây phải chuyển đổi sinh kế thoát ly nông nghiệp triệt để hơn. Ngược lại, diện
tích đất bị thu hồi ở nửa làng còn lại là để phục vụ một loạt dự án đô thị (khu
nhà ở, khu đô thị và quy hoạch đất dịch vụ, v.v), trong khi diện tích đất nông
nghiệp chưa bị thu hồi vẫn còn gần 22 hecta /38 hecta (chiếm gần 60% tổng
diện tích đất nông nghiệp còn lại của làng), cho thấy quá trình chuyển đổi sinh
kế ở tổ 7 không triệt để bằng nửa làng tổ 6.
Nếu lao động nông nghiệp ở làng thuần nhất về độ tuổi và công việc,
thì nhóm công nhân có sự phân hóa theo độ tuổi và mục tiêu công việc. Nhóm
công nhân trên 35 tuổi chiếm số lượng khá lớn, họ chính là lớp “công nhân
hóa nông dân” đầu tiên ở làng Gia Trung sau khi không còn đất canh tác. Đây
là lực lượng lao động chịu nhiều tổn thương trong quá trình thu hồi đất. Lúc
khu công nghiệp mới đi vào hoạt động, chỉ có một số lao động trong độ tuổi
40-55 được nhận vào làm với các công việc như: bảo vệ, bốc vác, cấp dưỡng,
v.v. Vài năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp (doanh nghiệp chuyên sản xuất
bao bì, lương thực thực phẩm, kem, sữa, y dược, may mặc) đã tuyển dụng
thêm lao động lớn tuổi tham gia vào nhiều công đoạn của dây chuyền sản xuất
như: đóng gói, kiểm hàng, cắt may, tạp vụ, v.v. Điều này mở rộng cơ hội việc
làm cho bộ phận lao động trung tuổi, giảm áp lực về vấn đề thất nghiệp sau
khi bị mất đất trong không gian làng. Số lượng nam giới nhiều hơn nữ giới,
nhất là nam giới làm bảo vệ ở trong các doanh nghiệp. Một điều thú vị là có
hiện tượng phân chia “ranh giới ngầm” trong công việc làm bảo vệ giữa các
102
thôn làng xung quanh. Nếu như trước đây, đường bờ thửa hoặc đường mương
là dấu hiệu nhận biết ranh giới đất đai giữa các làng, thì nay việc xây dựng
khu công nghiệp đã làm biến mất dấu hiệu này, thay bằng đường bê tông rộng
rãi, vừa là hạ tầng cơ sở của khu công nghiệp nhưng cũng là ranh giới mới để
dân cư giữa các làng nhận biết vị trí thuộc làng mình.
Số lượng công nhân dưới 35 tuổi chiếm gần 60%, là lực lượng lao động
quan trọng gia nhập vào lĩnh vực công nghiệp ở làng Gia Trung. Ban đầu, họ
phải đối mặt với những hạn chế về trình độ, kỹ năng và gặp khó khăn trong
việc thích ứng với môi trường sản xuất và áp lực thời gian làm việc, nhưng
dần dần họ trở thành lao động chủ đạo trong nhiều doanh nghiệp và có tay
nghề, kỹ năng làm việc tốt.
Nhóm công nhân dưới 25 tuổi chính là lực lượng lao động trẻ được bổ
sung hàng năm cho khu công nghiệp. Bản thân họ được định hướng nghề
nghiệp sớm từ trong gia đình và trên ghế nhà trường. Một đặc điểm của công
nhân khu công nghiệp là vị trí làm việc của họ. Mỗi công nhân đảm nhiệm
công việc cụ thể, ở một khâu cụ thể trong một dây chuyền sản xuất hàng loạt,
vì thế họ được doanh nghiệp đào tạo nghề trong một thời gian ngắn (tối đa
khoảng 1 tháng với những vị trí yêu cầu trình độ kỹ thuật, có những vị trí đơn
giản chỉ cần một tuần). Công việc đòi hỏi thao tác công nghiệp cụ thể nên
không có sự phân biệt lớn về kỹ năng giữa công nhân lâu năm và công nhân
mới vào nghề. Tuy nhiên, làm việc trong dây chuyền công nghiệp đòi hỏi sức
ép cao về tính chính xác, độ tập trung, cường độ và số lượng sản phẩm, khiến
cho ưu thế nghiêng về những công nhân trẻ, có sức khỏe tốt.
Như vậy, dưới tác động của chính sách công nghiệp hóa đã buộc người
lao động ở làng Gia Trung phải chuyển đổi phương thức sinh kế từ sản xuất
nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dẫn đến sự phân hóa lực lượng lao
động tùy theo nguồn lực con người (trình độ, kỹ năng, sức khỏe và sự sáng
103
tạo) của người lao động để đạt được kết quả công việc như mong muốn.
4.2. Đào tạo nghề
Việc xây dựng KCN Quang Minh gần các cộng đồng làng là cơ hội tốt
để thu hút và giải quyết việc làm cho người dân mất đất ở xung quanh khu
công nghiệp. Do đó, đào tạo nghề cho người lao động là một vấn đề quan
trọng. Với hơn 70% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi, có bao nhiêu lao
động ở làng Gia Trung được khu công nghiệp tuyển dụng, tạo công ăn việc
làm, trong khi đa số lao động chưa được chuẩn bị về tâm lý, trang bị về
chuyên môn cho việc chuyển đổi sinh kế?
Về mặt chính sách, các cấp chính quyền đã có những chính sách cụ thể
để hỗ trợ người dân bị thu hồi đất trong việc đào tạo nghề. Ngoài bồi thường
thiệt hại về đất, Nhà nước còn hỗ trợ người dân chuyển đổi nghề với mức 3.800 đồng /1 m2. Đây là khoản hỗ trợ được tính gộp vào hạng mục tiền bồi
thường thiệt hại về đất. Đồng thời, chính quyền địa phương còn yêu cầu phía
doanh nghiệp cam kết tạo việc làm cho lao động là con em các gia đình có đất
bị thu hồi với điều kiện có trình độ văn hóa cấp III và không quá 35 tuổi. Tuy
nhiên, số người được đào tạo nghề và giải quyết việc làm rất ít và không
mang lại kết quả như người dân mong đợi. Minh chứng rõ nhất là trường hợp
thu hồi đất xây dựng Trung tâm thương mại, nhà quản lý dự án đã cam kết sẽ
nhận toàn bộ con em lao động dưới 35 tuổi có đất nông nghiệp bị dự án thu
hồi, nhưng sau đó nhanh chóng họ bị sa thải, một số lao động được nhận vào
làm nhưng chỉ làm được một thời gian là bị đuổi việc. Công nhân bị đuổi việc chỉ với một lý do “hiện công ty hết việc”26. Tình trạng này cũng diễn ra tương
tự ở các thôn làng khác. “Chỉ riêng xã Quang Minh có trên 11 ngàn lao động
và gần 889 ha đất canh tác, đã bị thu hồi hơn 500 ha làm khu công nghiệp.
Đến tháng 5/2005, cả xã mới chỉ được tuyển dụng 800 người. Như vậy, sau
khi bị thu hồi 56% diện tích đất canh tác, khu công nghiệp và các dự án trên
104
địa bàn mới chỉ tạo việc làm cho hơn 7% tổng số lao động toàn xã” [Lê Du 26 Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017.
Phong 2007, tr.68-69]. Đây là tỷ lệ quá thấp mà lý do phía doanh nghiệp đưa
ra có thể do nhu cầu lao động với các công ty là hữu hạn, hơn nữa lực lượng
lao động cũng bị hạn chế bởi rào cản về tuổi tác, trình độ chuyên môn và tay
nghề. Thêm vào đó là tâm lý e ngại của doanh nghiệp đối với lao động địa
phương, họ cho rằng nhóm lao động này thường đưa ra yêu cầu cao về tiền
lương, môi trường làm việc và dễ dàng bỏ việc do không bị áp lực về nhà ở,
thu nhập, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất và kỷ luật của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp gần như không tổ chức lớp học nghề cho nông dân bị
thu hồi đất, duy nhất có công ty may lúc bấy giờ có cho học nghề. Người
của công ty tới UBND xã dạy nghề cho người dân, đối tượng chủ yếu là
lao động nữ (khoảng 100 người), phí học nghề 1 triệu đồng /tháng. Sau
thời gian đào tạo một tháng, số lao động nữ đi làm trong công ty được
một thời gian vì nhiều lý do khác nhau đều bỏ việc (N.T.M, tổ 6).
Trong thực tế, thời điểm sau khi bị thu hồi đất các hộ gia đình một mặt
chỉ biết “trông đợi” và “phụ thuộc” vào công việc do doanh nghiệp sắp xếp;
mặt khác nhiều người tìm cách để đáp ứng đủ điều kiện và yêu cầu phía
doanh nghiệp đưa ra (bằng tốt nghiệp cấp III, học sơ cấp nghề, v.v.). Nhiều
lao động không nằm trong diện được cam kết tạo việc làm thì phải thông qua
những người làm “môi giới” - cầu nối trung gian với nhà tuyển dụng và phải
trả mức phí từ 3 đến 5 triệu đồng. Đây là hiện tượng phổ biến, một dịch vụ tự
phát nảy sinh từ “cung, cầu” do môi trường sản xuất công nghiệp mang lại.
Do vậy, để có được công việc ổn định trong khu công nghiệp là một khó khăn
với nhiều lao động, bởi quyền tuyển dụng công nhân phụ thuộc vào phía
doanh nghiệp, mà nhiều khi tiêu chuẩn đưa ra chỉ là cái cớ để không tuyển
dụng công nhân người địa phương. Không thể phủ nhận sự kết nối trong
mạng lưới xã hội của công nhân công nghiệp, một tác động tích cực giúp
người dân có nhiều lợi thế hơn trong việc làm, cạnh tranh và ứng phó với quy
105
định khắt khe của môi trường sản xuất.
Như vậy, với tâm lý e ngại, trong khi khả năng của người công nhân
còn hạn chế, cũng như vai trò hữu hạn của chính quyền địa phương, hoặc nói
đúng hơn, một mối quan hệ rời rạc của các thể chế đã làm cho quá trình đào
tạo và tự đào tạo nghề của người công nhân Gia Trung đối mặt với nhiều khó
khăn. Thời điểm khu công nghiệp mới đi vào hoạt động, tuy chính quyền địa
phương và phía doanh nghiệp có triển khai kế hoạch đào tạo nghề cho con em
hộ gia đình bị thu hồi đất nhưng hiệu quả không cao, trở thành vấn đề xã hội
được cộng đồng làng quan tâm, điều này do cả từ hai phía: phía tổ chức thì
không sâu sát, đào tạo nghề không gắn với định hướng nghề, còn người dân
thì trình độ nhận thức hạn chế, tay nghề không có.
4.3. Quá trình thích nghi việc làm công nhân
Khác với số lượng lớn lao động di cư, lao động công nhân là người dân ở các làng xung quanh khu công nghiệp đi làm theo kiểu “sáng đi tối về”27
[Sakurai 2010, tr.159] và là những lao động “không ly hương”. Đặc điểm
chung của nhóm lao động này là họ vốn là nông dân, con đường để họ trở
thành công nhân và thích ứng với nền kinh tế thị trường là trở thành công
nhân chuyên nghiệp, thoát ly hoàn toàn với hoạt động sản xuất nông nghiệp,
loại bỏ dần những đặc tính của nông dân, tiếp thu kỹ năng tiên tiến và tính
chuyên nghiệp trong sản xuất công nghiệp. Tùy thuộc vào từng nhóm tuổi mà
họ có thái độ và cách thích nghi riêng.
Đứng trước sự thay đổi sinh kế do đất đai bị thu hồi và những cơ hội
sinh kế mới từ khu công nghiệp mang lại, nhóm lao động trung tuổi ở làng
Gia Trung có những khác biệt trong định hướng lựa chọn sinh kế. Thứ nhất,
một bộ phận lao động không thể chuyển đổi được việc làm vẫn bám lấy nông
nghiệp ở những mức độ khác nhau và coi hoạt động sản xuất này là một chiến
lược sinh kế không dễ từ bỏ vì nhiều lý do: vì tuổi tác, vì duy trì quyền tài sản
106
với đất, vì an ninh lương thực. Thứ hai, có một số lao động trung tuổi vừa tìm 27 Đây là kiểu lao động tổng hợp giữa tính truyền thống và tính kinh tế thị trường [Yumio Sakurai 2010, tr.160].
kiếm công việc thời vụ trong khu công nghiệp để có nguồn thu tài chính,
trong khi vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp ở những mức độ nhất định qua
việc tranh thủ thời gian rảnh rỗi (lúc buổi sáng, buổi chiều sau khi tan ca hoặc
ngày nghỉ, v.v.) với mục tiêu bổ trợ thêm nguồn lương thực; thực tế này có
tác động rất lớn đến cơ hội sinh kế của nhóm lao động trung tuổi, bởi nhận
thức và nắm bắt cơ hội sinh kế của họ chưa chủ động. Ngoài ra, do phần nào
còn dựa vào nguồn lương thực từ sản xuất nông nghiệp nên nhiều người trong
số họ không đặt áp lực phải nỗ lực để làm việc trong môi trường sản xuất
công nghiệp. Nhìn nhận một cách khách quan, họ mới chỉ là những “công
nhân hóa nửa vời”, coi những công việc này là giải pháp tạm thời vì tuổi lao
động không cho phép làm việc lâu dài. Xu hướng thứ ba đó là chuyển đổi
hoàn toàn chiến lược sinh kế, họ làm việc trong khu công nghiệp ở nhiều vị trí
(công nhân, bảo vệ, vệ sinh, bốc vác). Ở một khía cạnh nào đó, công việc của
họ mới chỉ được xem như hoạt động ở “vòng ngoài” của dây chuyền sản xuất
công nghiệp. Do vậy, hai trở ngại lớn nhất cho sự hội nhập của nhóm công
nhân này vào đời sống công nghiệp là cú sốc về kỷ luật và nhịp độ lao động,
việc gắn bó với công nhân như một công việc thực thụ còn là vấn đề cần được
củng cố cho nhóm lao động gần gũi nhất với chất nông nghiệp này.
Trước đây làm thợ xây, khi có khu công nghiệp, anh chuyển làm công
nhân từ năm 2005 - 2012, nhưng chuyển việc liên tục (đã chuyển qua 5
doanh nghiệp) vì không quen với giờ giấc và môi trường làm việc. Năm
2012, bị sa thải và lại quay về làm thợ xây từ đó đến nay (D.V.L, 47 tuổi).
Ngược lại, sự tham gia vào khu công nghiệp của nhóm công nhân dưới
35 tuổi là một trong những cách thích ứng và tận dụng cơ hội mà công nghiệp
hóa, đô thị hóa mang lại. Từ chỗ là những công nhân thiếu kinh nghiệm,
không được đào tạo thì sau vài năm, đội ngũ lao động này đã từng bước thích
nghi và tiến bộ về tay nghề, giờ giấc, ý thức chấp hành kỷ luật, tác phong
công nghiệp, khả năng chịu đựng. Ngoài ra, nhiều người còn tìm cách thích
107
nghi và khắc phục hạn chế bằng một số động thái tích cực như học nghề qua
chương trình đào tạo bài bản, tìm hiểu thông tin liên quan đến công việc và
chế độ việc làm.
“Giờ tìm việc làm trong khu công nghiệp dễ lắm, có nhiều doanh
nghiệp nên mình có quyền lựa chọn, doanh nghiệp nào lương cao hơn
thì làm chứ không vất vả như thời điểm khu công nghiệp mới đi vào
hoạt động. Cô có 3 người con. Gia đình định hướng cho chúng nó đi
học nghề ở các trường trung cấp để ra trường về làm công nhân cho
gần nhà. Hiện chúng đều đã là những công nhân lành nghề và gắn bó
nhiều năm với khu công nghiệp” (N.T.H, 56 tuổi, tổ 7).
Các hộ gia đình đều có sự thay đổi tư duy để lựa chọn phương thức
mưu sinh - lợi thế mà thu hồi đất và khu công nghiệp mang lại, đặc biệt là
mong muốn cho thế hệ trẻ có công việc ổn định và tương lai bền vững. Họ
chú trọng đến định hướng nghề nghiệp. Trong trường hợp này, sự thay đổi
công việc của người dân khi làm việc tại khu công nghiệp chủ động hơn,
thông tin về các doanh nghiệp, mức lương và chế độ ưu đãi được tuyên truyền
rộng rãi để gia đình và cá nhân có thể lựa chọn cho mình công việc phù hợp.
Làm việc trong khu công nghiệp trở thành sự lựa chọn của nhiều lao động trẻ
(kể cả lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao động được đào tạo). Tâm
lý “bám làng” để an cư lạc nghiệp có cơ hội được củng cố và ăn sâu vào mỗi
người dân trong bối cảnh sinh kế của họ dựa vào sản xuất công nghiệp khi
xuất hiện xu hướng “hồi cư” của nhiều người đi làm xa quay về làm việc tại các doanh nghiệp của địa phương28. Khoảng cách đi lại cũng là lợi thế ưu tiên,
khi vị trí làng Gia Trung chỉ cách khu công nghiệp 300 m, thuận lợi cho công
nhân có thể di chuyển làm việc bằng các phương tiện đi bộ, xe máy hoặc xe
đạp. Điều này giải thích tâm lý với nhiều người là họ không muốn di chuyển
108
làm xa dù có nhiều cơ hội việc làm và thu nhập tốt hơn. 28 Ở làng Gia Trung có một bộ phận công nhân làm tại các KCN Bắc Thăng Long và Nội Bài với mục tiêu tìm kiếm mức thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, trong khoảng 5 năm trở lại đây, những người công nhân này dần quay trở về và tìm kiếm các công việc tại KCN Quang Minh, ở đây tôi không có được những con số định lượng cụ thể về số lượng người „hồi cư‟.
Rõ ràng yếu tố tuổi tác có tác động rất lớn đến nhận thức, trình độ và
tay nghề trong sự lựa chọn và thích nghi với khu công nghiệp của các nhóm
công nhân ở Gia Trung, điều này ngụ ý rằng, mỗi nhóm công nhân có lợi thế
riêng để nắm bắt các cơ hội để tìm kiếm sự an toàn sinh kế và mong muốn có
nguồn thu nhập ổn định. Mặc dù vậy, quá trình thích nghi này không chỉ của
riêng cá nhân người lao động mà còn là nhận thức từ chính hộ gia đình, một
thay đổi tích cực mà công nghiệp hóa mang lại cho cộng đồng dân cư nông
thôn vốn gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
4.4. Thu nhập từ lƣơng công nhân
Nhìn chung, thu nhập từ làm công nhân trong KCN Quang Minh thấp
hơn so với các doanh nghiệp ở KCN Bắc Thăng Long. Tuy nhiên, mức thu
nhập bình quân đã tăng lên, năm 2007 mức thu nhập dao động từ 700.000 -
900.000 đồng /tháng, năm 2010 tăng lên 2 - 3 triệu đồng /tháng (chưa tính
thời gian tăng ca và hỗ trợ khác), đến năm 2017 trung bình từ 5 - 8 triệu đồng
/tháng, nghĩa là mức lương cơ bản của công nhân đã tăng lên 5 - 7 lần sau một
thập kỷ, gấp nhiều lần thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
N.V.H (45 tuổi), làm công nhân ở bộ phận kho và bốc vác của doanh
nghiệp chuyên sản xuất cửa từ năm 2005, mức lương khởi điểm
1.500.000 đồng, năm 2011 là 3.200.000 đồng /tháng. Vợ anh, chị Th
cũng làm ở bộ phận tạp vụ của doanh nghiệp này từ năm 2006, làm giờ
hành chính, với mức lương 1.800.000 đồng. Ngoài làm trong công ty,
chị Th còn tranh thủ làm thêm nghề may và sửa quần áo tại nhà để
tăng thêm thu nhập. Theo chị, “với đồng lương công nhân của 2 vợ
chồng chỉ đủ chi tiêu, ăn uống cho 4 người và tiền ăn học cho 2 đứa
con, chứ việc giỗ chạp, đám xá thì lấy đâu ra”. Tuy nhiên, năm 2017,
khi tôi quay lại để quan sát và nghiên cứu về gia đình này đã rất ngạc
109
nhiên vì thấy nhiều sự thay đổi. Ngôi nhà 3 tầng được xây mới khang
trang. Hiện cả 4 người trong gia đình chị đều làm công nhân, thu nhập
từ sinh kế này đã giúp cho mức sống gia đình khá hơn trước rất nhiều,
có điều kiện tài chính để sửa sang nhà cửa, mua sắm thiết bị hiện đại
cũng như có khoản tích lũy để lập gia đình cho con cái (Tài liệu điền
dã của tác giả năm 2011, 2017).
Có một điều khác biệt trong nguồn thu nhập trước và sau khi thu hồi
đất của người dân Gia Trung là sau khi thu hồi đất, thu nhập của các hộ gia
đình đến từ nhiều sinh kế khác nhau: công nhân, hoạt động dịch vụ và nguồn
bổ trợ từ sản xuất nông nghiệp. Như đã đề cập ở trên, trung bình mỗi hộ gia
đình có từ 1-1,3 lao động làm việc trong khu công nghiệp, thu nhập của hộ có
khoản đóng góp không nhỏ - nguồn tài chính trực tiếp từ khu vực sản xuất
này mang lại, trong đó gần 30% hộ gia đình có thu nhập chính, còn lại là một
trong các nguồn thu nhập từ chiến lược sinh kế khác.
“Sau khi khu công nghiệp đi vào hoạt động, tôi được nhận vào làm
công nhân trong nhà máy xây dựng trên diện tích đất nông nghiệp thu
hồi của gia đình, đến nay tôi đã làm công nhân được hơn 10 năm.
Công việc của tôi đi làm theo giờ hành chính, sáng đi tối về, do không
phải thuê nhà cũng như được gia đình cung cấp gạo ăn và các loại rau
theo mùa nên tôi có thể tiết kiệm được 50 - 60% thu nhập mỗi tháng.
Đây là một lợi thế rất lớn của những công nhân người địa phương
chúng tôi so với việc phải thuê nhà trọ và sống xa quê như phần lớn
công nhân di cư” (K.A, 30 tuổi).
Khảo sát của tôi chỉ ra rằng, người dân ở làng Gia Trung, nhất là thế hệ
công nhân dưới 30 tuổi đều có sự thỏa mãn về công việc hiện nay của mình.
Theo họ, đây là công việc tương đối ổn định và thu nhập tốt, được coi là
nguồn sinh kế trụ cột của gia đình trong điều kiện hiện tại cũng như tương lai.
Đặc điểm này phản ánh đặc tính của người dân đó là tâm lý ăn chắc, không ưa
110
mạo hiểm cũng như nhằm tránh những rủi ro. Với mức thu nhập tương đối ổn
định, việc làm công nhân đã giúp người dân làng Gia Trung từng bước cải
thiện và nâng cao đời sống vật chất, giúp họ có điều kiện để xây sửa nhà cửa,
mua sắm thiết bị hiện đại và chăm lo con cái học hành.
4.5. Sự bấp bênh của sinh kế công nghiệp
Nếu như trong xã hội nông nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp và
người nông dân là thành phần dân cư chính, chi phối tất cả các mặt về chính
trị, kinh tế - xã hội của cộng đồng làng Gia Trung, thì nay dưới tác động của
công nghiệp hóa, đô thị hóa, thiết chế làng xã không còn mà thay vào là tổ
dân phố thuộc thị trấn trong đô thị, nền nông nghiệp truyền thống của làng
đang dần biến mất, phương thức sinh kế của người dân trở nên đa dạng gắn
với các sinh kế liên quan đến công nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Tuy số
lượng công nhân của làng gia tăng mỗi năm và giữ vai trò là một nguồn tạo
sinh kế quan trọng của hộ gia đình, nhưng kết quả khảo sát cho thấy phương
thức sinh kế này vẫn đang đối mặt với nhiều rủi ro.
Trước hết, trình độ học vấn, trình độ tay nghề của công nhân còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu công việc trong dây chuyền sản xuất công nghiệp.
Vấn đề này gắn liền với chất lượng giáo dục. Theo thống kê, năm 2006, tỷ lệ
tốt nghiệp cấp III chiếm 46,6% (chủ yếu trong độ tuổi từ 18-25), còn lại chỉ
mới tốt nghiệp cấp II và cấp I (tập trung nhóm lao động trung tuổi), lao động
được đào tạo nghề, lao động có trình độ trung cấp rất thấp, những người có
trình độ đại học, cao đẳng thì đã đi thoát ly, làm việc ở trung tâm lớn như Hà
Nội. Trong khi đó, việc đầu tư học hành và đào tạo nghề cho thế hệ trẻ của
các hộ gia đình thấp, chưa được quan tâm đúng mức, đây là sự bất lợi lớn cho
nhóm công nhân ở Gia Trung khi gia nhập vào môi trường sản xuất công
nghiệp. Đến năm 2017, tỷ lệ này đã được cải thiện đáng kể khi 100% lao
động đã tốt nghiệp cấp III, đặc biệt lao động qua đào tạo nghề chiếm số lượng
lớn. Kết quả này là nhờ vào việc cá nhân người lao động bước đầu “nắm bắt”
111
được nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp để có kế hoạch đào tạo và tự
đào tạo. Tuy nhiên, định hướng nghề của người dân chỉ mới chú trọng vào
việc đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp để có công việc với thu nhập tốt hơn và
ổn định mà chưa thực sự quan tâm đến chất lượng giáo dục cho thế hệ trẻ.
“Hiện nay, chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo của con em trong làng
còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Mục
tiêu của các hộ gia đình thiên về nghề nghiệp, thu nhập mà không chú trọng
đến nâng cao chất lượng giáo dục cho thế hệ trẻ. Một sự duy lý mà khu công
nghiệp mang lại” (T.V.V, cán bộ nghỉ hưu).
Thứ hai, người lao động vốn quen với việc đồng áng, giờ giấc và thói
quen làm việc tự do không theo quy củ, lại ít bị giám sát, cho nên khi được
tuyển dụng vào trong các doanh nghiệp họ không thể ngay một lúc thích ứng
được. Do đó, khi bị giám sát công việc và giờ giấc làm việc nghiêm ngặt, đã
xuất hiện ở công nhân tâm lý tự ti, bảo thủ và nhiều người trong số họ bị đuổi
việc là dễ hiểu. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp có thời gian làm việc làm theo
ca (đây là một trong những yêu cầu bắt buộc khi tuyển lao động), các doanh
nghiệp sản xuất thường có lịch làm việc 3 ca trong ngày, mỗi ca 8 tiếng; ca 1:
6h sáng - 2h chiều; ca 2: 2h chiều đến 10h tối; ca 3: 10h tối đến 6h sáng ngày
hôm sau, tuần làm ngày, tuần làm đêm theo định kỳ, một tháng được nghỉ 6
ngày; một số doanh nghiệp lại có lịch làm việc 10h - 12h/ngày tùy theo đơn
hàng của doanh nghiệp. Do vậy, dưới sức ép số lượng sản phẩm, sự cạnh
tranh khốc liệt trong môi trường sản xuất với công nghệ giữ vai trò chính, con
người chỉ là nhân tố giúp vận hành dây chuyền sản xuất thì việc thích nghi với
tính chất công việc làm ca thực sự rất vất vả ngay cả đối với lao động trẻ.
Thứ ba, khoảng 60% công nhân làm việc trong KCN Quang Minh là
người nhập cư, với đặc điểm về lý do xuất cư, sự chi trả về nhà ở và các nhu
cầu sinh hoạt khác, người công nhân di cư có sự lựa chọn công việc và mục
tiêu làm việc khác biệt với nhóm công nhân người địa phương. Nếu như
112
người lao động di cư thường dành nhiều thời gian, công sức cho công việc thì
công nhân người địa phương lại có cách sinh hoạt ngược lại, khi họ vẫn giữ
mối quan hệ gia đình, hàng xóm và bạn bè trong không gian làng, không bị áp
lực về nhà ở và chi phí khác, nhiều người xuất hiện tâm lý “thích thì làm” mà
không có sự hoàn thiện tay nghề và chú trọng đến công việc. Do vậy, ngoài
hạn chế về trình độ giáo dục, tay nghề thì công nhân địa phương còn phải đối
mặt với sự cạnh tranh giữa các nhóm công nhân trong môi trường sản xuất
mới. Các luồng dân di cư đến và đi ở Gia Trung ngày nay đã phản ánh phần
nào đời sống kinh tế - xã hội có nhiều biến chuyển, “tạo ra hình ảnh về một
cộng đồng đa dạng về nghề nghiệp và lối sống, có sự giao lưu, mở cửa với thế
giới bên ngoài” [Lương Hồng Quang 2011, tr.46], đặt ra yêu cầu về ý thức
công việc và mạng lưới xã hội trong lực lượng công nhân.
Em làm việc cho doanh nghiệp may mặc đã được 3 năm. Phân xưởng của
em toàn là công nhân nữ, phần lớn trong số họ đến từ các tỉnh Phú Thọ,
Tuyên Quang, Thanh Hóa và Nghệ An; nhiều người trong số họ có hoàn
cảnh khó khăn về kinh tế, lại phải đi thuê trọ. Vì thế, họ luôn cố gắng hết
sức làm ca, làm kíp để tăng thu nhập. Nhìn họ, bản thân em cũng ý thức
được lợi thế và hạn chế về công việc của mình (Th.L, 23 tuổi).
Thứ tư, đó là sự bấp bênh trong môi trường công nghiệp. Tuy mới đi
vào hoạt động được hơn 1 thập kỷ, song KCN Quang Minh không tránh khỏi
những ảnh hưởng dây chuyền toàn cầu. Do chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng
hoảng kinh tế cuối năm 2008, hầu hết các doanh nghiệp có vốn FDI (từ các
doanh nghiệp kỹ thuật cao đến các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động) tại
KCN Quang Minh đều chịu tác động của suy thoái kinh tế ở nhiều cấp độ. Để
đối mặt với khủng hoảng kinh tế, chỉ một số doanh nghiệp duy trì được sản
xuất, còn hầu hết phải cắt giảm sản xuất và chi phí. Ngoài cắt giảm chi phí
điện, văn phòng phẩm, họ còn cắt giảm chi phí nhân công như: không trả tiền
làm thêm giờ, giảm số ca lao động, trả lương 70% cho ngày nghỉ, khuyến
113
khích người lao động tự nguyện nghỉ việc thay vì “sa thải”, khuyến khích
người lao động hoặc nghỉ dài ngày (trả 70% lương) hoặc nộp đơn xin nghỉ
việc để được một số quyền lợi như nhận khoản trợ cấp tương đương với một
hoặc hai tháng lương. Có thể khẳng định cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á
ngoài ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến doanh thu các doanh nghiệp, mà
còn kéo theo thu nhập sụt giảm của tầng lớp công nhân trong khu công
nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống của người dân ở các cộng đồng làng
liền kề. Để ứng phó với những bấp bênh này, người công nhân làng Gia
Trung đã lựa chọn những chiến lược như: i/ Tiếp tục tìm việc tương tự ở các
doanh nghiệp khác trong khu công nghiệp; ii/ Nghỉ việc ở nhà và chờ đợi cơ
hội việc làm khác hoặc tìm các công việc bổ sung trong thời gian chờ đợi,
việc lựa chọn các chiến lược ứng phó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, hoàn cảnh
kinh tế hộ gia đình và năng lực làm việc của người lao động.
Sau cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam dần đi vào quỹ đạo ổn
định. Thu hút trở lại và mở rộng nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
đến đầu tư phát triển doanh nghiệp tại KCN Quang Minh. Điều này thu hút
một lượng lớn công nhân đến làm việc tại khu công nghiệp, đồng thời số
lượng nhà trọ mới xây dựng xuất hiện ngày càng nhiều trên địa bàn Gia
Trung, góp phần đáng kể vào thu nhập hộ gia đình cũng như lượng công nhân
địa phương không ngừng tăng lên - một sự phát triển dây chuyền. Thực tế này
cho thấy đời sống kinh tế của người dân ở làng Gia Trung đã và đang chịu tác
động trực tiếp và phụ thuộc vào sự hưng thịnh của khu công nghiệp và từ
những yếu tố khách quan bên ngoài.
Như vậy, một bối cảnh sinh kế mới xuất hiện và có ảnh hưởng nhất
định đến những người công nhân ở làng Gia Trung trong sự theo đuổi sinh kế
của mình. Họ phải đối mặt với sự không ổn định của công việc và lợi ích bảo
vệ xã hội còn hạn chế. Đây là hiện tượng chung của giai cấp công nhân Việt
Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa để hội nhập vào thị trường
114
quốc tế hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 4
Chương 4 đã phân tích hoạt động sinh kế gắn với sản xuất công nghiệp.
Đây là sinh kế mới xuất hiện ở Gia Trung dưới tác động của công nghiệp hóa
và đô thị hóa - một quá trình vừa giúp người dân địa phương có cơ hội chuyển
đổi sinh kế, đa dạng hóa hoạt động tạo sinh kế vừa thu hút một lực lượng rất
lớn lao động là người địa phương gia nhập đội ngũ công nhân trong khu công
nghiệp. Việc làm công nhân như một chiến lược sinh kế được người dân lựa
chọn và đang thích ứng sau hơn một thập kỷ khu công nghiệp đi vào hoạt
động và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sinh kế của hộ gia đình ở
cộng đồng làng. Việc thích ứng của người nông dân khi trở thành công nhân ở
làng Gia Trung là “sự thích ứng tự phát” do buộc phải chuyển đổi sinh kế, rồi
chuyển thành có “kế hoạch” do sự xuất hiện các nguồn vốn sinh kế và thể chế
chính sách địa phương hướng tới các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp.
Tuy nhiên, chiến lược sinh kế này cũng làm họ phải đối diện với những
bếp bênh trong công việc để tìm kiếm nguồn sinh kế mới, trong hoàn cảnh đó
những hỗ trợ của Nhà nước và doanh nghiệp cho công nhân làng Gia Trung
còn có những hạn chế nhất định. Vì thế, họ phải tự thích nghi dựa trên nguồn
vốn của mình, mà trong chiến lược sinh kế này là vai trò quan trọng của vốn
con người để đáp ứng công việc. Thực tiễn này cho thấy tầm quan trọng của
nguồn vốn con người trong việc tìm kiếm và đạt được kết quả sinh kế gắn với
115
sản xuất công nghiệp của một bộ phận người dân ở Gia Trung.
Sự hình thành và phát triển của khu công nghiệp trên địa bàn làng Gia
Chƣơng 5. SINH KẾ DỊCH VỤ
Trung cũng là một trong các nhân tố tạo ra nhiều hoạt động kinh doanh dịch
vụ trong không gian làng. Các hoạt động sinh kế này bao quát nhiều loại
hình dịch vụ phổ biến như: buôn bán, ăn uống, cho thuê nhà trọ và trông trẻ,
v.v. Tính chất phổ biến và nổi bật của hoạt động cho thuê nhà trọ ở Gia
Trung là nguyên nhân nó được xác định là nội dung được phân tích trong
chương này.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về phương thức sinh kế gắn với “nhà trọ”
(còn gọi nhà cho thuê) chủ yếu ở các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội
v.v, nơi có nhiều loại hình nhà trọ dành cho đối tượng là học sinh, sinh viên
và những người nhập cư làm việc trong khu vực đô thị. Trong đó, loại hình
nhà trọ tư nhân tự phát gần các khu /cụm công nghiệp ở ven đô thành phố còn
chưa được nghiên cứu và lý giải một cách thỏa đáng, đó là những gợi ý khoa
học rất có ý nghĩa. Phương pháp nghiên cứu mà tôi sử dụng trong phần đầu
của chương này là mô tả dân tộc học nhằm làm rõ vai trò của nguồn vốn tự
nhiên (đất thổ cư) trong việc hình thành loại hình nhà trọ, để chuyển hóa
thành nguồn vốn vật chất (nhà cửa) và vốn tài chính, góp phần tạo việc làm,
tăng thu nhập và cải thiện mức sống của người dân sau thu hồi đất.
5.1. Sinh kế gắn với dịch vụ cho thuê nhà trọ
5.1.1. Nguyên nhân và sự xuất hiện nhà trọ
Sự ra đời và phát triển của KCN Quang Minh thu hút một số lượng rất
lớn công nhân di cư đến từ nhiều tỉnh thành như: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn
La, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh, v.v. Vốn xuất cư từ những cộng đồng nông nghiệp ở khu vực nông
thôn, nên khi làm việc ở khu công nghiệp họ phải thuê nhà trọ để ở tại các
116
làng lân cận. Số liệu thống kê của UBND thị trấn Quang Minh (năm 2011)
cho thấy có khoảng hơn 20 nghìn công nhân đang làm việc tại khu công
nghiệp này, trong đó 65,8% công nhân có nhu cầu thuê nhà nhưng khu công nghiệp không cung cấp được nhà ở29.
Làng Gia Trung được xác định là địa bàn phát triển trọng điểm của
KCN Quang Minh I, có vị trí gần khu công nghiệp nhất (300 m) so với các
thôn làng khác. Việc xuất hiện nhà trọ ở Gia Trung có vai trò quan trọng trong
việc cân đối cung cầu về nhà ở của công nhân; bên cạnh đó, “khoảng cách địa
lý và điều kiện giao thông đi lại cũng là một nhân tố thu hút số lượng lớn lao
động di cư đến địa bàn nghiên cứu. Khả năng tiếp cận khu công nghiệp
(khoảng cách) và cơ sở hạ tầng hiện có (dịch vụ xã hội, cơ sở kinh doanh
thương mại) là các yếu tố quan trọng liên quan trực tiếp đến môi trường sống
của công nhân” [JICA 2016]. Ở một khía cạnh nào đó, vấn đề khoảng cách là
nhân tố quan trọng vì nó ảnh hưởng đến sự an toàn, thuận lợi và chi phí của
người thuê trọ.
Tuổi đời của nhóm công nhân di cư rất trẻ từ 18 đến 30. Điều này cho
thấy tính năng động của đối tượng người di cư và sức ép dân số, nhu cầu về
việc làm tăng cao trong khi sản xuất nông nghiệp không đáp ứng đủ cho số
lao động dư thừa. Tuy nhiên, khác với giai đoạn di cư từ nông thôn đến khu
công nghiệp trước đó khi người di cư chủ yếu là công nhân độc thân, thì vài
năm trở lại đây, nhiều người di cư đã có gia đình, một số lượng đáng kể công
nhân đã mang theo vợ hoặc chồng và con cái đi cùng. Thực tế này làm cho số
lượng người nhập cư có nhu cầu thuê nhà trọ ở địa bàn nghiên cứu không chỉ
dừng lại ở số lượng công nhân làm việc trong khu công nghiệp mà còn bao
gồm cả người thân của họ. Sự sẵn có của nhà cho thuê và vị trí thuận lợi của
làng Gia Trung đồng nghĩa với việc tạo cơ hội cho xu hướng này phát triển,
đặt ra áp lực về dịch vụ nhà ở, môi trường giáo dục cho cộng đồng làng - nơi
117
mà hệ thống phúc lợi xã hội chưa được trang bị đầy đủ. 29 Việc thực hiện dự án xây dựng ký túc xá dành cho công nhân KCN Quang Minh đã có kế hoạch từ năm 2013 nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai xây dựng.
Nhà trọ xuất hiện sớm nhất ở Gia Trung khoảng năm 1998 - 1999 với
một số phòng trọ đơn giản phục vụ nhu cầu thuê trọ của bộ phận nhỏ công
nhân làm việc tại Công ty Sữa. Tuy nhiên, loại hình này xuất hiện phổ biến và
ồ ạt ở làng vào những năm 2004 khi KCN Quang Minh xuất hiện và không
ngừng được mở rộng. Nhiều hộ dân ở làng Gia Trung đã chuyển từ làm nông
nghiệp thành những người chủ đất quy mô nhỏ, xây nhà cho thuê trên đất ngụ
cư của gia đình.
Số liệu thống kê tháng 6 năm 2011, Gia Trung có khoảng 215 hộ gia
đình có nhà cho thuê. Nếu so với năm 2008, 2009, số lượng nhà cho thuê
không có nhiều thay đổi, nhưng số lượng phòng cho thuê thì tăng đáng kể,
nhà ít thì 2 đến 5 phòng, nhà nhiều 15 đến 20 phòng; đặc biệt, trong năm 2011
có 3 hộ dân tổ 7 xây tới 30 và 35 phòng trọ; vào năm 2017, làng Gia Trung có
gần 400 hộ có nhà cho thuê. Theo thời gian, chất lượng phòng trọ ngày càng
được nâng cao, từ chỗ chỉ là những phòng trọ tạm bợ do các hộ gia đình xây
và tu sửa từ những năm 2003 - 2004, thì nay nhiều hộ đã đầu tư xây dựng
những ngôi nhà kiên cố có đầy đủ tiện nghi. Số lượng hộ gia đình có nhà cho
thuê ngày càng tăng và với các loại nhà trọ đa dạng đã đáp ứng nhu cầu đa
dạng của công nhân. Vào thời điểm năm 2017, trong tổng số 428 hộ gia đình
với 1.736 nhân khẩu (hộ khẩu KT1)30 của tổ dân phố số 6 có 179 hộ có nhà
cho thuê với gần 700 phòng trọ. Số lượng công nhân thuê trọ dao động từ
1.60031 đến 3.000, trong khi đó, ở tổ dân phố số 7, số lượng hộ kinh doanh
nhà trọ ít hơn nhưng lại cung cấp những phòng trọ có chất lượng tốt và giá cả
30 Đối tượng KT1 = nhân khẩu thường trú; KT2 = số khẩu chuyển đến và chuyển đi; KT3 = những người từ nơi khác nhập khẩu đến; KT4 = lao động nhập cư, đăng ký tạm trú, tạm vắng. 31 Đây là con số chính thức đăng ký tạm trú. Tuy nhiên, số lượng công nhân thuê trọ luôn dao động, nên con số trình bày ở đây chỉ phản ánh thời điểm khảo sát. 32 Những phân tích này được dựa trên số liệu tổng hợp từ báo cáo kinh tế xã hội năm 2011 của UBND thị trấn Quang Minh và tài liệu điền dã của tác giả năm 2011, 2017.
118
cao hơn32.
Như vậy, việc Chính phủ quy hoạch các khu công nghiệp dần chuyển
từ trung tâm và ngoại vi thành phố Hà Nội ra vùng nông thôn lân cận với mục
tiêu nhằm giảm áp lực cho trung tâm thành phố, thu hút nguồn lao động địa
phương cũng như quỹ đất để phát triển đã thúc đẩy số lượng lớn công nhân
nhập cư đến thuê nhà trọ tại các làng lân cận với khu công nghiệp. Điều này
giúp người dân ở làng Gia Trung có cơ hội chuyển đổi sinh kế dựa trên các
nguồn lực sinh kế vốn có của gia đình.
5.1.2. Các loại hình nhà trọ
Tài liệu điền dã dân tộc học tại địa bàn nghiên cứu cho phép tôi xác
định có 4 loại hình nhà trọ: Nhà ở truyền thống cải tạo cho thuê; Dãy nhà trọ;
Nhà trọ cao tầng và Phòng trọ trong nhà ở gia đình. Những loại hình nhà trọ
này thuộc loại nhà kiên cố, nhà bán kiên cố và nhà thiếu kiên cố, giống với kết quả phân loại của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 200933.
Nhà ở truyền thống cải tạo cho thuê
Ở Gia Trung, có đến 90% số hộ gia đình được nhận tiền bồi thường từ
thu hồi đất nông nghiệp và phần lớn các hộ đã dùng một phần số tiền này để
xây nhà ở kiểu mới (nhà tầng) và tu sửa, cải tạo ngôi nhà ngói cũ 3 hoặc 4
gian, vốn là nhà ở truyền thống trước đây của hộ gia đình để cho thuê (khoảng
70 hộ). Giá tiền cho thuê những phòng trọ này tương đối thấp, từ 250.000 -
400.000 đồng /tháng.
Đặc điểm của những ngôi nhà bán kiên cố này là ẩm thấp, xuống cấp
33 Trên cơ sở phân loại chất lượng vật liệu thành bền chắc và không bền chắc, cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 đã chia nhà ở thành 4 loại: (1) Nhà kiên cố là nhà có cả ba kết cấu chính: cột, mái, tường đều được làm bằng vật liệu bền chắc; (2) Nhà bán kiên cố là nhà có hai trong ba kết cấu chính được làm bằng vật liệu bền chắc; (3) Nhà thiếu kiên cố là nhà có một trong ba kết cấu chính được làm bằng vật liệu bền chắc; và (4) Nhà đơn sơ là nhà có cả ba kết cấu chính đều được làm bằng vật liệu không bền chắc. Việc phân loại nhà ở của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 so với năm 1999 rõ ràng và khách quan hơn, giảm thiểu sự phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của điều tra viên và người cung cấp thông tin. Mặc dù phương pháp xác định để phân loại nhà khác nhau, nhưng căn cứ để xác định loại nhà trong hai cuộc Tổng điều tra lại tương đối giống nhau nên việc so sánh, đánh giá sự thay đổi loại nhà qua hai cuộc Tổng điều tra vẫn đảm bảo sự hợp lý.
119
nghiêm trọng và không được đầu tư, nhưng lại có nhiều công nhân thích thuê
ở trong ngôi nhà này với lý do vừa rẻ lại mát hơn so với các phòng trọ lợp
bằng Fibro-ximang.
“Vợ chồng tôi thuê ngôi nhà ngói này đã 3 năm khi vợ tôi chuẩn bị sinh
em bé. Mục đích lúc đầu thuê ở đây là có không gian rộng hơn để đưa
bà nội (bà ngoại) ở quê lên tiện chăm sóc con cái khi chúng tôi đi làm
trong khu công nghiệp và tiền thuê nhà rẻ hơn so với những phòng trọ
loại khác. Sau một thời gian ở đây, chúng tôi rất thích ngôi nhà này bởi
nó không chỉ có không gian rộng mà lại mát mẻ và yên tĩnh, đặc biệt
gia đình chủ nhà vẫn còn để bàn thờ gia tiên ở đây mà không chuyển
lên nhà mới của họ, ngoài việc thi thoảng giúp cô chủ nhà lau dọn bàn
thờ, ngày rằm, mùng một vợ chồng tôi cũng thường mua ít hoa quả về
thắp hương, ngoài ý nghĩa cầu mong bình an, khỏe mạnh cho con cái
và may mắn trong công việc, điều này còn giúp tôi luôn giữ được ký ức
về quê hương và tín ngưỡng „uống nước nhớ nguồn‟ của mình” (N.,
công nhân, 27 tuổi).
Có nhiều lý do để những ngôi nhà này vẫn còn tồn tại mà không bị phá
bỏ, trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất mà nhiều người dân chia sẻ là do
diện tích đất thổ cư của gia đình họ còn đủ rộng để xây các ngôi nhà ở mới
hoặc chia cho con cháu, đồng thời họ luyến tiếc phá bỏ đi ngôi nhà ông cha để
lại. “Tuy đã chuyển sang ở nhà cao tầng từ chục năm nay nhưng tôi vẫn giữ
lại ngôi nhà ngói cũ của gia đình, đơn giản đó là nhà ông bà để lại, nơi tôi
sinh ra và lớn lên, là nơi đặt bàn thờ tổ tiên của gia đình” (Đ.T.N, tổ 7).
Dãy nhà trọ
Đây là loại hình nhà bán kiên cố cho thuê phổ biến và chiếm số lượng
lớn nhất ở làng Gia Trung, xuất hiện rải rác từ những năm 1998-1999 và ồ ạt
nhất vào hai thời điểm:
Một là từ năm 2003-2008. Sau khi KCN Quang Minh đi vào hoạt động
120
và thu hút hàng loạt công nhân từ các tỉnh khác về đây thuê trọ, các dãy nhà
trọ một tầng được xây dựng một cách tự phát, nằm tách biệt hoặc gần với chủ
nhà; mỗi dãy trọ có các phòng xây kề sát nhau, thẳng hàng, có diện tích khá nhỏ (khoảng 6-12 m2), phòng đơn giản; nhà tắm và vệ sinh sử dụng chung,
đều lợp mái bằng Fibro-ximang. Đến nay, phần lớn những dãy nhà trọ này đã
bị xuống cấp nghiêm trọng: nhếch nhác, ẩm thấp, chật chội và đang dần bị thu
hẹp, phá bỏ để xây mới thành các dãy nhà cao tầng.
Mức giá cho thuê phòng trọ loại này dao động từ 300.000 - 600.000
đồng /tháng. Do thiếu các điều kiện sinh hoạt cần thiết nên đa số các phòng
trọ này chỉ dành cho 1 người hoặc một vài cặp đôi thuê ở chung, họ chủ yếu
là công nhân nam hoặc nữ chưa lập gia đình và không tổ chức nấu ăn tại
phòng, “không ai muốn sống trong điều kiện như thế, nhưng vì giá rẻ, lại
được tự do, thuận tiện mà em chấp nhận bỏ qua những khó khăn, phòng trọ
chỉ được xem là chỗ trú ngụ qua đêm hơn là nơi nghỉ ngơi, thư giãn sau một
ngày làm việc” (T.H, 20 tuổi). Tiền cho thuê từ loại phòng trọ này không ổn
định bởi công nhân thường không ở lâu dài.
T.V.D, một chủ trọ cho biết: Năm 2006, nhà chú xây 4 dãy phòng cho
thuê, do không có nhiều vốn đầu tư và mình cũng chỉ nghĩ là xây vài
phòng cho thuê để hàng tháng kiếm thêm vài đồng, lấy tiền cho các em
ăn học. Diện tích phòng chỉ 6 - 8 m2, mỗi phòng có 2 tấm ván kê làm
giường ngủ, trên tường đóng vài cái móc treo quần áo. Công nhân thuê
trọ dùng nước giếng khoan được lọc qua bể. Vì điều kiện phòng tạm bợ
như vậy, nên lúc đầu giá cho thuê chỉ 150.000 đồng /tháng, hiện nay
34 Khi khảo sát khu trọ này năm 2017, tôi nhận thấy đây là khu trọ có cổng ra vào tách biệt với chủ nhà, phòng trọ đã xuống cấp nghiêm trọng, nước từ bể lọc chảy ra ố vàng cả một khoảng sân, trong khi khoảng sân giữa các dãy trọ không được quét dọn, rác không được để đúng vị trí. Đối tượng thuê trọ chủ yếu là công nhân, có người ở một mình, hoặc hai người thuê, cũng có một số cặp đôi sống chung; độ tuổi công nhân còn rất trẻ, chủ yếu đến từ Tuyên Quang (dân tộc Tày), Phú Thọ, Thái Nguyên và Nghệ An, công nhân thường xuyên phải làm ca kíp, rất ít sinh hoạt tại phòng nên các phòng trọ luôn trong tình trạng đóng cửa.
121
tăng lên 300.000 đồng34.
Trong khi đó, dựa trên nguồn lực đất đai vốn có và nguồn tài chính từ
bồi thường đất, ngay thời điểm đầu đã có nhiều hộ gia đình xác định cho thuê
nhà trọ sẽ là một phương thức sinh kế quan trọng, đem lại thu nhập ổn định
nên họ đã đầu tư xây các phòng trọ rộng và có tiện nghi đầy đủ:
Năm 2005, nhà chú xây ở đầu ngõ (giáp với mặt đường) 1 dãy nhà trọ có 3 phòng cho thuê, mỗi phòng rộng 25 m2, với giá 400.000 đồng /tháng,
hiện nay tăng lên 1.000.000 đồng. Các phòng trọ đều khép kín, có gác
xép, lợp mái kim loại, bên trên bắn thêm lớp mái để chống nóng. Vì các
phòng trọ vừa rộng, thoáng mát, tiện đường đi lại vừa có khuôn viên nên
được nhiều hộ gia đình công nhân có con nhỏ yêu thích, có gia đình đã
thuê ở đây 10 năm rồi, năm ngoái mới mua đất ở làng để xây nhà
(T.V.Đ, tổ 6).
Thời điểm từ 2013 - đến năm 2017. Do ảnh hưởng từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, hầu hết các doanh nghiệp có vốn
FDI (từ doanh nghiệp kỹ thuật cao đến doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động)
tại KCN Quang Minh đều chịu tác động của suy thoái kinh tế ở nhiều cấp độ
khác nhau. Đối mặt với khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp phải cắt giảm
sản xuất và chi phí nhân công. Hệ lụy là số lượng lớn công nhân bị sa thải
hoặc được khuyến khích nghỉ việc, đồng nghĩa với việc số lượng phòng trọ tư
nhân ở Gia Trung không có người thuê, ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia
đình. Tuy nhiên, 5 năm sau tác động của cuộc khủng hoảng, hoạt động kinh
doanh nhà trọ ở Gia Trung đã được phục hồi. Các dãy nhà trọ được xây dựng
với mật độ dày, đầu tư xây mới với quy mô và chất lượng phòng tốt, diện tích
rộng, được lát gạch hoa, trần xốp để chống nóng; có buồng tắm, vệ sinh khép
kín, gác xép, kệ bếp, v.v. Một số khu trọ được lắp đặt camera, tường bao và
cổng ra vào chắc chắn, có nhiều mức giá cho thuê loại phòng trọ này, dao
122
động từ 500.000 - 1.000.000 đồng /tháng.
Hiện gia đình tôi đang sở hữu khu nhà trọ gồm 9 dãy nhà một tầng, với 31 phòng. Đây là mảnh đất rộng 1.700 m2 từ thời ông bà để lại, trước
đây gia đình ở ngôi nhà ngói 3 gian. Từ năm 2005, tôi bắt đầu xây 2
dãy trọ ở ngay bên cạnh nhà ở để tiện trông nom và quản lý; hai năm
sau tôi xây tiếp 2 dãy nhà nữa. Sau khi gia đình tôi chuyển sang ở nhà 2
tầng mới xây ra khu đất gần đường, tôi cải tạo nhà ngói thành 3 phòng
để cho thuê. Với nguồn tiền tiết kiệm được từ việc cho thuê nhà trọ, đến
năm 2014, tôi lại đầu tư xây tiếp 4 dãy trọ nữa. Các phòng có diện tích 10-15 m2, 5 dãy nhà xây trước đều dùng chung nhà tắm và vệ sinh, khu
nhà xây sau thì khép kín. Giữa các dãy nhà trọ đều có khoảng sân rộng,
trồng một số giàn dây leo tạo không khí mát mẻ. Để đảm bảo vệ sinh
chung, tôi yêu cầu công nhân thuê trọ phải thay phiên nhau thu rác và
làm vệ sinh (N.V.N, tổ 7).
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017; Bản vẽ: Đỗ Minh Nghĩa
123
Hình 5.1: Các loại hình nhà trọ cho thuê tại Gia Trung năm 2017
Thường thì các dãy nhà trọ được xây tách biệt với chủ hộ hoặc có lối ra
vào riêng biệt, vì thế khi một người thuê ra vào phòng trọ của mình không
phải chia sẻ bất kỳ không gian với chủ nhà hoặc người thuê khác. Việc xây
dựng những khu trọ này để thúc đẩy sự riêng tư, đảm bảo người thuê nhà
không xâm phạm cuộc sống của chủ nhà hoặc người thuê nhà khác và đảm
bảo an ninh cho khu trọ. Sống trong các phòng trọ này phần lớn là hộ gia đình
công nhân hoặc công nhân nghề có mức thu nhập ổn định. Nguồn thu nhập
hàng tháng mà chủ hộ nhận được từ những phòng trọ này luôn ổn định và duy
trì ở mức cân bằng.
Nhà trọ cao tầng
Bên cạnh phòng trọ cho thuê giá rẻ, nhiều công nhân có thu nhập cao, ổn
định nhưng chưa có khả năng mua nhà riêng lại muốn tìm nơi ở tiện nghi, sạch
sẽ và yên tĩnh. Nắm được nhu cầu này, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư
xây dựng nhà trọ cao tầng - thuộc loại hình nhà kiên cố. Loại hình nhà trọ này
bắt đầu xuất hiện ở làng Gia Trung từ năm 2013 - 2014, đến nay (2017) có
khoảng 30 hộ có nhà cho thuê. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của chủ hộ mà
các tòa nhà cao từ 3-6 tầng, có kết cấu khung bê tông cốt thép chịu lực.
Khác với hiện tượng tự phát trong xây dựng các dãy nhà trọ cho thuê,
để xây dựng những khu nhà trọ xây cao tầng, chủ hộ phải được cấp giấy phép
xây dựng và kinh doanh nhà trọ, phải kê khai thông tin nhà trọ, số lượng
phòng trọ và phải làm biên bản đăng ký tạm trú tạm vắng cho tất cả công
nhân thuê trọ, đồng thời chịu sự quản lý trực tiếp của đội Cảnh sát khu vực.
Trong số nhà trọ cao tầng thì khu nhà trọ của anh T.A.T (tổ 6) được
đánh giá tốt nhất, một nhà trọ kiểu mẫu trên địa bàn làng Gia Trung.
Theo anh T., khi dự định xây khu trọ này, anh phải cân nhắc và lên
mạng Internet tham khảo mẫu mã cùng các loại vật liệu để xây, đồng
124
thời anh tự thiết kế và lên ý tưởng mời thợ xây. Tuy biết đầu tư mạo
hiểm, nhưng anh T. rất tự hào thành quả của mình: “Đứng trước nhu
cầu về nhà trọ ngày càng cao, trong khi số lượng lớn nhà trọ ở Gia
Trung ngày càng xuống cấp, năm 2014, vợ chồng anh vay vốn ngân
hàng gần 900 triệu đồng để xây khu trọ 3 tầng này, gồm 11 phòng, mỗi
phòng rộng 20 m2, được lát gạch hoa, ốp tường cao 80 cm, có kệ để
Tivi, trang bị 1 giường, gác xép, phòng khép kín; dãy hành lang được
ốp gạch, rộng 1,5 m để tiện đi lại và tủ để giầy dép; sân phơi quần áo, 1
khu để xe riêng, được khóa cẩn thận. Hiện có 8 phòng là hộ gia đình
thuê, thường là có con nhỏ, cho nên một số hộ còn tận dụng khoảng
không ở ban công để trồng các loại rau cho trẻ ăn dặm” (Tài liệu điền
dã của tác giả năm 2017).
Phòng trọ trong nhà ở gia đình
Bên cạnh các loại nhà trọ xây một tầng hoặc nhiều tầng thì vài năm trở lại đây, ở Gia Trung còn có loại hình trọ ở trong hộ gia đình35, thường là các
hộ gia đình không sử dụng hết diện tích phòng hiện có nên đem cho thuê để
tăng thêm thu nhập.
Khi tiến hành điền dã dân tộc học năm 2017, lúc đầu tôi dự định thuê
phòng trọ ở dãy nhà trọ có chủ nhà ở cạnh để dễ dàng quan sát các hoạt
động sinh kế của hộ gia đình và cuộc sống công nhân thuê trọ. Tuy
nhiên, tôi đã gặp khó khăn khi tìm phòng trọ loại này, bởi các khu nhà
trọ thường ưu tiên đối tượng cho thuê là công nhân. Thêm vào đó là tâm
lý không thích có người lạ “không làm gì” mà chỉ “ngồi quan sát họ”
của phần lớn công nhân. Vì vậy, sau 2 ngày tìm không được nơi để ở, tôi
đã thuê phòng trọ trong một hộ gia đình có 2 người sống.
Đó là căn nhà 3 tầng có 7 phòng, trước đó chủ hộ đã cho thuê 3 phòng.
35 Số lượng phòng trọ loại này không được thống kê một cách chính xác, bởi phòng trọ được phân tán ở trong các hộ gia đình.
125
Chủ hộ cho biết, do con cái đều đi làm ăn xa hoặc lập gia đình riêng
nên nhiều phòng không sử dụng đến. Vì thế, cho thuê một số phòng là
cách không để lãng phí tài nguyên, tuy nhiên việc cho thuê chỉ mang
tính chất tạm thời, khi con cái họ quay trở về nhà thì sẽ dừng việc cho
thuê phòng lại” (Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017).
Loại hình phòng trọ này thường nằm rải rác trong các căn nhà cao tầng
hoặc trong một số nhà ở truyền thống. Không có mức giá cho thuê cụ thể, bởi
việc cho thuê thường tạm thời và không ổn định. Khi cho thuê, chủ hộ sẽ đưa
ra một số yêu cầu và quy định đối với người thuê trọ, nhất là yêu cầu về mặt
thời gian và thái độ sống, người thuê sẽ sống chung cùng nhà với chủ hộ, chia
sẻ không gian chung và nhiều vật dụng sinh hoạt. Vì thế, với những công
nhân thích sự tự do, thoái mái thì những phòng trọ này sẽ không bao giờ nằm
trong lựa chọn của họ.
Đặc điểm loại hình nhà trọ
Những mô tả ở trên cho thấy một số đặc điểm chính về nhà trọ ở làng
Gia Trung. Loại hình nhà trọ rất đa dạng và phù hợp với điều kiện thu nhập
của từng đối tượng, trong đó, nhà trọ giá rẻ chiếm số lượng lớn nhất và tùy
thuộc vào từng thời điểm mà nhà trọ có sự chuyển đổi công năng và giá trị sử
dụng để trở thành một nguồn sinh kế của hộ gia đình. Phần lớn nhà trọ thường
nằm trong các ngõ xóm, chỉ có một số khu nhà trọ cao tầng nằm bám hai bên
mặt đường làng.
Điều kiện phòng trọ chưa được cải thiện, phần lớn là phòng có diện tích
trung bình 10-15 m2 (chiếm khoảng 70%), được xây dựng với tường gạch,
mái lợp kim loại và tiện nghi đơn giản, chưa đảm bảo các điều kiện sinh hoạt
(nấu ăn, giặt, phơi quần áo); chất lượng dịch vụ điện, nước, vệ sinh, an ninh,
môi trường sống còn nhiều bất cập; thiếu hụt không gian phục vụ nhu cầu của
126
đời sống tinh thần.
Bảng 5.1: Phân loại tiện nghi sinh hoạt và thu nhập từ nhà trọ
Loại hình nhà trọ
Tiêu chí
Nhà một tầng
Nhà cao tầng
(nhà ngói/nhà cấp 4)
Không gian
Nằm ở mặt sau hoặc bên cạnh với chủ
Nằm cạnh đường làng, lối ra vào
phân bố
hộ, được xây dựng chủ yếu trong ngõ.
thuận tiện.
Thiết kế
Mang tính tự phát, phòng trọ chật hẹp,
Được thiết kế, phòng rộng, thoáng
công trình
công trình phụ xuống cấp, mất vệ sinh
mát, công trình phụ khép kín
Vốn đầu tư Tự phát, nhỏ lẻ trong quy mô hộ gia
Vốn đầu tư lớn, đến từ nhiều
đình
nguồn đầu tư khác nhau: tích lũy
hộ gia đình, vay mượn, vay vốn
ngân hàng v.v.
Tiện nghi
Không có đầy đủ tiện nghi và dịch vụ
Thỏa mãn được yêu cầu về tiện
sinh hoạt
cần thiết, người thuê trọ phải sử dụng
nghi và dịch vụ của người thuê. Đề
chung một số tiện nghi và dịch vụ
cao tính riêng tư trong không gian
sinh hoạt.
Nội quy
Không áp dụng nội quy quá chặt chẽ. Áp dụng nội quy chặt chẽ bằng
sinh hoạt
nhiều hình thức: cung cấp đầy đủ
thông tin cá nhân cho chủ hộ, quy
định giờ giấc sinh hoạt, hạn chế
người lạ ra vào
Mức thu
Mức giá cho thuê không ổn định, dao
Giá cho thuê ổn định, trung bình từ
nhập /tháng
động từ 300.000-800.000 đồng /phòng
800.000-1.500.000 đồng /tháng.
Nguồn thu nhỏ lẻ, phục vụ sinh hoạt
Khoản thu lớn, có thể tích lũy
của hộ gia đình
thành khoản đầu tư.
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2011, 2017
An ninh trong các khu nhà trọ được quản lý ở nhiều mức độ khác nhau
và ngày càng được kiểm soát chặt chẽ, khu nhà trọ nằm liền kề với chủ hộ
thường có an ninh tốt hơn bởi chủ hộ có thể kiểm soát số lượng người ra vào,
127
trông coi phòng và tài sản cho người thuê, ngược lại ở những khu trọ riêng
biệt, xa chủ nhà thì an ninh tương đối lỏng lẻo, thường xuyên xảy ra hiện
tượng mất cắp tài sản, v.v.
5.1.3. Vai trò của kinh doanh nhà trọ với sinh kế hộ gia đình
Nghiên cứu vai trò của nhà trọ đối với sinh kế hộ nếu chỉ đề cập đến
thu nhập bằng tiền từ việc cho thuê là không đầy đủ mà còn phải phân tích và
nhận diện được những người cho thuê nhà trọ - họ là ai, họ đã tận dụng các
nguồn lực sinh kế vốn có của cá nhân và hộ gia đình như thế nào để nắm bắt
cơ hội sinh kế mà khu công nghiệp mang lại, cũng như xem xét tác động của
nhà trọ trong việc hình thành mối quan hệ giữa chủ trọ và người thuê trọ.
Góp phần đa dạng hóa thu nhập
Các chuyên gia về nhà ở cho rằng, tạo ra nhà ở là một hoạt động kinh tế
quan trọng tại hầu hết các thành phố. Xây dựng nhà ở không chỉ sản sinh ra
tài sản là chính ngôi nhà đó mà nó còn tạo ra nhiều loại hoạt động kinh tế thứ
cấp như: người lao động có việc làm và sau đó là tiêu tiền ở địa phương, tư
liệu sản xuất được mua từ các ngành công nghiệp hỗ trợ của thành phố và
những doanh nghiệp cung ứng, và nhà ở mới thu hút đầu tư ở những nơi nó
được xây dựng, và theo đó tạo ra giá trị gia tăng với khu đất gần đó [Un-
Habitat, 2011]. Nhìn nhận giá trị kinh tế mà nguồn vốn tự nhiên (đất thổ cư)
và hoạt động kinh doanh nhà trọ mang lại, dựa trên tài liệu thực địa, cho phép
tôi chỉ ra rằng nguồn thu nhập hiện nay của hộ gia đình ở Gia Trung đến từ
nhiều sinh kế khác nhau, nhưng hơn 50% hộ có thu nhập từ hoạt động cho
thuê nhà trọ, với mức thu nhập dao động từ 1.500.000 đến hàng chục triệu
đồng /tháng. Tùy thuộc vào diện tích đất thổ cư dưới dạng quyền sử dụng đất
của hộ gia đình mà họ có số lượng phòng cho thuê nhiều hay ít và giữ vai trò
nguồn tạo sinh kế như thế nào.
Có 320 hộ (chiếm khoảng 80%) cho biết cho thuê nhà trọ là một trong
những nguồn thu nhập hàng tháng bên cạnh thu nhập từ làm công nhân, buôn
128
bán và bổ trợ từ sản xuất nông nghiệp:
“Nguồn thu nhập hàng tháng của gia đình tôi gồm tiền lương làm công
nhân của vợ chồng con trai, lương làm bảo vệ trong khu công nghiệp của
chồng tôi, tiền thu từ 7 phòng trọ cho thuê và một số nguồn thu bổ trợ từ
việc bán rau màu do tôi tranh thủ trồng khi có thời gian” (P.Tr, tổ 6).
Trong khi đó, trên 70 hộ gia đình lại tập trung vào diện tích đất thổ cư
và xem vốn tài sản này như một nguồn thu nhập thay thế ưu tiên. Họ bắt đầu
đầu tư xây dựng nhiều phòng trọ cho thuê và lấy hoạt động cho thuê nhà trọ
trở thành một hoạt động sinh kế chính, đóng góp đáng kể tạo ra sự khác biệt
xã hội trong làng.
Bà N.T.H (tổ 6) chia sẻ: “Gia đình tôi bắt đầu cho thuê nhà trọ từ năm
2005, ban đầu chỉ cải tạo ngôi nhà ngói cũ thành 3 phòng cho thuê với
giá 250.000 và 300.000 đồng /tháng. Tuy nhiên, thời gian sau ngôi nhà
này xuống cấp trong khi nguồn thu không đáng kể nên năm 2013, gia
đình đã phá bỏ để xây nhà cao tầng cho thuê. Tòa nhà 5 tầng, mỗi tầng
4 phòng, giá cho thuê từ 800.000 - 1.200.000 đồng /phòng. Trung bình
mỗi tháng đem lại thu nhập cho gia đình xấp xỉ 20 triệu đồng. Theo tôi,
đây là hình thức kinh doanh đơn giản, nhàn hạ nhưng lợi nhuận. Vì
vậy, cho thuê nhà là nguồn thu nhập chính của gia đình tôi hiện nay”.
Nguồn thu nhập từ cho thuê nhà trọ được các chủ hộ dùng cho nhiều
mục đích khác nhau như để trang trải sinh hoạt phí của gia đình, để hỗ trợ chi
phí sửa chữa hoặc xây dựng nhà ở mới, đồng thời còn là một khoản bảo trợ
trước thực trạng nghề nghiệp bấp bênh khi chủ nhà chuyển từ phương thức
làm nông được bảo đảm nguồn lương thực sang hình thức tự trả lương cho
bản thân và gia đình. Ngoài ra, nhiều hộ gia đình còn dành nguồn thu bằng
tiền hàng tháng, tích lũy thành khoản để tái đầu tư vào nhà trọ, dùng để sửa
chữa các phòng trọ xuống cấp, mua sắm thiết bị mới trang bị cho phòng trọ và
mở rộng xây mới thêm các phòng trọ cho thuê, nhằm gia tăng thêm nguồn tài
129
sản và vốn tài chính cho hộ gia đình.
Nhìn sự phát triển của nhà trọ cho thấy đây là loại hình dịch vụ mới
xuất hiện trong không gian làng. Nếu như nhà trọ xuất hiện ở Gia Trung là do
sự xuất hiện của số lượng lớn công nhân nhập cư trong khu công nghiệp thì
ngược lại, ở một số làng ven đô gần với trung tâm đô thị Hà Nội như các làng
Xuân Đỉnh, Phú Mỹ và Trung Kính Thượng, nhà trọ xuất hiện sớm hơn, bắt
nguồn từ chính số lượng lớn học sinh, sinh viên các trường đại học, người đi
làm trong các cơ quan và công nhân xây dựng đến làm thuê trong các công
trường xây dựng.
Nguồn vốn để xây dựng nhà trọ chính là nguồn tiền nhận được từ bồi
thường đất, tiền bán đất và tiền tích lũy của các hộ gia đình với nhiều dạng
nhà trọ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện đầu tư của từng gia đình. Điều này
cũng được mô tả qua những người kinh doanh nhà trọ ở làng Phú Mỹ, khi mà
“sau một vài đợt chuyển đổi đất đai, phần lớn lao động nông nghiệp tại Phú
Mỹ không còn canh tác nữa vì hệ thống thủy lợi đã bị phá hủy bởi nhiều công
trình xây dựng trên đất bị thu hồi. Sự gián đoạn này dẫn tới sự cần thiết phải
tìm kiếm những nguồn sinh kế mới. Tận dụng cơ hội về nhu cầu nhà trọ tăng
cao, người dân Phú Mỹ bắt đầu đầu tư xây dựng nhà ở, bao gồm một ngôi nhà
kiên cố cho họ, thêm vào đó là những ngôi nhà đơn giản với nhiều phòng trọ
cho thuê. Tuy nhiên một vài năm sau, năm 2011 người dân đã có thể kiếm
được nhiều tiền và đầu tư thêm vốn để xây dựng các tòa nhà nhiều tầng cho
thuê, một số thậm chí còn xây dựng khách sạn và cao ốc văn phòng cho thuê”
[Nguyễn Văn Sửu 2014, tr.125-127].
Ở làng Gia Trung, quá trình thu hồi đất đã làm xáo trộn phương thức
sinh kế truyền thống của người dân. Để thích ứng với tình trạng này, đa số hộ
dân làng tận dụng diện tích đất thổ cư của gia đình để xây nhà cho thuê. Cho
thuê nhà trọ có thể là nguồn thu nhập chính và quan trọng của một số hộ gia
đình, song với đa số hộ gia đình, nhà trọ chỉ là một trong những nguồn thu
nhập, góp phần đa dạng hóa chiến lược sinh kế. Tất cả những yếu tố này đã
130
làm thay đổi lối sống của người dân và cộng đồng làng Gia Trung.
Chủ hộ cho thuê và tư duy kinh doanh nhà trọ
Do chịu tác động bởi việc thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp và
đô thị mà những người nông dân vốn là lực lượng lao động chính trên cánh
đồng làng đã buộc phải chuyển hướng sinh kế, lấy đất đai hiện có (đất thổ cư)
của gia đình làm nguồn tạo sinh kế và thu nhập qua việc xây nhà cho thuê. Họ
trở thành những “chủ nhà cho thuê nhỏ” (nhà trọ tư nhân) trên chính mảnh
đất cư trú của gia đình.
Thời gian đầu, hoạt động cho thuê nhà diễn ra tự phát và theo tâm lý
đám đông. Với những lợi thế về vị trí gần khu công nghiệp, thuận tiện đi lại
(đi bộ, xe đạp hoặc xe máy), làng Gia Trung trở thành địa điểm lựa chọn nhà
trọ đầu tiên với nhiều công nhân. Ở đây, người dân làng đã biến đất ở của gia
đình - vốn trước đây được sử dụng để phục vụ nhu cầu của chính chủ hộ (nhà,
vườn, chuồng trại, phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp trong bối cảnh sản xuất
nông nghiệp) thì nay, dưới tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa, họ đã
luân chuyển nguồn vốn tự nhiên này thành một loại bất động sản với vị trí cố
định của nó và biến thành một loại tài sản đặc biệt mang lại nguồn thu nhập
hàng tháng bên cạnh nguồn thu từ làm công nhân và các hoạt động dịch vụ
khác. Tuy nhiên, người dân ở làng ban đầu không coi hoạt động này là một
chiến lược tạo sinh kế lâu dài và ổn định, các hộ gia đình không muốn đầu tư
nhiều tiền bạc và tài nguyên đất đai vào hoạt động này, đồng thời việc xây
nhà trọ được chủ hộ tự ý xây dựng không theo một khuôn mẫu nào cả. Sự đơn
giản về chỗ ở xuất phát từ yêu cầu đơn giản của người thuê nhà. Điều này
cũng do thực tế là người dân thời bấy giờ không coi hoạt động này là một
chiến lược sinh kế lâu dài, mà chỉ xem là một công cụ “giúp các hộ gia đình
sống tạm thời ổn định trong khi chưa chuyển đổi sang được nghề mới“ [Trần
Thị Hồng Yến 2012, tr.148].
Sau vài năm, để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người thuê trọ,
131
nhiều hộ thấy rằng hoạt động cho thuê trọ cung cấp một lộ trình cho những
thứ tốt hơn, vì thế các chủ hộ đã từng bước thay đổi tư duy và cách làm của
mình để hút khách. Về tiện ích, các dãy phòng trọ được xây dựng theo cấu
trúc khép kín, có camera theo dõi, giờ giấc tự do và lắp đặt Internet, v.v.
Ngoài ra, chủ hộ còn xây dựng thái độ thân thiện với người thuê trọ, họ chú ý
tới nhiều yếu tố khác nhau để làm sao vừa có khách thuê phòng lại vừa đảm
bảo nguồn lợi nhuận. Một vài người trở thành chủ nhà thương mại, chuyên
kinh doanh nhà trọ.
Có thể thấy rằng, cho thuê nhà trọ là một hoạt động dịch vụ được xuất
phát từ mối quan hệ cung và cầu: một bên có nhà nhưng lại không sử dụng hết
và một bên không có nhà nhưng có nhu cầu sử dụng nhà để ở. Vì vậy, sự ra
đời và phát triển loại hình dịch vụ này ở Gia Trung là một tất yếu khách quan,
có vai trò quan trọng trong việc tạo thu nhập hộ gia đình và góp phần thay đổi
nhận thức của người dân trong chiến lược kinh doanh. Đây cũng là nguyên
nhân tạo ra sự khác biệt về giá cả giữa các loại nhà trọ cũng như vị trí của nhà
trọ cho thuê.
Mối quan hệ giữa chủ nhà và người thuê trọ
Hoạt động cho thuê nhà trọ là sự tương tác giữa chủ nhà cho thuê và
những người có nhu cầu đi thuê. Thông qua hoạt động này, người thuê nhà
phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để được quyền sử dụng nhà thuê đó trong
một thời gian nhất định theo hợp đồng ký kết hoặc thỏa thuận giữa hai bên,
đồng thời thông qua hoạt động này, người cho thuê nhà bên cạnh việc luân
chuyển quyền sở hữu bất động sản này còn có một khoản thu nhập từ hoạt
động này. Do vậy, “Không phải tất cả chủ nhà đều là quỷ, không phải tất cả
người thuê nhà đều là thiên thần” [Un-Habitat 2011, tr.20-21] như một thuyết
minh rõ nhất về mối quan hệ phức tạp giữa chủ nhà và người thuê nhà, bởi
đây là quan hệ được xác lập trên hợp đồng và những thỏa thuận ngầm về
quyền và lợi ích giữa hai bên. Về bản chất, các thỏa thuận cho thuê trọ giữa
chủ nhà và người đi thuê không thuộc phạm vi quản lý của chính quyền địa
132
phương mà mang tính cá nhân và những thỏa thuận ngầm không chính thức.
Ở Gia Trung, rất dễ tìm thấy những trường hợp công nhân thuê nhà
luôn tìm đủ lý do để không thanh toán tiền thuê nhà đúng hạn hoặc là bỏ trốn
mà không thông báo cho chủ nhà biết, thực tế này trở thành “nỗi ấm ức” của
các chủ nhà trọ. “Mấy năm trước, không ít công nhân thuê trọ đã lợi dụng
lòng tin của gia đình tôi để xin khất nợ rồi bỗng nhiên “bốc hơi” trong một
đêm. Do không có thông tin về người thuê nên tôi đã phải “nuốt” sự bực tức
vào người. Hiện nay, để tránh tình trạng này, gia đình tôi cũng như nhiều chủ
trọ trong làng đã “áp dụng biện pháp mạnh” bằng cách yêu cầu nộp tiền nhà
ngay từ đầu tháng; nếu quá ngày sẽ bị cắt điện, nước hoặc khóa cửa phòng”
(N.V.Th, tổ 6). Có không ít trường hợp chủ nhà trọ phải “kêu trời” vì những
thói quen xấu của người thuê: “tôi rất bực mình vì nhiều công nhân thuê trọ
thiếu ý thức trong việc giữ gìn vệ sinh chung. Nhiều khi nhắc nhở không
được, tôi phải đưa ra quy định phạt tiền nếu phát hiện hành vi vứt rác bừa bãi
thì tình trạng này mới giảm” (X., tổ 7).
Trong đa số trường hợp, chủ nhà sẵn sàng chấp nhận cho thuê đối với
mọi đối tượng là công nhân làm việc trong khu công nghiệp và họ sẽ đưa ra
một số yêu cầu về giá thuê, những quy định của chủ nhà với người đi thuê.
Trong một số tình huống khác, chủ nhà lại ưu tiên tìm kiếm đối tượng thuê trọ
là các hộ gia đình công nhân, bởi họ kỳ vọng những cặp vợ chồng này sẽ quan
tâm đến phòng thuê, có ý thức trong việc bảo quản đồ dùng và giữ vệ sinh
phòng trọ sạch sẽ. Tuy nhiên, bất kể tình huống gì xảy ra, để duy trì mối quan
hệ tốt đẹp, luôn cần có sự cho và nhận ngang nhau từ cả hai phía, mà chìa
khóa nằm ở cách giao tiếp. Nghiên cứu thực địa của tôi ít thấy sự căng thẳng
trong mối quan hệ giữa chủ nhà và người thuê trọ ở Gia Trung, mà thay vào
“Lúc đầu, mục đích gia đình tôi thuê trọ ở đây là do tiền thuê nhà rẻ.
đó là mối quan hệ thân thiện và tương trợ lẫn nhau.
Tuy nhiên, sau một thời gian vào ở, chúng tôi rất thích khu trọ này bởi
133
nó không chỉ có gian rộng lại mát mẻ, mà chúng tôi còn được chủ nhà
cho phép sử dụng một số không gian chung như sân chơi, vườn cây ăn
quả. Vì là xóm trọ toàn hộ gia đình trẻ nên những người lần đầu làm mẹ
như tôi cùng 3 người khác đều được bác chủ nhà chia sẻ rất nhiều kinh
nghiệm trong việc sinh đẻ, nuôi dưỡng và chăm sóc con cái, cũng nhận
được sự trợ giúp trong việc trông nom và đưa đón con cái đi học khi
chúng tôi phải đi làm về muộn hoặc tăng ca. Ngược lại, mấy hộ gia đình
chúng tôi phân công nhau giúp đỡ bác chủ nhà dọn vườn, ngày mùa thì
giúp phơi thóc và một số việc khác, v.v. Dịp cuối tuần, chúng tôi thường
xuyên tổ chức ăn uống tại sân vườn nhà bác chủ nhà, không có phân
biệt chủ nhà - người thuê trọ” (P.T.H, 25 tuổi).
Đa số chủ nhà được phỏng vấn đều khẳng định họ luôn có và giữ mối
quan hệ thân thiện với người thuê trọ và biết quê quán, hoàn cảnh, thu nhập
của từng người thuê trọ ở trọ nhà mình, đó là cơ sở để chủ nhà trọ có mối
quan hệ thân quen, hỗ trợ với người thuê trọ khi cần thiết. Trong thực tế, với
đặc thù đa số công nhân làm việc trong khu công nghiệp là người nhập cư,
việc tạo ra một môi trường sống an toàn, thân thiện cho họ cùng với chủ nhà
và người dân địa phương là hết sức cần thiết. Với quy định của pháp luật hiện
nay, việc quản lý nhân thân vẫn căn cứ vào Hộ khẩu thường trú, địa vị pháp lý
của người dân phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền địa phương nơi họ đăng
ký Hộ khẩu thường trú.
5.2. Sự phát triển hoạt động dịch vụ
Như đã đề cập, phát triển khu công nghiệp kéo theo sự xuất hiện của
nhiều loại hình dịch vụ trong không gian làng Gia Trung. Cùng với dịch vụ
cho thuê nhà trọ, thì các hoạt động buôn bán, ăn uống (gồm những người
buôn bán vặt tại các ngõ, chợ tạm, ở hộ gia đình, v.v.) góp phần làm đời sống
kinh tế ở làng Gia Trung trở nên đa dạng và sôi động hơn trong tiến trình
134
chuyển đổi dần sang lối sống đô thị.
5.2.1. Dịch vụ buôn bán thương mại
Trong lịch sử, kinh tế của làng Gia Trung chủ yếu là hoạt động sản xuất
nông nghiệp, các hoạt động buôn bán dịch vụ cũng có nhưng thường được coi
là nghề phụ và làm lúc nông nhàn. Chỉ từ đầu thế kỷ XXI, nhất là sau khi xuất
hiện khu công nghiệp và các khu đô thị thì hoạt động sinh kế này mới phát
triển sôi nổi trong không gian làng. Đây là kết quả tất yếu mà quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã tạo ra, nhằm bổ sung cho sự thiếu hụt của
nền kinh tế, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của người dân địa
phương và số lượng lớn công nhân nhập cư.
Nhìn vào đường địa giới, thấy rõ dịch vụ buôn bán ở Gia Trung tập
trung chủ yếu dọc hai bên đường làng với nhiều hình thức kinh doanh đa
dạng. Ở thời điểm năm 2017, tôi thống kê dọc hai bên đường làng có 27 cửa
hàng ăn uống (riêng đoạn đường nối với khu công nghiệp dài khoảng 100 m
đã có tới 6 cửa hàng cơm phở), 21 cửa hàng quần áo, 19 cửa hàng tạp hóa, 7
cửa hàng hoa quả, 4 cửa hàng vàng bạc, 11 cửa hàng bán, sửa chữa điện thoại,
một loạt quán cắt tóc, v.v. Những con số này cho thấy các hoạt động dịch vụ
thương mại đã xuất hiện và phát triển ngày càng mạnh ở làng. Những người
nông dân vốn làm nông nghiệp thì nay đã chuyển sang làm buôn bán, xem
đây là một sinh kế quan trọng; tuy nhiên, người dân địa phương thường chỉ
làm chủ các cửa hàng tạp hóa, lương thực thực phẩm, quán cóc vỉa hè có quy
mô vừa và nhỏ. Sự biến đổi của hoạt động sinh kế này thường diễn ra ở cấp
độ cá nhân thay vì cấp độ hộ. Khảo sát của tôi cho thấy nếu xét ở cấp độ hộ
gia đình thì chuyển đổi không nhiều và không rõ rệt, chỉ có khoảng 15% hộ
gia đình ở Gia Trung có nguồn thu nhập trực tiếp từ hoạt động sinh kế này,
đây là con số khiêm tốn trong sự phát triển rầm rộ của phương thức sinh kế
này trong không gian làng. Điều này có nghĩa là đa số cửa hàng có quy mô
135
lớn (điện thoại, vàng bạc, đồ lưu niệm, hoá mỹ phẩm, quần áo giày dép, nhà
nghỉ, ăn uống, v.v.) là do người nhập cư kinh doanh. Khi hộ gia đình có đất
mặt đường không muốn hoặc không đủ điều kiện kinh doanh buôn bán thì
việc cho thuê cửa hàng đem lại cho họ một nguồn thu nhập không nhỏ. Trong
trường hợp này, nguồn lực đất đai tiếp tục trở thành một lợi thế rất lớn đối với
sinh kế của nhiều hộ gia đình ở làng.
Cháu biết không, dọc hai đường làng trước đây là đường mương nước,
hay ngập úng lắm, có ai ở đâu. Trước đây khu nhà này là một cái ao. Năm 1994, ông mua với giá 3 triệu đồng, rộng tới 300 m2. Năm 2004,
ông xây 6 gian nhà cấp 4 lợp mái tôn để cho thuê trọ, về sau nhu cầu
thuê cửa hàng nhiều quá, ông chuyển sang cho thuê cửa hàng kinh
doanh. Tùy vào vị trí và diện tích mà giá cho thuê từ 3,5 - 5 triệu đồng
/tháng. Giờ giá đất nằm dọc mặt đường này đắt lắm, 25 triệu đồng /1m2, nhưng ông không muốn bán. Bởi với 6 gian hàng này, đủ cho gia
đình ông chi tiêu thoải mái rồi (T.V.T, 71 tuổi, tổ 6).
Sức tiêu thụ và nhu cầu mua bán hàng hóa của người dân Gia Trung và
lao động nhập cư tuy có tăng lên nhưng chỉ tập trung vào một số loại mặt
hàng thiết yếu, trong đó sức tiêu dùng của lao động nhập cư chiếm tới ¾
lượng hàng hóa bán tại địa phương, tập trung vào các mặt hàng ăn uống và
tiêu dùng hàng ngày. Sự phát triển rầm rộ các hoạt động buôn bán và dịch vụ
đã và đang lấn chiếm không gian công cộng ở địa phương, gây ách tắc giao
thông khi công nhân tan tầm trở thành vấn đề thường nhật trong không gian
cư trú của làng. Chính quyền địa phương cố gắng dẹp bỏ các hoạt động sinh
kế gây ách tắc giao thông bằng nhiều biện pháp khác nhau: tịch thu, xử phạt
hành chính các trường hợp lấn chiếm lòng đường; tuyên truyền, vận động,
36 Một chợ mới có tên Quang Minh được xây dựng trên diện tích đất thuộc làng Gia Thượng, nằm cách chợ tạm Gia Trung khoảng 300 m. Dựa trên nguồn kinh phí từ thu hồi đất để hỗ trợ xây dựng
136
thậm chí cưỡng ép người bán hàng tập trung về các gian hàng đã được quy hoạch trong chợ Quang Minh mới36, nhưng chỉ được thời gian rất ngắn, họ lại
quay về bán hàng dọc hai bên đường làng với lý do “công nhân đi làm về mua
bán ở đây rất thuận tiện, chứ họ không vào chợ Quang Minh mua bán gì đâu,
vừa không tiện đường lại gửi xe bất tiện lắm” (T.T.Đ, 48 tuổi, tổ 6).
Nhìn vào bức tranh sinh kế hiện nay ở Gia Trung chúng ta thấy rõ sự
chuyển đổi từ nông nghiệp sang đan xen giữa các hoạt động sinh kế gắn với
nông nghiệp và phi nông nghiệp, từ nặng về tự cung tự cấp dịch chuyển sang
sự trao đổi và hoạt động buôn bán thương mại. Thực tế này cho thấy các hoạt
động thương mại là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự sôi động trong không
gian làng. Ở góc độ thu nhập, hoạt động dịch vụ buôn bán dù chưa đóng góp
nhiều vào cơ cấu nguồn thu nhập của cá nhân và hộ gia đình, nhưng là một
trong những nguồn thu nhập phi nông nghiệp không nhỏ, đặc biệt là đối với
các hộ gia đình cho thuê cửa hàng kinh doanh.
5.2.2. Dịch vụ trông trẻ
Bên cạnh dịch vụ cho thuê nhà trọ và buôn bán thương mại, thì sự xuất
hiện của nhóm công nhân nhập cư trên địa bàn làng Gia Trung làm nảy sinh
một hoạt động sinh kế phụ trợ, bổ sung nguồn thu nhập cho một số lao động
trung tuổi sau khi bị thu hồi đất, đó là dịch vụ trông trẻ.
Như đã đề cập ở phần trên, phần lớn công nhân di cư thuê trọ trên địa
bàn làng Gia Trung là nữ và đang trong độ tuổi sinh đẻ, hầu hết con cái họ
đều đang ở độ tuổi từ 1 đến 5 (chiếm 75% tổng số trẻ của gia đình công nhân
trên địa bàn), nên nhu cầu gửi trẻ rất cao. Hệ quả là tình trạng quá tải trong hệ
thống trường học, nhất là trường mầm non khi số lượng trẻ trung bình mỗi lớp
từ 50 - 60 trẻ /lớp. Điều đáng nói là hệ thống giáo dục mầm non công lập trên
địa bàn không đáp ứng được nhu cầu chăm sóc trẻ dưới 24 tháng tuổi, vì thế,
sự xuất hiện của dịch vụ trông trẻ trong các hộ gia đình là một cách thỏa mãn
137
nhu cầu này. cơ sở hạ tầng của tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa nhà 3 tầng đã hoàn thành từ năm 2007, nhưng đến nay chỉ có 10 gian hàng mở cửa kinh doanh (quần áo, mỹ phẩm, chụp ảnh, v.v.) ở một phần sảnh tầng 1, còn lại thì bỏ hoang. Dấu hiệu xuống cấp đã xuất hiện rõ.
Dịch vụ trông trẻ ở Gia Trung xuất hiện ban đầu từ sự tin tưởng và nhờ
vả của một số hộ gia đình công nhân dành cho phụ nữ trung tuổi là chủ nhà
trọ nơi họ đang ở, nhưng với số lượng trẻ ngày càng nhiều thì nhu cầu thuê
người trông trẻ đã tăng nhanh chóng. Xuất hiện hai phương thức trông trẻ tại
hộ gia đình. Một số chủ nhà trọ ngoài làm việc nhà, họ tận dụng thời gian
rảnh để nhận trông thêm trẻ, hình thức này tồn tại không chỉ là một sự tương
trợ mà còn là một cách kiếm sống.
Trước đây bác ở nhà trông cháu ngoại. Hai năm trở lại đây, khi các
cháu đã lớn thì bác nhận thêm trẻ để trông. Hiện bác đang trông một
bé 16 tháng tuổi cho một cặp vợ chồng công nhân người Nghệ An.
Lương mỗi tháng là 1.700.000 đồng. Nếu tuổi bé càng nhỏ thì số tiền
càng tăng lên. Mỗi trẻ, bác sẽ trông từ lúc 6 tháng tuổi cho đến 18
tháng hoặc 2 tuổi, sau đó chúng sẽ được cho đi học. Hàng ngày, bác
nhận trẻ từ 6 giờ 30 hoặc 7 giờ sáng đến 5 giờ 30 hoặc 6 giờ chiều,
nghỉ ngày chủ nhật. Buổi sáng, bố mẹ bé sẽ mang quần áo, sữa và phần
cháo ăn 2 bữa của bé đến nhà để bác cho ăn. Tuy nhiên, hoạt động này
không thường xuyên và không ổn định, bởi nó còn tùy thuộc vào mối
quan hệ, uy tín của gia đình (D.T.Nh, sinh năm 1958).
Một phương thức khác hoạt động dưới hình thức nhóm trẻ hộ gia đình,
mỗi nhóm thường có từ 3 đến 5 trẻ tuổi từ 6 tháng đến 24 tháng tuổi, “bảo
mẫu” chủ yếu là phụ nữ ở độ tuổi 50 - 60. Công việc trông trẻ hàng ngày của
họ là cho các bé chơi, ăn, ngủ và dạy một số kỹ năng qua kinh nghiệm của
chính họ, tập trung vào chăm sóc trẻ em nhiều hơn là giáo dục. Hoạt động này
trở thành một công việc có hợp đồng, thỏa thuận giữa hai bên, đem lại thu
nhập hàng tháng cho một bộ phận quá tuổi lao động. Năm 2008, mức thu
nhập trung bình từ hoạt động này dao động từ 300.000 - 600.000 đồng, tăng
138
lên 2.000.000 - 2.500.000 đồng /tháng năm 2017.
Tiểu kết chƣơng 5
Chương này cho thấy thu hồi đất để phát triển công nghiệp và đô thị ở
Gia Trung một mặt làm giảm sinh kế nông nghiệp truyền thống, mặt khác lại
tạo ra và thúc đẩy các hoạt động sinh kế phi nông nghiệp. Nắm bắt các cơ hội
sinh kế phi nông nghiệp do lao động nhập cư mang lại, nhiều hộ gia đình ở
làng Gia Trung đã tận dụng nguồn vốn tự nhiên (đất thổ cư) và vốn vật chất
(nhà cửa) để phát triển hoạt động cho thuê nhà trọ và mặt bằng kinh doanh
dịch vụ, coi đây là một chiến lược sinh kế thay thế cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Với sự phát triển của khu công nghiệp, diện tích đất thổ cư của
hộ gia đình nông dân đã được chuyển hóa thành một nguồn lực đem lại vốn
tài chính cho hộ gia đình thông qua các hoạt động sinh kế phi nông nghiệp
khác nhau như đã phân tích ở trên.
Thực tế này làm cho thu nhập của hộ gia đình được tạo ra từ nhiều
nguồn khác nhau, trong đó thu nhập từ cho thuê nhà trọ chiếm một phần quan
trọng và trở thành một nguồn thu chủ đạo của nhiều gia đình. Sự phát triển
của hoạt động sinh kế này cũng kích thích dẫn đến sự xuất hiện và phát triển
của nhiều hoạt động dịch vụ khác trong không gian làng, điển hình là dịch vụ
buôn bán và dịch vụ trông trẻ. Nói về dịch vụ buôn bán là đề cập đến phương
thức hoạt động của hai nhóm đối tượng, một là của người dân địa phương có
quy mô nhỏ lẻ, kinh doanh các mặt hàng mang tính chất truyền thống, hai là
của những người từ nơi khác đến, có quy mô lớn, tập trung vào các mặt hàng
hiện đại. Còn dịch vụ trông trẻ là sự linh hoạt của người dân, mà cụ thể là
nhóm phụ nữ trung tuổi do khó tìm được việc làm. Họ đã tận dụng cơ hội, kỹ
năng và cơ sở vật chất của hộ gia đình để trông những đứa trẻ vốn là con cái
của hộ gia đình công nhân di cư. Nếu xem xét kỹ thì đây là những hoạt động
sinh kế có tính bấp bênh cao, bởi sự phát triển của sinh kế được kích thích và
139
chịu tác động trực tiếp từ yếu tố người nhập cư.
Chƣơng 6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Trong các chương 3, 4 và 5, tôi đã phân tích ba chiến lược sinh kế
chính gắn với sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và kinh doanh dịch vụ mà
người dân làng Gia Trung đã và đang thực hiện nhằm giúp họ đạt được mục
tiêu sinh kế của cá nhân và hộ gia đình. Ba chiến lược sinh kế được mô tả và
phân tích riêng biệt thành các chương, cho thấy đặc điểm và hiện trạng biến
đổi của từng sinh kế đối với cá nhân và hộ gia đình. Đồng thời, cũng thấy
được vai trò của nguồn vốn sinh kế: tự nhiên (đất đai), vốn con người, vốn xã
hội trong sự thích nghi để tạo ra sự đa dạng sinh kế. Trên cơ sở đó, trong
chương 6 tôi đưa ra những phân tích khái quát nhấn mạnh đến các kết quả
sinh kế mà người dân ở làng Gia Trung đã đạt được với mục tiêu tạo ra sự kết
nối giữa các chương - nhằm phác họa bức tranh tổng thể về biến đổi sinh kế
và đa dạng sinh kế trong không gian làng. Đồng thời, hướng vào nhận diện và
phân tích một số biến đổi về văn hóa, xã hội và môi trường, từ đó luận án nêu
lên một số gợi ý chính sách hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc ổn định đời
sống của người dân trên phương diện sinh kế.
6.1. Một số vấn đề đặt ra từ biến đổi sinh kế
6.1.1. Đa dạng sinh kế
Biến đổi sinh kế ở làng Gia Trung là một quá trình đa dạng hóa sinh kế
ở một làng ven đô dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa. Những
phân tích ở các chương 3, 4 và 5 cho thấy rõ các hộ gia đình đã xác lập nhiều
chiến lược sinh kế khác nhau trong đó mỗi sinh kế đều có một vai trò nhất
định trong việc tạo thu nhập và nâng cao mức sống của cá nhân, hộ gia đình
và cộng đồng.
Nếu như trước đây, sản xuất nông nghiệp giữ vai trò là sinh kế chính và
chi phối đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân thì sau khi bị thu
140
hồi đất, sản xuất nông nghiệp bị suy giảm nhanh chóng. Thực tiễn cho thấy,
hoạt động nông nghiệp còn lại hiện đang được người dân ở làng Gia Trung
tiến hành trong điều kiện không bền vững và hoàn toàn tự phát. Đa dạng hóa sinh kế nổi lên như một chiến lược phổ biến nhất, gắn với gần 90% số hộ37.
Mỗi hộ gia đình thường có từ 2-3 chiến lược sinh kế. Biểu hiện phổ biến của
đa dạng sinh kế trong không gian làng ở cấp độ hộ gia đình là sự đa dạng
công việc, các thành viên cùng sống trong một mái nhà nhưng làm việc ở
những nơi, môi trường khác nhau và có sự phân công lao động dựa theo độ
tuổi, giới tính và trình độ chuyên môn: lao động trung tuổi/ người già vẫn sản
xuất nông nghiệp ở một mức độ nhất định để bổ trợ nguồn lương thực; phần
lớn lao động trẻ và một bộ phận lao động trung tuổi đi làm trong khu công
nghiệp và tham gia vào hoạt động cho thuê phòng trọ và dịch vụ buôn bán
khác. Thực tế này không là vấn đề của một người chuyển từ một công việc
này sang công việc khác, mà nó là tiến trình năng động của cả cộng đồng
làng. Đặt trong bối cảnh tổng thể của một làng ven đô sau khi bị thu hồi
quyền sử dụng đất, các chiến lược sinh kế mới này trước hết là kết quả mong
muốn đạt được của mục tiêu sinh kế và là sự thích nghi của người dân trong
điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của địa phương trong bối cảnh chịu tác động
trực tiếp từ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, cũng như trong một bối
cảnh rộng hơn - một bối cảnh xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi theo hướng
kinh tế thị trường, đô thị hóa, công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế.
Các hộ gia đình bị thu hồi nhiều đất hơn có xác suất tham gia các sinh
kế phi nông nghiệp nhiều hơn và kết quả sinh kế cũng tốt hơn. Các hộ gia
đình vẫn còn đất nông nghiệp thì cơ hội đa dạng hóa sinh kế cao hơn, khi họ
vẫn gắn với nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Đối với nhóm hộ này, bên
cạnh hoạt động sinh kế nông nghiệp thì còn tham gia các hoạt động phi nông,
37 Đây là nhận định của ông Bí thư tổ dân phố số 7 (phỏng vấn năm 2017).
141
trong đó có dịch vụ cho thuê nhà trọ. Ở đây, yếu tố đất đai dù là dưới dạng đất
ở hay đất nông nghiệp đều có vai trò quan trọng đối với chiến lược sinh kế
nông nghiệp (gắn với đất nông nghiệp) hoặc cho thuê nhà trọ (đất ở) của hộ
gia đình.
Một xu hướng tương tự cũng diễn ra ở một làng ven đô thuộc huyện
Hoài Đức (Hà Nội), khi mà chiến lược sinh kế chỉ dựa vào nông nghiệp được
coi là ít sinh lợi hơn so với một chiến lược đa dạng hóa sinh kế hoặc chuyên
về một hoạt động sinh kế phi nông nghiệp khác [Tran Quang Tuyen 2013]. Ở
một cộng đồng ven đô khác, làng Hòa Mục, trong những năm 1990 nền kinh
tế của làng đã phát triển mạnh theo hướng đa dạng hóa, hoặc phi nông nghiệp.
Theo đó, hơn một nửa số hộ trong làng tiếp tục thực hành sinh kế nông nghiệp
trong quá trình đa dạng hóa hoạt động sinh kế của mình [Cerise và cộng sự
2018, tr.76]. Các trường hợp này củng cố cho nhận định tiếp tục sản xuất
nông nghiệp không phải là một rào cản đối với quá trình đa dạng hóa sinh kế
ở các làng ven đô.
6.1.2. Suy giảm sản xuất nông nghiệp
Tài liệu nghiên cứu cho thấy một bức tranh đa dạng về nông nghiệp và
xã hội nông thôn Việt Nam từ trong ba thập kỷ qua. Ở khu vực ven đô Hà
Nội, nhất là ở các cộng đồng làng đối diện với công nghiệp hóa và đô thị hóa
thì sự phát triển công nghiệp và đô thị trong hầu hết các trường hợp đã làm
suy giảm diện tích đất nông nghiệp, từ đó làm suy giảm và rồi có thể làm biến
mất hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Ở làng Gia Trung, quá trình thu hồi đất và biến đổi sinh kế đã làm cho
sinh kế gắn với sản xuất nông nghiệp của người nông dân bị suy giảm nhanh
chóng. Trong tương lai, khi đất nông nghiệp bị thu hồi toàn bộ thì sinh kế
nông nghiệp và xã hội nông dân vốn đã tồn tại nhiều thập kỷ ở làng cũng sẽ
có thể bị biến mất. Dấu hiệu đầu tiên và quan trọng nhất của sự suy giảm sản
xuất nông nghiệp và xã hội nông dân ở Gia Trung bắt đầu từ việc làng bị thu
142
hồi một diện tích lớn đất nông nghiệp trong những năm đầu thế kỷ XXI để
xây dựng khu công nghiệp, đô thị và trung tâm thương mại, v.v. Tiền bồi
thường thu hồi đất từ đợt chuyển nhượng này đã được người dân dùng cho
nhiều mục đích khác nhau song phổ biến nhất là dành phần lớn khoản tiền vào
việc sửa sang nhà cửa, xây mới và mua sắm trang thiết bị hiện đại như: xe
máy, tivi, tủ lạnh, điều hòa, v.v. Điều này đánh dấu sự tách dần khỏi môi
trường xã hội nông thôn thông qua sự hiện diện của lối sông đô thị và các sinh
kế và lối sống phi nông nghiệp ở cả cấp độ cá nhân, hộ và cộng đồng. Như
vậy, không chỉ những đặc tính của sinh kế gắn với nông nghiệp ở Gia Trung
ngày càng mờ nhạt, mà các sinh hoạt hàng ngày trong cuộc sống của họ cũng
có sự chuyển đổi ở các cấp độ và trong các chiều cạnh khác nhau như vừa
phân tích ở trên. Quá trình biến đổi này làm cho cộng đồng làng Gia Trung có
sự đang xen về sinh kế, lối sống, văn hóa và thành phần xã hội trong đó có
người nông dân (peasant), có người sản xuất nông nghiệp theo hướng thị
trường (farmer), có người công nhân và có những người kinh doanh dịch vụ
hay không có việc làm.
Tuy nhiên, những người sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường chỉ
hoạt động cầm chừng do hạn hẹp về nguồn lực đất đai, nguồn lực con người và
cơ chế chính sách, gắn với việc duy trì quyền tài sản với đất là chính. Thông
qua việc duy trì quyền tài sản với đất, những người bám lấy nghề nông vẫn giữ
được thói quen sản xuất nông nghiệp của mình và thu về sự an toàn trong vấn
đề cung ứng nguồn lương thực bổ trợ cho gia đình bên cạnh nguồn thu nhập
bằng tiền mặt từ các hoạt động phi nông nghiệp khác. Trong tương lai, phần
lớn những người nông dân còn lại ở Gia Trung sẽ già đi và không thể sản xuất
nông nghiệp, nguồn lực đất đai còn lại có thể sẽ bị thu hồi để phát triển công
nghiệp, đô thị và dịch vụ. Do vậy, sản xuất nông nghiệp và sinh kế gắn với
nông nghiệp ở đây sẽ hoàn toàn biến mất là một thực tế có thể diễn ra.
Nhìn rộng ra thì hiện tượng suy giảm nghề nông và sản xuất nông
143
nghiệp đã được thảo luận trong nhiều công trình nghiên cứu về nông thôn và
biến đổi sinh kế nông thôn ở nhiều nơi trên thế giới. Bryceson [2002] nhấn
mạnh rằng ở vùng hạ Sahara (châu Phi), quá trình “phi nông nghiệp hóa”
(Deagrarianization) dưới tác động của chính sách điều chỉnh cơ cấu và tự do
hóa thị trường đã diễn ra và buộc người nông dân ở khu vực này phải chuyển
đổi sinh kế truyền thống gắn với sản xuất nông nghiệp hướng sang đa dạng hóa các hoạt động phi nông nghiệp để có thu nhập bằng tiền mặt38. Câu
chuyện “phi nông nghiệp hóa” tiếp tục được Rigg [2005] khẳng định trong
nghiên cứu của tác giả về nông thôn Đông Nam Á. Bằng việc dẫn dụ một loạt
nghiên cứu về đất đai, sinh kế gắn với sản xuất nông nghiệp, Rigg khẳng định
“chúng ta không chỉ thấy sự tách rời sinh kế khỏi đất đai, và vì thế kéo đến sự
tách biệt nghèo đói với đất đai, mà với một số trường hợp còn cho thấy sự
tách rời giữa sự thịnh vượng với các hình thức sở hữu đất đai”, đồng thời dẫn
đến sự đa dạng hóa nguồn thu nhập gắn với hoạt động phi nông. Các nghiên
cứu này cho thấy sự tương đồng với xu hướng biến đổi sinh kế đã và đang
diễn ra ở làng Gia Trung.
6.1.3. Tính bền vững của biến đổi sinh kế
Thực tiễn quá trình biến đổi sinh kế của người dân ở làng Gia Trung
cho thấy các kết quả sinh kế đạt được mới chỉ giúp cải thiện sinh kế theo
hướng có cuộc sống khá hơn về mặt thu nhập, nhưng các vấn đề liên quan đến
sự an toàn và thịnh vượng còn là một khía cạnh cần tiếp tục quan sát. Quá
trình biến đổi từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, từ nông thôn sang đô thị
ở địa bàn này cho thấy những mặt trái của quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa, như sự bất lực của chính quyền địa phương trong kiểm soát chuyển đổi
38 Một chương trình nghiên cứu lớn có tên là “Phi nông nghiệp hoá và phát triển nông thôn” (De- agrarianization and Rural Development), (gọi tắt DARE) do các nhóm nghiên cứu châu Phi thực hiện trong suốt những năm 1996-1998 ở 6 nước: Ethiopia, Nigeria, Tanzania, Malawi, Zimbabwe và Nam Phi. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự đa dạng nổi bật về quy mô dân số, mức độ đô thị hóa, sự đóng góp của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc gia; tuy nhiên, tất cả 6 nước đều trải qua “quá trình phi nông nghiệp hoá” và cụ thể hơn là “quá trình phi nông dân hoá”.
144
và đầu cơ đất đai, ô nhiễm môi trường đang là những thách thức không nhỏ.
Năm 2018, các cấp chính quyền Hà Nội kỷ niệm 10 năm mở rộng
thành phố với nhiều thành công và vận hội lớn cho thành phố. Tuy nhiên, đối
với một cộng đồng như Gia Trung thì ngay cả khi một bộ phận dân cư được
hưởng lợi về sinh kế và cuộc sống thì việc thu hồi một diện tích rất lớn đất
nông nghiệp của làng trong một thời gian ngắn đã gây ra những xáo trộn ảnh
hưởng đến cộng đồng. Những tồn tại trong chính sách thu hồi, nhất là chính
sách hỗ trợ đất dịch vụ đã kéo dài hơn thập kỷ vẫn chưa được giải quyết,
trong khi đó diện tích đất nông nghiệp còn lại của các hộ gia đình ở làng thì
manh mún, xen kẹt xung quanh khu công nghiệp, khu đô thị và hệ thống cơ
sở hạ tầng, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Một kết luận quan trọng ở chương 3 cho thấy, vấn đề đảm bảo an toàn
nguồn cung lương thực là một trong những nguyên nhân để nhiều người dân ở
làng Gia Trung vẫn canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất này
đang đối diện với việc thiếu đảm bảo các nguồn lực sinh kế và bị đe dọa do
ảnh hưởng ô nhiễm môi trường nước, đất từ khu công nghiệp. Mục tiêu của
chính sách phát triển là góp phần cải thiện sinh kế của người dân nhưng đi
cùng với sự cải thiện cũng đe dọa đến an toàn về môi trường sản xuất của
chính người dân. Do vậy, kết quả này phần nào giúp định vị lại chính sách
phát triển của chính quyền.
Ở đây, vai trò của chính quyền địa phương trong quá trình chuyển đổi
đất đai và biến đổi sinh kế rất mờ nhạt, họ là lớp công cụ cuối cùng thực thi
chính sách phát triển từ chính quyền bên trên. Hệ quả chính của vấn đề này là
do việc phân cấp hành chính ra bên ngoài vốn từ các khu vực đô thị trung tâm
ra các làng ven đô, thông thường là sự gia tăng dân số di cư từ khu vực nông
thôn. Tuy nhiên, những thay đổi ngoại vi như vậy không nên xem xét một
cách tách biệt khỏi bối cảnh đô thị rộng lớn vì là các quy trình và mô hình
quan sát đã chỉ ra rằng ở khu vực rìa đô thị có liên kết rất phức tạp với một
145
chuỗi biến đổi không gian rộng lớn. Nhìn một cách trực quan, hiện tượng này
khác biệt trong so sánh với trường hợp phát triển ở làng Dong Mei, một thành
phố cổ thuộc Tuyền Châu (Trung Quốc). Từ giữa những năm 1990, ở đây bắt
đầu diễn ra quá trình chuyển đổi đất đai để phục vụ mục tiêu đô thị hóa, với
sự tham gia tích cực của chính quyền thôn Dong Mei trong việc phát triển đất
đai, mặc dù điều này trái với quy hoạch ban đầu của thành phố nhưng lại phù
hợp với thực tiễn lâu năm về quyền tự trị của cấp thôn bản trong các quyết
định sử dụng đất của địa phương. Lớp quyền lực này có thể được nhận diện
trong sự phát triển ở lĩnh vực nhà ở - cho thấy cách thức ra quyết định về phát
triển trong khu vực này được hình thành thông qua đàm phán giữa chính
quyền thành phố và thôn làng [Leaf 2002, tr.25-26]. Do vậy, nếu như những
thay đổi đô thị ở Việt Nam được coi là kết quả của quá trình tiếp diễn toàn
cầu hóa thì công nghiệp hóa, đô thị hóa ở các làng ven đô như Gia Trung cần
được coi là những biểu hiện quan trọng trong quá trình này và là những dấu
hiệu mới của kiểu mẫu khu công nghiệp gắn với các khu đô thị, trung tâm
thương mại mới trong thế kỷ XXI.
Đánh giá khía cạnh phát triển bền vững của các nguồn lực sinh kế, một
nhận định phổ biến mà luận án này đưa ra là dưới tác động phát triển của
công nghiệp hóa, đô thị hóa đã đe dọa đến các nguồn lực sinh kế của người
dân ở làng Gia Trung, hiện nay phương thức sinh kế của người dân đều phụ
thuộc vào nguồn lực phi nông nghiệp gắn với một chuỗi giá trị chịu tác động
bởi các điều kiện chủ quan và khách quan của cơ chế thị trường, bất kỳ sự
thay đổi nào đều ảnh hưởng đến sinh kế của họ. Tuy người dân đã có sự linh
hoạt, chủ động trong quá trình chuyển đổi và thích nghi sinh kế, song năng
lực thích ứng với một số nguồn lực sinh kế vẫn còn thấp và dễ bị tổn thương.
6.2. Biến đổi sinh kế góp phần vào biến đổi văn hóa, xã hội và môi trƣờng
6.2.1. Biến đổi văn hóa
Biến đổi sinh kế theo hướng đa dạng hóa các hoạt động sinh kế ở làng
146
Gia Trung đồng thời dẫn đến những biến đổi về văn hóa ở cộng đồng làng.
Những biểu hiện cụ thể của biến đổi văn hóa được thể hiện ở nhiều góc độ
khác nhau. Trước hết, đó là sự phục hồi và tái tạo giá trị văn hóa truyền thống
được thể hiện rõ nét ở các di tích và lễ hội hàng năm của làng trong bối cảnh
đô thị hóa và công nghiệp hóa. Như đã đề cập, các di tích tâm linh của làng đã
có sự biến đổi trong lịch sử theo hướng đa số bị phá hủy hoặc chuyển đổi
chức năng. Tuy nhiên, trong khoảng 3 thập kỷ trở lại đây, đình và chùa của
làng đã được trùng tu, tôn tạo và xây mới, trong đó đình làng Gia Trung được
xây lại hoàn toàn mới vào năm 2005 - 2006 với phần lớn kinh phí được trích
từ tiền bồi thường diện tích đất công (bờ, mương, bến bãi, v.v.) trong quá
trình thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp. Ngoài ra, lễ hội và các hoạt động
tâm linh gắn với lễ hội, với đình và chùa của làng được hồi sinh, trở thành
một phần quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng làng.
Vào dịp lễ hội hàng năm, trong khi một số nghi lễ được thực hiện bên
trong đình do người cao tuổi trong làng thực hiện thì cũng có nhiều hoạt động
mang tính chất lễ hội được tổ chức ở bên ngoài đình do chính quyền và các tổ
chức địa phương thực hiện. Giống như ở một số cộng đồng làng khác [xem
Phương Châm 2016, tr.288], chúng ta thấy ở Gia Trung có sự phối hợp giữa
cộng đồng và chính quyền địa phương trong việc phục hồi, quản lý và thực
hành các nghi lễ văn hóa ở làng. Các nghi thức lễ hội mang tính chất cộng
đồng nhưng đều tuân thủ chính sách và quy định của chính quyền nhà nước.
Một điểm mới ở đây là sự phục hồi và gia tăng các hoạt động lễ hội của làng
trong những năm vừa qua có sự đóng góp của nhiều doanh nghiệp hoạt động
trên diện tích đất nông nghiệp thu hồi từ các hộ gia đình ở Gia Trung.
Hội làng thu hút số lượng rất lớn người tham gia, gồm cả người dân địa
phương và lực lượng công nhân nhập cư. Đây là dịp làm cho mối quan hệ
giữa hai thành phần cư dân “chính cư” và cư dân “ngụ cư” ở làng được củng
cố, thắt chặt thông qua nhiều hoạt động trong hội làng, như dự hội, xem hội,
147
ăn uống và giao lưu. Ngoài ra, không gian đình, chùa ở làng hàng ngày trở
thành nơi một số người dân nhập cư đến cúng, lễ, cầu mong cho họ thuận lợi
trong làm ăn và cuộc sống, nghĩa là các không gian đình, chùa của làng Gia
Trung không chỉ là của người làng Gia Trung mà đã trở thành không gian tâm
linh cho cả một bộ phận công nhân nhập cư đến giải tỏa những căng thẳng, lo
toan của cuộc sống công nhân công nghiệp và bằng cách đó đã tạo ra mối liên
kết giữa họ với cộng đồng địa phương. Từ phía cộng đồng làng, với mục tiêu
sinh kế bằng cách người dân Gia Trung cho thuê nhà trọ thì họ cũng linh hoạt
tiếp nhận sự tham gia của những người lao động nhập cư không chỉ ở trong
không gia cư trú của họ mà còn ở cả trong không gian tâm linh của cộng đồng
địa phương.
Những biến đổi văn hóa trong không gian tâm linh của Gia Trung như
trên cho thấy trong khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp và
đô thị làm biến đổi sinh kế của các hộ gia đình và cộng đồng làng Gia Trung
thì nó lại làm hồi sinh và có đóng góp vào sự biến đổi các thực hành và không
gian văn hóa truyền thống của làng.
6.2.2. Biến đổi xã hội
Sự xuất hiện khu công nghiệp và khu đô thị đã tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ trong lối sống của cư dân ở cộng đồng làng.
Một trong những biển hiện đầu tiên là công nghiệp hóa và đô thị hoá
góp phần gia tăng đáng kể thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống dân cư,
như đã được phân tích ở các chương trước. Tuy nhiên, quá trình biến đổi ở
làng cũng đang tạo ra một số vấn đề xã hội, trong đó có sự phân hoá giàu
nghèo giữa các hộ gia đình nông dân. Một cộng đồng dân cư giờ đây có nhiều
khác biệt về sinh kế, trình độ giáo dục, địa vị xã hội. Những hộ gia đình có
điều kiện kinh doanh tốt lại nhanh chóng nắm bắt cơ hội, đồng thời thích ứng
với điều kiện sinh kế mới, làm cho thu nhập hàng tháng của hộ không ngừng
gia tăng. Khảo sát của tôi cho thấy số hộ gia đình có mức thu nhập bình quân
148
20 triệu đồng/tháng ở Gia Trung chiếm khoảng 50% tổng số hộ, bao gồm các
nguồn thu nhập hàng tháng từ cho thuê nhà trọ, cho thuê mặt bằng kinh doanh
hoặc làm công nhân, và các sinh kế khác. Ngoài ra, quá trình phát triển này đã
làm cho giá đất ở Gia Trung tăng lên nhanh chóng, làm cho những hộ nông
dân có nhiều đất ở trở thành những người có nhiều tài sản.
Giới là một vấn đề đáng chú ý gắn với quá trình biến đổi về xã hội ở
làng Gia Trung. Do sản xuất nông nghiệp chỉ còn là hoạt động sinh kế mang
lại nguồn lương thực bổ trợ, vì thế, cơ hội chuyển đổi sinh kế và tăng nguồn
thu tài chính từ việc tham gia các hoạt động phi nông nghiệp lại đến với phụ
nữ nhiều hơn. Thực tế này ít nhiều cho thấy sự thay đổi cơ cấu lao động của
hộ gia đình, đồng thời làm thay đổi vai trò của nam giới và nữ giới ở đây ở
một số góc độ nào đó. Rất nhiều hộ gia đình ở làng có cả vợ và chồng làm
công nhân trong khu công nghiệp, nhưng cũng có những hộ có vợ làm công
nhân còn chồng tham gia vào các hoạt động sinh kế tự do; theo đó người
chồng ở các hộ này đã có sự chia sẻ và thay đổi vai trò khi họ đảm nhiệm
nhiều hơn công việc chăm sóc con cái và gia đình vì người vợ phải dành
nhiều thời gian làm việc trong khu công nghiệp. Cùng với đó là những thay
đổi đáng kể khác trong lối sống hằng ngày trong gia đình những hộ có người
làm việc trong khu công nghiệp vì chế độ làm việc theo ca, trong trường hợp
này cho thấy có sự điều chỉnh phân công lao động và lịch sinh hoạt trong
nhiều hoạt động hằng ngày ở cấp độ hộ gia đình.
Tôi trò chuyện với một số người dân ở Gia Trung, họ nói về nhiều khía
cạnh khác nhau của đời sống dân cư trước sự phát triển của công
nghiệp và đô thị. Nhận định chung mà người dân đưa ra là cách đây
gần một thập kỷ, bữa cơm hàng ngày thường có mặt đầy đủ các thành
viên trong gia đình, mọi người cùng sum họp chia sẻ với nhau; thì nay,
bữa cơm của gia đình không bao giờ đủ mặt các thành viên, mỗi người
ăn một giờ, ngủ một buổi, không theo quy định nào cả. “Nhà có 7
149
người, 2 con gái làm việc trong khu công nghiệp, một đứa thường làm
việc từ 2h chiều đến 7h hoặc 11h tối, có hôm đến 4h sáng ngày hôm sau,
đứa còn lại hôm nào cũng ra khỏi nhà từ 6h30 sáng đến tận đêm mới về,
các ngày nghỉ chủ nhật cũng đi làm tăng ca, có khi cả tuần không được
ăn cơm chung với tụi nó, mặc dù sống cùng một nhà”, T.V.Tr, tổ 6 (Tài
liệu điền dã của tác giả năm 2017).
Biến đổi xã hội cũng diễn ra ở cấp độ cộng đồng, thể hiện rõ nhất là
thay đổi trong ứng xử của người dân trong dịp hôn nhân theo hướng làm suy
giảm vai trò của các mối quan hệ làng xã trong quy trình tổ chức hôn lễ.
Trong bối cảnh một bộ phận lớn lao động trẻ ở làng làm việc trong khu công
nghiệp hoặc ở đâu đó bên ngoài làng, cùng với đó là mạng lưới kết hôn của
những người trẻ được mở rộng ra bên ngoài làng, việc tổ chức đám cưới có
hướng thu hẹp vào trong phạm vi họ hàng, bạn bè trong đó có đối tượng công
nhân nhập cư. Một thực tế khác cần được chú ý là trong quá trình công nghiệp
hóa và đô thị hoá, những hủ tục trong hôn nhân đã bị loại bỏ, thay vào đó
người phụ nữ Gia Trung ngày càng được bình đẳng hơn trong các mối quan
hệ vợ chồng, gia đình và họ hàng.
6.2.3. Biến đổi không gian sống
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở làng Gia Trung không chỉ
tác động sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần ở các phương diện sinh kế,
văn hóa, xã hội mà còn làm biến đổi không gian sống của cộng đồng làng.
Ở cấp độ cộng đồng, không gian làng Gia Trung đã có nhiều biến
đổi,thực tế này dẫn đến sự biến đổi quan trọng về diện mạo và đường biên của
không gian cư trú. Với đặc điểm của một làng quê Bắc Bộ truyền thống, có
không gian cư trú nằm biệt lập với không gian canh tác, làng được bao quanh
bởi lũy tre xanh, nhưng từ cuối những năm 1990 lũy tre làng dần dần bị chặt
phá và đến nay đã gần như biến mất để mở rộng không gian cư trú của làng;
không gian cư trú giờ đã bám sát khu công nghiệp, khu đất dịch vụ và những
150
diện tích đất nông nghiệp còn lại.
Kiến trúc trong không gian cư trú của làng cũng có nhiều biến đổi.
Giống như trường hợp làng Đồng Kỵ [xem Nguyễn Văn Sửu, Chu Thu
Hường 2015], những kiến trúc nhà ở và không gian đường làng, ngõ xóm,
cổng làng, giếng làng, nhà trẻ, nhà văn hóa ở Gia Trung có sự biến đổi theo
hướng các kiến trúc và không gian truyền thống bị thay thế bằng nhiều kiểu
kiến trúc nhà ở và không gian công không theo một quy hoạch nào. Trước
đây, dân làng thường quen với ngõ, xóm, các đội sản xuất và không gian cư
trú tập trung thành xóm thì trong 10 năm trở lại đây, không gian phố thị đã
xuất hiện tràn vào làng, và “mặt đường” trở nên có nhiều ý nghĩa về cả kinh tế
và xã hội. Như đã đề cập ở chương 5, đất mặt đường ngoài tạo ra giá trị kinh
tế cao hơn so với đất trong ngõ, trở thành một nguồn tài sản được các hộ gia
đình sử dụng làm mặt bằng kinh doanh hoặc cho thuê làm cửa hàng, đem lại
nguồn thu nhập cũng như tạo ra sự tiện lợi trong việc đi lại và giao tiếp.
Ở cấp độ hộ, không gian sống của từng hộ gia đình bị biến đổi rõ nhất
theo hướng ngày càng bị thu hẹp. Nhiều gia đình nhờ sở hữu đất đai rộng, đã
có thể chuyển từ nhà ở nông thôn truyền thống (mái ngói, nhà một tầng)
thành nhà bê tông, nhiều tầng và xen ghép nhiều loại hình cư trú khác nhau.
Một số hộ có bán đất cho người từ nơi khác đến (nội thành ra, dân nhập cư
từ nông thôn tới) mua để xây nhà ở, tuy nhiên hiện tượng này không nhiều
(khoảng 5%). Kết quả khảo sát cho thấy có đến 90% hộ gia đình vẫn giữ
nguyên mảnh đất cha ông để lại, dẫn đến sự xuất hiện của 2 loại hình cư trú
mới ở Gia Trung.
Thứ nhất là xuất hiện loại hình cư trú theo nhóm hộ gia đình, nghĩa là
trong khuôn viên khu đất nhà ở của gia đình trước đây giờ được phân chia khu
đất thành nhiều mảnh nhỏ cho con (cháu). Đây là các gia đình hạt nhân tách ra
nhưng vẫn sinh sống xung quanh gia đình gốc, xuất hiện từ 2 đến 4 ngôi nhà
cao tầng của các hộ gia đình hạt nhân (con, cháu) được chia đất, trong đó có
151
một không gian sân có chức năng sử dụng chung cho các hộ gia đình. Không
gian này là nơi thường tổ chức các sinh hoạt chung giữa các hộ như tang ma,
cưới hỏi, giỗ và là nơi vui chơi, nghỉ ngơi cho trẻ em, người già. Với một
không gian chung - sân chung, có cổng ra vào chung, các gia đình hạt nhân đã
tạo thành một nhóm hộ gia đình cư trú quanh sân chung trong đó mỗi hộ gia
đình có một khu đất độc lập (diện tích mỗi khu đất được chia đều) thông qua
một “hàng rào mềm” là cây cảnh hoặc hàng chè mạn được cắt tỉa hoặc một bức
tường thấp, phía trước nhà thường có vườn trồng rau. Mô hình cư trú theo
nhóm hộ gia đình mới này vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt ăn ở, vừa gìn giữ
được các giá trị quần cư của dòng tộc, tạo nên sự cố kết bền vững của các hộ
khi có chung nguồn gốc gia đình; đồng thời đây là kết quả của quá trình biến
đổi cấu trúc từ gia đình lớn “tam đại đồng đường” sang cấu trúc gia đình nhỏ
“hạt nhân” hai thế hệ đang trở thành phổ biến tại nông thôn.
Đây là mảnh đất ông bà để lại cho vợ chồng bác từ năm 1976, rộng 969,7 m2. Trước năm 2000, cả gia đình đều sinh sống trong ngôi nhà
ngói truyền thống rộng 5 gian, có sân gạch rộng, công trình phụ, diện
tích còn lại là vườn rau, cây ăn quả v.v. Từ sau năm 2000, gia đình đã chia mảnh đất thành 3, mỗi mảnh rộng 300 m2 cho 3 người con trai sau
khi ra ở riêng, lấy con đường đi ở giữa chung cho cả 3 hộ gia đình và 2
ngôi nhà được xây mới lùi ra mặt đường để tiện đi lại. Đến khi có khu
công nghiệp vào và công nhân nhập cư đến, các con trai của bác đều
tận dụng đất chưa dùng để xây nhà trọ cho thuê. Vì thế, mảnh đất rộng
thoáng trước đây, nay đã được phủ kín nhà ở và công trình phụ đi kèm.
Trong không gian này, hiện tồn tại và đan xen nhiều loại hình cư trú
như nhà ngói truyền thống, nhà cao tầng (3 tầng), nhà một tầng lợp
mái kim loại. Tuy đã bị biến dạng so với không gian cư trú ban đầu,
song quan trọng nhất đại gia đình bác vẫn cùng cư trú trên một khu
đất, được sống cùng tất cả con cháu là một sự may mắn rất lớn. Bác
152
chỉ mong, các con cháu giữ nguyên được mảnh đất (N.T.O, tổ 6).
Thứ hai là việc các hộ tận dụng khoảnh đất chưa sử dụng để xây nhà trọ
cho thuê, chủ yếu là các căn nhà một tầng lợp mái kim loại với nhiều diện tích
khác nhau. Một điều rất thú vị đó là có đến 50% số nhà ngói cũ truyền thống
của các gia đình không bị phá bỏ mà được tận dụng, sửa sang lại để cho thuê
trọ. Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu cũng cho thấy, tuy không gian cư
trú của hộ gia đình đã bị thu hẹp để xây nhà trọ cho thuê, song không gian của
các dãy nhà trọ hoặc xóm trọ vẫn tương đối rộng rãi. Đa số xóm trọ vẫn có
khoảng đất trống nằm nối giữa các phòng trọ hoặc dãy trọ, đầu tiên khoảng
đất trống này dùng nơi phơi quần áo của công nhân, ngoài ra nhiều công nhân
tận dụng khoảnh đất này để trồng rau sạch hoặc cây cảnh để thư giản sau
những căng thẳng từ môi trường sản xuất công nghiệp. Không gian này
thường chỉ thấy ở các dãy nhà trọ một tầng, điều này chỉ ra không gian đất đai
ở địa bàn nghiên cứu vẫn còn tương đối rộng, chưa bị chật hẹp như các dãy
nhà trọ nằm trong khu vực nội thành Hà Nội.
Theo ý kiến người dân, có nhiều nguyên nhân để họ chưa phá bỏ nhà
cũ này, quan trọng nhất bởi đây là nhà ông cha để lại, nó như một kỷ niệm để
con cháu sau này còn nhớ về đời sống ông cha trước đây và do vốn tài chính
của các hộ gia đình không có nhiều để phá bỏ xây nhà mới. Chính nguyên
nhân này là nhân tố góp phần làm giảm quá trình bán đất và chia tách diện
tích đất ở của các hộ gia đình cũng như trong không gian làng Gia Trung.
Quan sát ở tại làng Phú Mỹ cho thấy kết quả ngược lại, khi mà giá cả đất đai tăng nhanh vào cuối những năm 1990 từ 3 triệu đồng/m2, tăng lên 60 triệu đồng/m2 năm 2007 và năm 2011 tăng lên hơn 100 triệu đồng. Giá cả đất đai
tăng vọt đã khiến cho khoảng 80% dân làng Phú Mỹ đã bán một phần đất ở
của họ cho người mua từ bên ngoài [Nguyễn Văn Sửu, 2014, tr.131].
6.2.4. Ô nhiễm môi trường
Không thể phủ nhận những tác động trực tiếp và gián tiếp của khu công
153
nghiệp đến sinh kế, cải thiện thu nhập và mức sống với người dân sống xung
quanh. Song, khu công nghiệp cũng đã và đang gây ra nhiều vấn đề về ô
nhiễm môi trường (như ô nhiễm nguồn nước, không khí, v.v.) ảnh hưởng
không nhỏ tới cuộc sống của người dân ở làng Gia Trung.
Tình trạng làm ô nhiễm nguồn nước tưới, nước sinh hoạt đã có từ lâu,
ngày càng trở nên trầm trọng. Một số nhà máy, xí nghiệp xả các chất thải công
nghiệp (gồm cả chất thải rắn và lỏng) không qua xử lý hoặc xử lý chưa tốt trực
tiếp ra hệ thống kênh thủy lợi chạy xung quanh làng. Nước thải đen ngòm chảy
ngập vào các thửa ruộng trồng lúa và rau màu của người dân. Toàn bộ diện tích
đất nông nghiệp còn lại của làng Gia Trung cũng như các làng Ấp Tre, thôn
Đồng, Gia Thượng, v.v, đều được lấy từ nguồn nước ô nhiễm này.
“Ruộng của nhà tôi nằm gần với khu công nghiệp, vì thế nước tưới cho
rau màu và ruộng lúa bị nhiễm nặng bởi nước thải công nghiệp. Nước
thì đen ngòm và có mùi hôi; thóc lúa, hoa màu bị thiệt hại, kém năng
suất, đem đi chợ bán thì người mua „tẩy chay‟ vì họ sợ bị ô nhiễm. Tình
trạng trên đã diễn ra nhiều năm khiến nhân dân chúng tôi rất lo lắng”
(bà Ng.T.V, tổ 6).
Sự xuất hiện của khu công nghiệp ngoài làm ô nhiễm nguồn nước mặt,
còn ảnh hưởng đến cả nguồn nước ngầm ở địa bàn khu dân cư xung quanh.
Mặc dù đã có hệ thống cung cấp nước sạch, song phần lớn hộ dân ở Gia
Trung vẫn sử dụng nước giếng khơi. Có một vấn đề là người dân địa phương
thường không dùng nước giếng để ăn uống, tắm giặt mà chỉ dùng cho một số
sinh hoạt phụ trợ, nhưng nguồn nước này lại được dùng để cung cấp cho sinh
hoạt của công nhân nhập cư trong các xóm trọ; “nước bị ố vàng, có mùi tanh”
là những nhận định mà đa số công nhân cảm nhận được - họ thấy lo lắng khi
sử dụng nguồn nước này. Những biện minh mà các chủ nhà trọ đưa ra là do
việc sử dụng nước dịch vụ vẫn chưa phổ biến trên địa bàn, việc lắp đặt hệ
154
thống nước sạch khá tốn kém và giá dùng nước thì đắt đỏ; trong khi đó nhiều
công nhân cũng không có nhu cầu này bởi theo họ dùng nước giếng khơi thì
không phải trả tiền phí dịch vụ và sẽ tiết kiệm được một khoản tiền. Vì thế, ở
nhiều xóm trọ, nước sạch được dùng cho các chủ hộ còn nước giếng khơi
dành cho công nhân thuê trọ, “nước” trở thành tiêu chí để chủ trọ đưa ra mức
giá phòng cho thuê và là căn cứ để người đi thuê lựa chọn, quyết định sẽ thuê
trọ ở đâu và thuê loại phòng nào. Rõ ràng, các nguồn vốn (nước, tiền, tài sản)
trở thành rào cản trong việc tiếp cận nguồn nước của người dân (dân địa
phương và người nhập cư) trên địa bàn xung quanh các khu công nghiệp như
trường hợp làng Gia Trung.
Như đã chỉ ra, tác động đầu tiên và trực tiếp mà khu công nghiệp mang
lại cho người dân ở Gia Trung là đã tạo việc làm cho số lượng lớn công nhân
người địa phương, tuy nhiên có nhiều xí nghiệp, phân xưởng, dây chuyền sản
xuất được vận hành bằng nhiều thiết bị kim loại, các loại hóa chất và khí đốt.
Do vậy, môi trường làm việc của công nhân thường xuyên phải tiếp với yếu
tố độc hại, nhiều công nhân làm việc qua một thời gian đều than vãn khi họ
gặp phải một số vấn đề về sức khỏe. Mặc dù các công việc này được trả mức
lương khá cao nhưng nhiều công nhân thường có suy nghĩ “tranh thủ” làm
việc trong thời gian 1-2 năm sẽ nghỉ việc để tìm công việc khác an toàn về
sức khỏe hơn. Đồng thời, trong quá trình sản xuất, các nhà máy, xí nghiệp
cũng thải ra môi trường một lượng lớn khói đen không qua xử lý, gây ô nhiễm
không khí trầm trọng: “buổi sáng như này thì không có khói đen đâu nhưng
đến chiều là khói xả ra đen sì, mùi khét lẹt. Môi trường xung quanh đây thực
sự rất ô nhiễm” (Đ.T.Kh, tổ 6). Hệ quả là sức khỏe cộng đồng đang bị đe dọa.
Ngoài ra, hệ thống ao hồ, đường mương thủy lợi của làng Gia Trung bị san
lấp và không có đường thoát nước, gây ra hiện tượng ngập úng nghiêm trọng
trong khu dân cư vào mùa mưa. Cuối cùng, sự phát triển của khu công nghiệp
155
kéo theo sự gia tăng nhanh chóng dân số cơ học đến thuê trọ tại địa bàn làng
Gia Trung, có tác động trực tiếp trong việc giúp người dân xây nhà trọ cho
thuê, tăng thu nhập và đa dạng hóa sinh kế. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng
ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề vệ sinh môi trường trong khu dân cư như quá
tải trong xử lý rác thải sinh hoạt hoặc rác thải chưa được thu gom, xử lý một
Có thể nói, quá trình phát triển công nghiệp trên địa bàn làng Gia
cách có quy trình.
Trung đã dẫn đến cạnh tranh tài nguyên như đất (nông nghiệp) và nước giữa
người dân ở làng và các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sinh kế và môi trường của người dân, buộc người
dân hàng ngày phải đối mặt và hít lượng lớn không khí ô nhiễm, phải chấp
nhận nguồn nước bị ô nhiễm và phải thay đổi nhiều dàn xếp về quản lý tài
nguyên. Người dân liên tục viết đơn kiến nghị lên các cấp chính quyền, phản
ánh tại các cuộc họp cử tri, gây sức ép lên khu công nghiệp nhưng đến nay
tình trạng ô nhiễm vẫn chưa được giải quyết và có chiều hướng gia tăng.
“Quá mệt mỏi, những người dân làng chúng tôi đành „tự xử lý‟ để cứu mình,
cứu tương lai của con mình bằng cách tập trung cạnh khu công nghiệp để
phản đối, chúng tôi đã dùng đất lấp kín hai miệng cống xả thải từ khu công
nghiệp ra môi trường” (Tr.N.H, làng Đồng). Những bức xúc, đấu tranh của
người dân địa phương chính là cách họ muốn bảo vệ và cải thiện chiến lược
sinh kế và môi trường sống của mình, phản ánh sự căng thẳng giữa người dân
với khu công nghiệp và giữa người dân với các cấp chính quyền.
6.3. Một số gợi ý chính sách
Phân tích quá trình biến đổi sinh kế của người dân ở làng Gia Trung
dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa cho thấy bên cạnh những
kết quả tích cực trên phương diện sinh kế thì quá trình biến đổi ở đây cũng
tạo ra nhiều vấn đề tồn tại trong thu hồi, hỗ trợ thu hồi đất, v.v. Dù người
156
nông dân đã thích nghi bằng cách đa dạng hóa hoạt động sinh kế, nhất là các
sinh kế gắn với khu công nghiệp, hoạt động kinh doanh dịch vụ, v.v, nhưng
để cho các chiến lược sinh kế này có tính bền vững thì chính quyền địa
phương cần chú ý giải quyết thấu đáo một số vấn đề cho người dân bị thu
hồi đất nông nghiệp.
Ổn định tâm lý người dân.
Thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp và khu đô thị
trên địa bàn làng Gia Trung đã làm suy giảm nghiêm trọng phương thức sinh
kế truyền thống của các hộ gia đình nông dân, buộc họ phải chuyển đổi nghề
nghiệp và thích nghi với sự đa dạng sinh kế. Để có thể hội nhập bền vững vào
môi trường sống đô thị và công nghiệp, người dân ở đây cần có thời gian và
chuẩn bị tâm lý để đối mặt với những biến động do công nghiệp hóa và đô thị
hóa tạo ra. Trong thực tế, người dân không có thời gian chuẩn bị cho những
cú sốc đã diễn ra, vì chỉ trong thời gian 5 năm họ đã phải trải qua nhiều biến
đổi, nhất là những biến đổi về đất đai, sinh kế, văn hóa, xã hội, không gian
sống và cả những biến đổi hành chính liên quan đến sự kiện làng được sáp
nhập về Hà Nội. Tất cả những biến đổi này không khỏi làm cho người dân có
trạng thái tâm lý lo lắng khi gia nhập môi trường sống đô thị và đối mặt
những biến đổi về mọi mặt trong không gian làng. Sự căng thẳng và lo lắng
của người dân là một trong những vấn đề quan trọng, vì thế chính quyền địa
phương cần có các chính sách để người dân được chuẩn bị tốt hơn, có tâm thế
sẵn sàng cho quá trình biến đổi, nhờ đó kiến tạo hiệu quả hơn và thích ứng tốt
hơn đối với chiến lược sinh kế hiện có ở cả cấp độ cá nhân, hộ gia đình và
cộng đồng.
Giải quyết thỏa đáng những tồn đọng trong thu hồi đất.
Chính sách thu hồi đất nông nghiệp cần được tính toán từ cả góc độ
người bị thu hồi đất, đảm bảo họ được thụ hưởng đúng mức các quyền lợi
157
kinh tế, sự tham gia nên được đảm bảo tính dân chủ, tránh cưỡng ép. Về
quyền lợi kinh tế, giá bồi thường và các khoản hỗ trợ cho người bị thu hồi đất
phải tuân thủ nguyên tắc thị trường và tuân thủ luật pháp, có sự nhất quán và
phải thể hiện cho người dân thấy sự phát triển công nghiệp và đô thị ở địa
phương không chỉ vì lợi ích của các doanh nghiệp và nhà nước chung chung,
mà đồng thời phải vì họ và vì cộng đồng của họ.
Thực tiễn triển khai chính sách thu hồi đất và các chính sách phát triển
ở địa phương trong thời gian qua cho thấy (như đã được phân tích ở các
chương 2, 3, 4 và 5) chưa giải quyết thỏa đáng những vấn đề này. Đây chính
là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra những tồn tại và khó
khăn cho cộng đồng nói chung và các hộ gia đình nói riêng trong quá trình
chuyển đổi. Để giải quyết tình trạng này, chính quyền địa phương và các cấp
liên quan cần có giải pháp chính sách cho các vấn đề tồn tại hiện có và chú ý
điều chỉnh chính sách đối với những dự án thu hồi đất tiếp theo ở địa phương.
Hoàn chỉnh quy hoạch diện tích đất nông nghiệp còn lại.
Dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa, hoạt động sản xuất
nông nghiệp ở làng Gia Trung bị suy giảm mạnh. Tuy nhiên, diện tích đất
nông nghiệp còn lại của làng vẫn được người dân canh tác ở những mức độ
khác nhau. Trong điều kiện đất đai manh mún và có chỗ bị bỏ hoang thì việc
tích tụ ruộng đất hay chuyển đổi mục đích sản xuất theo hướng phát triển
thích hợp, để hiện thực hóa hướng phát triển này đòi hỏi phải có quy hoạch
hoàn chỉnh. Vì thế, cần sớm hoàn chỉnh quy hoạch diện tích đất nông nghiệp
còn lại trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương là một đòi hỏi
cần được giải quyết.
Quan tâm đến một số nhu cầu xã hội ở cộng đồng.
Sự xuất hiện ở cộng đồng làng Gia Trung số lượng lớn lao động nhập
cư đã thúc đẩy sự phát triển sinh kế trong không gian làng, góp phần đa dạng
hóa sinh kế và tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Để cho sự hiện diện của
158
nhóm công nhân nhập cư ở làng tiếp tục tạo sinh kế phi nông nghiệp (cho
thuê nhà trọ, kinh doanh dịch vụ) cho người dân phát triển và tồn tại bền vững
cũng đòi hỏi có sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, bao gồm việc hỗ trợ
người dân các thủ tục hành chính liên quan đến việc xây dựng nhà trọ, cho
thuê trọ, về vay vốn, quản lý người thuê trọ, v.v. Trong một số trường hợp cụ
thể, chính quyền địa phương có thể hỗ trợ thủ tục pháp lý, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc chuyển đổi quyền sử dụng nông nghiệp ở những chỗ có thể để
người dân xây dựng nhà trọ và kiến tạo các sinh kế phi nông nghiệp khác.
Thêm vào đó, địa phương cần quan tâm đến nhu cầu giáo dục, y tế, vui chơi
giải trí của bộ phận lao động nhập cư trong không gian làng.
Đào tạo nghề cho người dân trên chính quê hương của mình.
Việc giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người nông dân bị thu
hồi đất nông nghiệp nổi lên như một hiện tượng vừa mang tính khách quan
của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa vừa mang tính đặc thù của một
nước nông nghiệp như Việt Nam nói chung và trường hợp ở làng Gia Trung
nói riêng.
Tôi cho rằng, sự phát triển khu công nghiệp trên địa bàn làng Gia
Trung là một kênh giải quyết việc làm hữu hiệu nhất đối với lao động bị thu
hồi đất. Thực tế diễn ra ở Gia Trung cho thấy, để con em các hộ gia đình mất
đất nông nghiệp có thể tiếp cận cơ hội việc làm trong khu công nghiệp cần
phải có hàng loạt chính sách tác động, nhất là tạo điều kiện để phát triển thị
trường sức lao động tại địa phương, bởi lẽ nếu thị trường sức lao động phát
triển hoàn thiện, đồng bộ bao gồm cả hệ thống khuôn khổ pháp lý, hệ thống
công cụ, bộ máy tổ chức, v.v giúp cho người dân nắm bắt được các thông tin
về nhu cầu tuyển dụng lao động, tư vấn dạy nghề, học nghề, số lượng và chất
lượng việc làm. Từ phân tích về xu hướng biến đổi sinh kế gắn với sản xuất
công nghiệp ở chương 4 cho thấy nhận thức của người dân ở Gia Trung đã
ngày càng tiến bộ và ưu tiên hàng đầu về nhu cầu học và đào tạo nghề cho
159
con em của họ trong hộ gia đình.
Tiểu kết chƣơng 6
Công nghiệp hóa và đô thị hóa đã và đang tạo ra sự biến đổi nhiều mặt
trong đời sống người dân ở làng Gia Trung. Biến đổi sinh kế của các hộ gia
đình nông dân là hệ quả trực tiếp của các chính sách phát triển công nghiệp và
đô thị của Nhà nước. Những hoạt động sinh kế gắn với sản xuất nông nghiệp
vốn là nghề chính của các hộ gia đình và cộng đồng làng thì nay đã suy giảm
mạnh mẽ và xuất hiện nhiều chiến lược sinh kế mới và đa dạng, gắn với các
hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, tiêu biểu là công nghiệp và dịch vụ, và
sinh kế phi nông nghiệp ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống của
người dân.
Đến lượt nó, biến đổi sinh kế dẫn đến những biến đổi khác trong cộng
đồng làng, thể hiện ở tất cả các phương diện văn hóa, xã hội, không gian cư
trú và môi trường. Một chuỗi những biến đổi có mối quan hệ tương hỗ, phụ
thuộc lẫn nhau ở làng Gia Trung đã và đang tạo nên một cộng đồng đô thị ở
khu vực ven đô thay cho một cộng đồng nông nghiệp ở khu vực nông thôn
trước đây. Trong sự biến đổi này, người dân trở nên năng động hơn, chủ động
thích nghi với môi trường sống mới. Tuy nhiên, để cho sự biến đổi sinh kế và
những biến đổi khác ở cộng đồng làng Gia Trung được bền vững thì chính
quyền địa phương và các cấp chính quyền cần chú ý quan tâm giải quyết thỏa
đáng một số các vấn đề tồn tại của quá trình phát triển công nghiệp và đô thị ở
160
địa phương này.
KẾT LUẬN
1. Trong luận án này, tôi đã tập trung làm rõ quá trình công nghiệp hóa
và đô thị hóa làm biến đổi sinh kế và cuộc sống của các hộ gia đình và cộng
đồng một làng ven đô Hà Nội như thế nào. Tôi đã xác định địa bàn nghiên
cứu là một cộng đồng làng với các chủ thể là các hộ gia đình nông dân, được
định vị trong một khu vực rộng hơn - khu vực ven đô - nơi đã và đang trải qua
quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, sinh kế
và biến đổi sinh kế của hộ và cộng đồng trở thành trung tâm của các mô tả,
phân tích và diễn giải của luận án. Biến đổi sinh kế trong trường hợp này
được nhìn nhận như là hệ quả của các chính sách phát triển công nghiệp và đô
thị của Nhà nước, đồng thời là nguyên nhân của những biến đổi khác ở cộng
đồng làng được nghiên cứu.
Nghiên cứu trường hợp biến đổi sinh kế ở một làng ven đô Hà Nội
trong luận án này không tách rời tài liệu nghiên cứu về sinh kế ở nhiều góc
độ, nhất là cách tiếp cận lý thuyết. Tổng quan tài liệu nghiên cứu của tác giả
khẳng định vấn đề sinh kế được tiếp cận theo một số cách khác nhau. Trong
đó, cách tiếp cận truyền thống thường nhấn mạnh sinh kế như một thành tố
văn hóa tộc người và từ đó thiên về mô tả các hoạt động sinh kế trong tổng
thể văn hóa tộc người. Trong hai thập niên gần đây, các tiếp cận sinh kế bắt
đầu nhấn mạnh đến tính bền vững được thể hiện trong nhiều nghiên cứu ứng
dụng và nghiên cứu cơ bản. Một trong cách tiếp cận này là Khung sinh kế bền
vững của DFID. Khung phân tích này chú ý đến 5 nhóm yếu tố, bao gồm bối
cảnh, các nguồn vốn sinh kế, các chiến lược sinh kế, các cấu trúc và chính
sách và các kết quả sinh kế. Đây chính là cách phân tích được tác giả sử dụng
để làm rõ biến đổi sinh kế của người dân ở làng Gia Trung dưới tác động của
công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Ở góc độ phương pháp luận, trong luận án này, nghiên cứu dân tộc học
161
do tác giả thực hiện trong khoảng thời gian hơn mười năm đã giúp tác giả
quan sát, theo dõi và có được tài liệu nguyên sơ cấp và tài liệu thứ cấp để hiểu
và lý giải một cách sâu sắc những biến đổi sinh kế của người dân và cộng
đồng làng Gia Trung từ góc độ Khung sinh kế bền vững.
2. Làng Gia Trung - địa bàn nghiên cứu của luận án - vốn là một cộng
đồng làng sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Trong lịch sử, làng đã trải
qua nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, thay đổi tên gọi, nhưng những
biến đổi quan trọng và mạnh mẽ nhất chính là những gì đã diễn ra trong hai
thập kỷ qua. Từ đầu cuối những năm 1990, làng Gia Trung đã bị thu hồi đất
nông nghiệp để phát triển cơ sở hạ tầng của Nhà nước, tuy nhiên dấu mốc
quan trọng là từ đầu những năm 2000, các chính sách phát triển công nghiệp
và đô thị đã làm cho hộ gia đình nông dân nói riêng và cộng đồng làng Gia
Trung nói chung bị thu hồi phần lớn diện tích đất nông nghiệp. Đối với Nhà
nước, kết quả của việc thu hồi này giúp Nhà nước xây dựng được một khu
công nghiệp Quang Minh và một số khu đô thị làm chuyển đổi mạnh mẽ các
cộng đồng và không gian ở địa phương này. Đối với các hộ gia đình và cộng
đồng làng Gia Trung, thu hồi phần lớn diện tích đất nông nghiệp của họ để
phát triển công nghiệp và đô thị đồng nghĩa với việc làm biến đổi mạnh mẽ về
các nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế của hộ gia đình.
Biến đổi sinh kế ở Gia Trung trong hai thập kỷ vừa qua dưới tác động
của công nghiệp hóa và đô thị hóa và ở một góc độ nào đó là dưới tác động
của thị trường ở khu vực ven đô Hà Nội diễn ra theo hướng làm suy giảm
mạnh mẽ các chiến lược sinh kế nông nghiệp và gắn với quá trình đa dạng
hóa các chiến lược sinh kế nhất là các sinh kế phi nông nghiệp. Phần diện tích
đất nông nghiệp còn lại ở làng tiếp tục được một bộ phận người dân khai thác
vì các mục tiêu mới, làm cho sinh kế nông nghiệp không hoàn toàn mất đi.
Tuy nhiên, một loạt chiến lược sinh kế mới - phi nông nghiệp đã hình thành,
gắn với các hoạt động của khu công nghiệp Quang Minh và các khu công
nghiệp xung quanh, với cho thuê nhà trọ và các dịch vụ thương mại trong
162
không gian làng. Tất cả các chiến lược sinh kế này là một sự thích nghi của
người dân ở Gia Trung với bối cảnh mới với các nguồn vốn sinh kế đã có
nhiều chuyển đổi, vì thế tạo nên các kết quả sinh kế tốt hơn so với những gì
họ có ở những thập kỷ trước. Thực tiễn biến đổi sinh kế ở Gia Trung cũng cho
thấy rõ dù tồn tại như các chiến lược sinh kế chủ đạo của hộ gia đình nhưng
nó chứa đựng và tiềm ẩn sự rủi ro, không bền vững trong bối cảnh chuyển đổi
từ nông thôn sang đô thị ở khu vực ven đô thành phố.
Thêm vào đó, sự biến đổi sinh kế của người dân ở Gia Trung còn cho
thấy mối quan hệ tác động với các nguồn vốn sinh kế, các chính sách và quá
trình từ ở cấp độ Nhà nước đến địa phương. Ngoài ra, như đã trình bày trong
luận án, những sinh kế gắn với các hoạt động phi nông nghiệp mà người dân
đã và đang thích nghi được nhìn nhận dưới Khung sinh kế bền vững còn như
một kết quả sinh kế then chốt có ý nghĩa đặc biệt khi chúng ta nghĩ đến thế
hệ tương lai - con cái của những hộ gia đình bị thu hồi đất, những người
từng bước linh hoạt trong quá trình tự đào tạo nghề và tận dụng nguồn vốn
hiện có của cá nhân và gia đình để tìm kiếm, xây đắp và duy trì các loại vốn
để có sinh kế tốt hơn. Do vậy, sự biến đổi sinh kế của người dân không nên
chỉ được xem xét trong bối cảnh cụ thể của từng địa phương đang thay đổi
nhanh chóng và sâu rộng, mà còn phải được nhìn thông qua góc nhìn của
chính những thay đổi đó - bối cảnh xã hội Việt Nam đang trong quá trình
biến đổi. Theo cách đó, quan điểm của tôi cho rằng tiếp cận sinh kế và
Khung sinh kế bền vững là phù hợp để có thể hiểu được một cách toàn diện
và đầy đủ về vấn đề biến đổi sinh kế của người dân trong quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa.
3. Biến đổi sinh kế dẫn đến những biến đổi quan trọng về văn hóa, xã
hội và môi trường trong không gian sống của cộng đồng làng được nghiên
cứu. Sự cộng hưởng của tất cả những biến đổi này đặt trong bối cảnh chuyển
đổi rộng lớn hơn của khu vực ven đô cho thấy quá trình biến đổi từ sản xuất
nông nghiệp sang các sinh kế phi nông nghiệp, từ người nông dân sang thị
163
dân, từ nông thôn sang đô thị đang là xu hướng biến đổi chủ đạo ở cộng đồng
làng Gia Trung trong hai thập kỷ qua. Ở một mức độ nhất định, dù mang
những đặc tính riêng, như đã chỉ ra trong luận án, những biến đổi ở Gia Trung
cũng giúp chúng ta hiểu được sự biến đổi ở các cộng đồng làng khác ở khu
vực ven đô các thành phố ở Việt Nam và một số quốc gia đang phát triển.
Để quá trình biến đổi này ở Gia Trung mang lại sự bền vững về sinh kế
nói riêng và sự phát triển bền vững với các cộng đồng làng nói chung, luận án
nhấn mạnh đến một số vấn đề cần được chính quyền địa phương và chính
quyền các cấp liên quan chú ý giải quyết thỏa đáng, đó là phải: ổn định tâm lý
người nông dân trong quá trình chuyển đổi, giải quyết thỏa đáng những tồn
động trong thu hồi đất, hoàn chỉnh quy hoạch diện tích đất nông nghiệp còn
lại, quan tâm đến các nhu cầu xã hội ở cộng đồng làng và vấn đề đào tạo nghề
cho người dân trên chính quê hương của mình.
4. Những biến đổi sinh kế và bối cảnh phát triển chính sách được đề
cập trong luận án này thường vượt qua những kiến thức và trải nghiệm của
người nông dân vốn nhiều đời gắn với không gian sản xuất của xã hội nông
nghiệp truyền thống. Nhưng điều đó không làm cho việc bàn luận về những
biến đổi sinh kế của người dân là không thỏa đáng, hoặc bối cảnh chính sách
ảnh hưởng đến biến đổi sinh kế của người dân là không quan trọng. Khung
phân tích sinh kế gợi cho thấy các chính sách phát triển kinh tế vi mô và vĩ
mô và cơ cấu quản lý của Nhà nước trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị
hóa ở Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua có ảnh hưởng nhiều chiều đến
thực hành sinh kế, đời sống văn hóa, xã hội, môi trường của người dân ở làng
Gia Trung nói riêng và các làng Việt trong quá trình biến đổi nói chung. Do
đó, người dân và chính quyền địa phương cần phải nắm vững ảnh hưởng của
những chính sách của Nhà nước và các doanh nghiệp kinh tế tư nhân đối với
sinh kế, đời sống văn hóa, xã hội địa phương và phải kịp thời phát hiện, cảnh
báo khi xuất hiện những chỉ báo tiêu cực. Bởi vô luận thế nào, người dân vẫn
là nguồn lực chính và quan trọng nhất để Nhà nước thực thi các chính sách
164
phát triển.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phan Thị Ngọc (2016), “Một phác họa về biến đổi sinh kế ở làng Gia
Trung, Mê Linh, Hà Nội”, Toàn cầu hóa và biến đổi đô thị ở Việt Nam đương
đại, Phạm Quang Minh, Nguyễn Văn Sửu, Ien Ang, Gay Hawkins (chủ biên),
Nxb Tri thức, Hà Nội, tr.103-113, ISBN: 978-604-943-391-7.
2. Phan Thị Ngọc (2016), “Sự suy giảm sản xuất nông nghiệp ở một
làng ven đô Hà Nội dưới tác động của công nghiệp hóa - đô thị hóa”, Việt
Nam trong chuyển đổi: các hướng tiếp cận liên ngành (Tuyển chọn các
nghiên cứu từ Hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học viên sau đại học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2016), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr.212-229. ISBN: 978-604-62-6932-8.
3. Phan Thị Ngọc (2018), “Từ sản xuất nông nghiệp đến kinh doanh
nhà trọ: biến đổi sinh kế ở một làng ven đô Hà Nội dưới tác động của công
nghiệp hóa, đô thị hóa”, Tạp chí Khoa học Xã hội Nhân văn, 4(1b), tr.33-43.
4. Phan Thị Ngọc (2019), “Thu hồi đất và đất dịch vụ ở Việt Nam
đương đại: Nghiên cứu trường hợp làng Gia Trung, thị trấn Quang Minh,
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội”, Tạp chí Khoa học Xã hội Nhân văn, 5(1),
165
tr.69-83.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Thanh Bình (2007), Hồi kết của xã hội nông dân: Một số thảo
luận xung quanh khái niệm nông dân và những bất cập khi thao tác hóa
khái niệm, Tạp chí Dân tộc học, 5(149), tr.47-54.
2. Nguyễn Thị Thanh Bình (2014), Đô thị hoá và sự tăng cường sản xuất nông
nghiệp ở khu vực ven đô: trường hợp làng La Cả, phường Dương Nội,
quận Hà Đông, Hà Nội, Tạp chí Phát triển bền vững vùng (4), tr.24-36.
3. BCH Đảng bộ thị trấn Quang Minh (2015), Lịch sử đảng bộ thị trấn Quang
Minh (1930-2014), Nxb Lao động.
4. Bộ Kế hoạch & Đầu tư và JICA (2016), Nghiên cứu cải thiện môi trường
sống cho công nhân các khu công nghiệp (Báo cáo cuối kỳ), Cơ quan Hợp
tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Công ty Nine Steps, Công ty Oriental
Consultants Global, Trung tâm phát triển quốc tế Nhật Bản và Công ty
Azusa Sekkei, tháng 5, Hà Nội.
5. Hoàng Cầm, Ngô Thị Phương Lan và cộng sự (2017) Chuyển đổi sinh kế và
vấn đề tín dụng ở một số tộc người thiểu số tại Tây Nguyên và miền núi
phía Bắc, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE), Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Phương Châm, Đỗ Lan Phương (2016), Làng ven đô và sự biến
đổi văn hóa: Trường hợp làng Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Lâm Minh Châu (2016), Đổi mới, kinh tế thị trường và hiện đại hóa: Trải
nghiệm ở một làng nông thôn Bắc Bộ Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb
Hà Nội.
8. Chính phủ (1993), Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về
việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, Download tại
166
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal.
9. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về bồi thường thiệt hại và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,
tại http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal ngày 20/7/2017.
10. Chính phủ (2006), Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn
thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển
công ty nhà nước thành công ty cổ phần, Download tại
http://www.moj.gov.vn/vbpq/lists ngày 6/12/2017.
11. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu
hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, tại
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal.
12. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 18/2009/NQCP, ngày 20/4/2009 của
Chính phủ về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở
cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động
tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô
thị, tại http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu.
13. Chính phủ (2009), Quyết định 66/2009/QĐTTg về cơ chế, chính sách phát
triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê.
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Doanh-nghiep/Quyet-dinh-66-2009-QD.
14. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm
2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu
kinh tế, tại https://thuvienphapluat.vn truy cập ngày 23/8/2018.
15. Chính phủ (2008), Nghị định số 39/NĐ-CP ngày 04/04/2008 về việc điều
chỉnh địa giới hành chính xã, phường, thành lập thị trấn, phường thuộc
huyện Mê Linh, huyện Lập Thạch, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Cổng
thông tin điện tử cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật
167
http://vbpl.vn/bonoivu/Pages/vbpqluocdo.aspx? ngày 01/10/2013.
16. Denis Sautier, Đào Thế Anh, Phạm Công Nghiệp, Nguyễn Ngọc Mai
(2013), Nông nghiệp và phát triển đô thị tại Hà Nội, Kỷ yếu Phát triển
bền vững vùng ven các đô thị tại Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế và Tài chính
Việt - Pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.108-148.
17. Nguyễn Thị Diễn, Vũ Đình Tôn, Philippe Lebailly (2012), Ảnh hưởng của
việc thu hồi đất nông nghiệp cho công nghiệp hóa đến sinh kế của các hộ
nông dân ở tỉnh Hưng Yên, Truy cập tại https://orbi.ulg.ac.be ngày
11/12/2016.
18. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam – một số vấn đề kinh tế, xã hội,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Bùi Quang Dũng (2012), Từ khái niệm “nông dân” tới “xã hội tiểu nông” ở
Việt Nam: Dẫn vào một nghiên cứu về phát triển nông thôn, Tạp chí Xã
hội học (4), tr.13-22.
20. Lê Ánh Dương, Phạm Thị Mỹ Dung (2017), Thay đổi sinh kế của hộ nông
dân vùng ven thành phố Nam Định trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (4), tập 15, tr.270-279.
21. Địa bạ triều Nguyễn (Gia Long, 1805), Địa bạ xã Da Thượng, huyện Kim
Hoa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, Mã hồ sơ: 02618, TTLTQG I.
22. Địa bạ triều Nguyễn (Gia Long, 1805), Địa bạ xã Giai Lạc, huyện Kim
Hoa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, Mã hồ sơ: 02621, TTLTQG I.
23. Bùi Minh Đạo (2011), Tác động của các dự án thủy điện Tây Nguyên đến
sinh kế và văn hóa của người dân tái định cư, Tạp chí Dân tộc học (2),
tr.11-19.
24. Lê Cao Đoàn (2016), Nông thôn Việt Nam trong hội nhập và phát triển bền
vững, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 4, tr.294-308.
25. E. Cerise, Sylvie Fanchette và cộng sự (2018), Mở rộng thành phố thông
qua sáp nhập các làng nội đô, tr.55-76, trong Hà Nội, vùng đô thị tương
lai: Chấm dứt hòa nhập làng xóm trong đô thị, Atlas mini về đô thị,
168
Sylvie Fanchette (chủ biên), Nxb Thế giới.
26. Ngô Văn Giá (2007), Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các
làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Bình Giang (2012), Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp
ở Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Gerard Sasges (chủ biên) (2015), Việt Nam ngày ngay: Chuyện mưu sinh,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
29. Bùi Thị Thanh Hà (2003), Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp
liên doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
30. Phạm Thị Thu Hà (2012), Văn hóa tộc người với đảm bảo sinh kế (Nghiên
cứu ở một số xã dân tộc thiểu số tại ba tỉnh Lạng Sơn, Nghệ An và An
Giang), Tạp chí Dân tộc học (5&6), tr.66-73.
31. Trần Văn Hà (2012), Tái định cư thủy điện Sơn La và vấn đề phát triển sinh
kế bền vững tại các cộng đồng người Thái ở cao nguyên Mộc Châu, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 4: Việt Nam trên đường hội nhập và
phát triển bền vững, tập III, tr.508-524, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Trần Thị Hồng Hạnh (2011), Sinh kế của người Pà Thẻn ở huyện Quang
Bình, tỉnh Hà Giang, Tạp chí Dân tộc học (6), tr.12-22.
33. Trịnh Thị Hạnh (2017), Biến đổi sinh kế của người Mường vùng lòng hồ
thủy điện Hòa Bình ở nơi tái định cư, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
34. Lương Văn Hy (1994), Cải cách kinh tế và tăng cường nghi lễ tại hai làng
ở miền Bắc Việt Nam (1980-1990), trong Những thách thức trên con
đường cải cách Đông Dương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. HĐND tỉnh Vĩnh Phúc, Nghị quyết số 15/2004/NQ-HĐ ngày 25/05/2004
về việc bố trí đất sử dụng làm dịch vụ cho các hộ gia đình bị thu hồi đất
nông nghiệp, tại http://vbpl.vn/vinhphuc/Pages/vbpq.
36. Phạm Văn Hùng, T.G. MauAulay và Marsh S.P (2007), Mô hình hóa kinh
tế hộ ở Việt Nam: Mô hình kinh tế về giao dịch đất trong bối cảnh làng
xã, tr.201-219, trong Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt
Nam, Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia
169
(ACIAR) và Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
37. Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (1999), Địa
danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn Đông Bác Cổ, Nxb
Văn hóa Thông tin và Cục Lưu trữ Nhà nước, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Huyên (1996), Bức tranh địa lý hành chính của một tỉnh Việt
Nam xưa: tỉnh Bắc Ninh (hay Kinh Bắc), trong Góp phần nghiên cứu văn
hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tập II, tr.251-418.
39. Nguyễn Văn Huyên toàn tập (2000), Văn hóa và giáo dục Việt Nam tập I,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Jean-Guy Vaillancourt (2000), Phát triển bền vững: Nguồn gốc và khái
niệm, Tạp chí Xã hội học (2), Đăng bởi
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu .
41. Bùi Thị Bích Lan (2013), Hoạt động mưu sinh của người Kháng ở xã
Chiềng Bôm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Luận án Tiến sĩ Nhân học,
Thư viện Viện Dân tộc học.
42. Ngô Thị Phương Lan (2012), Sinh kế, biến đổi sinh thái và sự thích nghi
của con người ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long trong quá trình chuyển
dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm thương mại, Đăng bởi
http://nhanhoc.hcmussh.edu.vn, truy cập ngày 3/9/2015.
43. Ngô Phương Lan (2012), Bất ổn sinh kế và di cư lao động của người
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Nghiên cứu con người (3),
Đăng bởi http://ihs.vass.gov.vn/noidung/tapchi ngày 15/07/2014.
44. Michael Leaf (2008), Những biên giới đô thị mới: Quá trình đô thị hóa vùng
ven đô và (tái) lãnh thổ ở Đông Nam Á, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế
Việt Nam học lần thứ ba (Tiểu ban: Đô thị và đô thị hóa), tr.420-438.
45. Nguyễn Phượng Lê, Lê Văn Tân (2013), Vai trò của sản xuất nông nghiệp
đối với các hộ dân vùng ngoại thành Hà Nội: Nghiên cứu điển hình ở thị
trấn Trâu Quỳ - huyện Gia Lâm, Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 11
170
(7), tr.1053-1061.
46. Finn Tarp (Chủ biên, 2016), Tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu và thay đổi
của nông thôn Việt Nam: Con rồng mới nổi đang chuyển mình, Nxb Đại
học Oxford, https://www.wider.unu.edu/sites/default/files/Book-Growth-
structural-transformation-and-rural-change-in-Vietn-Nam-
Vietnamese.pdf.
47. Jonathan Rigg (2005), Poverty and livelihoods after full-time farming: A
South-East Asian view (Nghèo đói và sinh kế đằng sau “cuộc sống thuần
nông”: Quan điểm Đông Nam Á), Asia Pacific Viewpoint (46:2), p.173-
184, Nguyễn Thị Phương Châm dịch, bản tiếng Việt đăng trên
http://www.newschool.edu/cps/subpage.aspx?id .
48. Koos Neefjes (2003), Môi trường và sinh kế: các chiến lược phát triển bền
vững, Nguyễn Văn Thanh dịch, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, xuất bản năm
1928 (Giáo sư Ngô Vi Thiện biên dịch và biên tập), Nxb Văn hóa Thông
tin, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
50. Đào Thị Lưu, Lê Văn Hương (2013), Tác động của thiên tai đến sinh kế các
dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, Tạp chí Các Khoa học về trái đất (34),
tr.342-348.
51. Marsh S.P, T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng (2007), Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp
quốc tế của Ôx-trây-lia (ACIAR) và Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
52. Nguyễn Hữu Minh và đồng nghiệp (2005), Biến đổi kinh kế - xã hội ở vùng
ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Tạp chí Xã hội học, số 1(89),
tr.56-64.
53. Ngân hàng Thế giới (2011), Cơ chế nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất
đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương pháp tiếp cận, đánh giá đất và giải
quyết khiếu nại của dân, Download tại
171
http://documents.worldbank.org/curated.
54. Trần Thị Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. Philippe Papin, Olivier Tessier (chủ biên, 2002), Làng ở vùng châu thổ
sông Hồng: Vấn đề còn bỏ ngõ, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia.
56. Lê Du Phong (2007), Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu
hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn Đăng Hiệp Phố (2018), Sinh kế của người Mạ ở vườn quốc gia Cát
Tiên, Luận án Tiến sĩ Nhân học.
58. Viện Xã hội học (2008), Sử dụng vốn xã hội trong sinh kế của nông dân
vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa (Nghiên cứu trường hợp xã Đồng
Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Đề tài cấp Viện, Viện Xã hội học,
Hà Nội.
59. Lương Hồng Quang (chủ biên), Nguyễn Thị Thanh Hoa, Bùi Thị Kim Phương
(2010), Câu chuyện làng Giang: Các khuynh hướng, giá trị và khuôn mẫu
trong một xã hội đang chuyển đổi, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
60. Nguyễn Quang (2013), Tác động của đổi mới vào cấu trúc không gian đô
thị, tr.316-328, Kỷ yếu “Phát triển bền vững vùng ven các đô thị tại Việt
Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Phạm Văn Quyết (2011), Đô thị hóa, công nghiệp hóa ở Việt Nam: vai trò
của các yếu tố đầu tư nước ngoài, Tạp chí Xã hội học (3), tr.18-27.
62. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1993), Luật Đất đai năm 1993, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001), Luật sửa đổi, bổ sung một số
172
điều của Luật Đất đai, Nxb Bản đồ, Hà Nội.
64. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2003), Luật Đất đai năm 2003, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Quốc hội (2008), Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29 tháng 05 năm 2008
về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có
liên quan, https://vanbanphapluat.co/nghi-quyet-15-2008.
66. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai năm 2013, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Sylvie Fanchette, C. Musil, P. Moustier, Nguyễn Thị Tân Lộc (2018),
Thành phố trong tương lai: Cải cách lãnh thổ và dự án đô thị, tr.101-120,
trong Hà Nội, vùng đô thị tương lai: Chấm dứt hòa nhập làng xóm trong
đô thị, Atlas mini về đô thị, Nxb Thế giới.
68. Nguyễn Văn Sửu (2014), Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở
ven đô Hà Nội, Nxb Tri thức, Hà Nội.
69. Nguyễn Văn Sửu, Chu Thu Hường (2015), Hướng tiếp cận không gian
trong nghiên cứu làng Việt: Nghiên cứu trường hợp làng Đồng Kỵ, Bắc
Ninh, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 1(2), tr.144-160.
70. Lê Thái Thị Băng Tâm (2011), Một vài đặc điểm của hộ gia đình sau khi bị
thu hồi quyền sử dụng đất canh tác, Tạp chí Xã hội học, 3(115), tr.47-57.
71. Nguyễn Duy Thắng (2007), Sử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế
của nông dân ven đô dưới tác động của đô thị hóa, Tạp chí Xã hội học (4),
tr.37-47.
72. Nguyễn Duy Thắng (2009), Tác động của đô thị hóa đến các mặt kinh tế -
xã hội của vùng ven đô và những vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Xã hội
học 1(105), tr.80-86.
73. Hoàng Bá Thịnh, Đoàn Thị Thanh Huyền (2015), Đô thị hóa ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam 5(90), tr.55-61.
74. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (2003), Đồng Khánh
173
địa dư chí, Viện Nghiên cứu Hán nôm, Tập I, Nxb Bản đồ, Hà Nội.
75. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (2003), Đồng Khánh
địa dư chí, Viện Nghiên cứu Hán nôm, Tập III, Nxb Bản đồ, Hà Nội.
76. Tony Champion (2014) (Người dịch: Lê Thanh Sang), Đô thị hoá, đô thị
hoá ngoại vi, phản đô thị hoá, và tái đô thị hoá, đăng bởi Quảng Đại
Tuyên ngày 05/07/2014 tại http://younganthropologists.com, ngày
24/11/2015.
77. Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 2014: Di cư
và đô thị hóa, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
78. Trần Nguyệt Minh Thu (2007), Tác động của đô thị hóa tới đời sống dân cư
vùng ven đô Hà Nội, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi & Trung Đông (2),
tr.43-51.
79. Bùi Minh Thuận (2017), Phương thức mưu sinh của nhóm người Đan Lai
(Thổ) ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, Luận án Tiến sĩ Lịch sử.
80. Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Huyền, Võ Trọng Thành (2007), Thách thức đối
với sinh kế và môi trường sống của người nông dân vùng chuyển đổi đất
cho khu công nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế (351), tr.49-56.
81. Võ Hồng Tú, Nguyễn Thùy Trang (2014), Tính dễ bị tổn thương về sinh kế
của lao động di cư nông thôn tại đồng bằng Sông Cửu Long, Tạp chí
Khoa học Trường đại học Cần Thơ (32), tr.117-124.
82. Đào Thế Tuấn (1999), Xã hội nông thôn và các vấn đề của nông nghiệp
trong thời kỳ hiện nay, Tạp chí Xã hội học, 2(66), tr. 27-33.
83. Trần Thị Hồng Yến (2013), Biến đổi về xã hội và văn hóa ở các làng quê
trong quá trình đô thị hóa tại Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia.
84. Yumio Sakurai (2010), Kiểu lao động “Sáng đi tối về” - Ly nông nhưng
không ly hương khu công nghiệp và nông thôn, trong Di dân ở Việt Nam
trong thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa, Iwai Misaki, Bùi Thế Cường
(chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, tr.156-160.
85. Un-Habitat, Hồ sơ nhà ở Việt Nam, http://e4g.org/wp-
174
content/uploads/2014/07/E4G_HoSoNhaOVN_UNHabitat.pdf.
86. UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Nghị quyết 15/2004/NQ-HĐND ngày 25/5/2004 về
việc bố trí đất sử dụng làm dịch vụ cho các hộ gia đình bị thu hồi đất
nông nghiệp.
87. UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Quyết định số 25/2006/QĐ-UBND ngày 04 tháng 4
năm 2006 về việc ban hành quy định giao đất dịch vụ cho hộ gia đình, cá
nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các khu, cụm công
nghiệp, khu du lịch dịch vụ và đô thị mới tập trung.
88. UBND tỉnh Vĩnh Phúc (2008), Quyết định số 11/2008/QĐ-UBND ngày
04/02/2008 về Ban hành quy định về hỗ trợ bằng giao đất sản xuất, kinh
doanh dịch vụ phi nông nghiệp hoặc bằng tiền khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp.
89. UBND thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 96/2014/QĐ-UBND về
việc ban hành quy định về giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội
áp dụng từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2019, Truy cập tại
http ://vbpl.vn/hanoi/Pages/vbpq-toanvan.aspx ?ItemID=99809.
90. UBND thành phố Hà Nội (2018), Bách khoa thư Hà Nội phần mở rộng,
Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
91. Viện Nghiên cứu Hán nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX -
Thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra (CÁC TỔNG TRẤN XÃ DANH BỊ
LÃM), Dương Thị The, Phạm Thị Hoa dịch và biên soạn, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
Tiếng Anh
92. Annet Abenakyo, Pascal Sanginga, Jemimah Njuki, Susan Kaaria1, Robert
Delve (2007), Relationship between Social Capital and Livelihood
Enhancing Capitals among Smallholder Farmers in Uganda, Accessed on
175
12/9/2016 at https://www.researchgate.net/pub.
93. Anthony Bebbington (1999), Capitals and capabilities: A framework for
analyzing peasant viability, rural livelihoods and poverty, Accessed on
1/8/2016 at http://pubs.iied.org/pdfs/6151IIED.pdf.
94. Asian Development Bank (2007), Agricultural Land Conversion for
Industrial and Commercial Use Competing Interests of the Poor, In
“Market and Development Bulletin”, [online] Ha Noi: Asian
Development Bank, pp.85-93.
95. Caroline Ashley and Diana Carney (1999), Sustainable livelihoods: lessons
from early experience, http://agris.fao.org/agris-
search/search.do?recordID=XF2015006630.
96. Danielle Labbé (2014), Land Politics and Livelihoods on the Margins of
Hanoi, 1920-2010, UBC Press, Vancouver - Toronto.
97. D. F. Bryceson (2002), The Scamble in Africa: Reorienting Rural
Livelihoods, World Development, Vol.30, No.5, pp.725-739.
98. DFID (2001), Sustainable Livelihoods Guidance Sheets. London, U.K,
Accessed at www.livelihoods.org/info/info_guidancesheets.html#6 .
99. DFID (2002a), Better livelihoods for poor people: the role of land policy,
London: Department for International Development, Downloaded from
http://www.dfid.gov.uk/.
100. Erik Harms (2016), Luxury and Rubble: Civility and Dispossession in the
New Saigon, Berkeley: University of California Press.
101. Eric Wolf (1996), Peasants, Prentice Hall.
102. Frank Ellis (1999), Rural Livelihoods and Diversity in Developing
Countries: Evidence and Policy Implications, Accessed on 30/6/2016 at
https://www.odi.org/sites/odi.org.uk/files/odi-assets.
103. Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO), (2007),
Profitability and Sustainability of Urban and Peri-urban Agriculture, by
176
René van Veenhuizen George Danso, Rome.
104. Ian Scoones (1998), Sustainable Rural Livelihoods: A Framework for
Analysic, Institute of Development Studies, Developing countries.
105. James Scott (1976), The Moral Economy of Peasant: Rebellion and
Subsistence in Southeast Asia, Yale University Press, New Haven.
106. Jonathan Rigg (2006), Land, farming, livelihoods, and poverty: rethinking
the links in the rural South, World Development, 34.1, pp.180 - 202,
Accessed on 30/6/2016 at http://agris.fao.org/agris-
search/search.do?recordID.
107. Lungisile Ntsebeza (Phd) (2010), Land and livelihoods in rural South
Africa: What prospects for agricultural activities? Accessed on 30/6/2016
at http://www.rimisp.org/wpcontent/uploads/2010/05.
108. Martin Ravallion and Dominique van de Walle (2008), Land in
Transition: Reform and Poverty in Rural Vietnam, The World Bank and
Palgrave Macmillan, Washington.
109. Micheal Leaf (2002), A Tale of Two Villages: Globalization and Peri-
Urban Change in China and Vietnam, Cities, Vol.19, No.1, pp.23-31.
110. Norman Uphoff and Louise Buck (2006), Strengthening Rural Local
Institutional Capacities for Sustainable Livelihoods and Equitable
Development, Downloaded from http://siteresources.worldbank.org.
111. Robert Chambers and Conway G.R (1991), Sustainable Rural Livelihoods: Practical Concepts for the 21st Century, Discussion Paper
296, Brighton, UK: Institute of Development Studies.
112. Samuel Popkin (1979), The Rational Peasants: The Political Economy Of
Rural Society in Vietnam, Univesity of California Press, Berkeley.
113. Sarah Turner, Christine Bonnin, Jean Michaud (2015), Frontier
Livelihoods: Hmong in the Sino-Vietnamese Borderlands, University Of
177
Washington Press.
114. Seung Yong Han (2014), Migration and Livelihood Transitions of Rural
Farming Households, A Dissertation Presented in Partial, Fulfillment of
the Requirements for the Degree Doctor of Philosophy, Arizona State
University, December.
115. Tran Quang Tuyen (2013), Livelihood Strategies for Coping with Land Loss among Households in Vietnam‟s Sub-Urban Areas, Asian Social
Science (9), No.15; ISSN 1911-2017; E-ISSN 1911-2025; Published by
Canadian Center of Science and Education.
116. UN-Habitat (2011), A Policy Guide to Rental Housing in Developing
Countries, Quick Policy Guide Series, Volume 1.
117. Zhaoxu Liu Liming Liu (2016), Characteristics and driving factors of rural
livelihood transition in the east coastal region of China: A case study of
suburban Shanghai, Journal of Rural Studies, Volume 43, February,
178
pp.145-158.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
Phan Thị Ngọc
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
MÃ SỐ: 62 31 03 02
179
Hà Nội - 2020
PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ BẢN ĐỒ, LƢỢC ĐỒ, SƠ ĐỒ HÓA
Phụ lục 1.1: Bản đồ huyện Kim Anh thời vua Đồng Khánh (1885-1889)
Chỉ dẫn bản đồ: I. Con đường từ xã Lưu Khê phân chia …. Cho tới biên giới giáp Đa Phúc huyện, xã Minh Hồng dài 30
dặm, 13 trượng, rộng 1 trượng, 2 thước.
Con đường nhỏ từ huyện cho tới phía Bắc Đa
Phúc huyện dài 13 dặm, rộng 1 thước, 5 tấc.
II. Thượng lưu sông Nguyệt Đức, từ xã Khả Do
chạy dọc đến bến Hương Da dài 16 dặm, 4 trượng, rộng 15 trượng, sâu 1 trượng 8 thước, 5 tấc.
Từ Hương Da chảy dọc đến Đa Phúc, xã Xuân
Dương, sông bị phân ra, dài 13 dặm 148 trượng .v.v… III. Con đường nhỏ từ huyện cho tới phía Đông Nam
Kim Anh huyện đến Đông Ngàn huyện dài 10 dặm, rộng 1 thước 9 tấc.
Con đường nhỏ từ huyện cho tới phía Đông Xuân Kỳ đến Đa Phúc huyện dài 15 dặm, rộng 2 thước 8 tấc. Con đường nhỏ từ huyện cho tới phía Tây Cổ Phái đến phía Tây núi An Lương dài 10 dặm 20 trượng, rộng 1 thước 6 tấc.
Nguồn: Đồng Khánh địa dư chí, Tập III, tr.106.
180
Phụ lục 1.2: Bản đồ tỉnh Phúc Yên (Địa đồ Phúc Yên)
Nguồn: Ngô Vi Liễn (1928), tr.640-641
181
những năm đầu thế kỷ XX (năm 1925)
Nguồn: Nguyễn Văn Huyên toàn tập, tập 1, tr.675
182
Phụ lục 1.3: Lƣợc đồ phủ và huyện ở Kinh Bắc
Nguồn: Tổng cục Địa chính
183
Phụ lục 1.4: Bản đồ Hà Nội năm 2000
Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki
184
Phụ lục 1.5: Bản đồ thành phố Hà Nội sau mở rộng (2008)
Nguồn: Ban Quản lý KCN Quang Minh
Phụ lục 1.6: Sơ đồ quy hoạch KCN Quang Minh I
Phụ lục 1.7: Sơ đồ hóa xu hƣớng biến đổi không gian cƣ trú
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả (2017); Bản vẽ: Trần Tùy
185
của hộ gia đình trƣớc và sau thu hồi đất
Phụ lục 1.8: Sơ đồ hóa sự biến đổi không gian cƣ trú của hộ gia đình
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017; Bản vẽ: Nguyễn Thu Hương
186
năm 2017 so với năm 2000
Nguồn: Tài liệu điền dã của tác giả năm 2017; Bản vẽ: Nguyễn Thu Hương
187
Phụ lục 1.9: Không gian cƣ trú xen kẽ phòng trọ của hộ gia đình
PHỤ LỤC 2: NGUỒN TÀI LIỆU ẢNH TẠI THỰC ĐỊA
Chú thích: Đình làng trước giai đoạn hợp tác xã với nhiều cây Quéo cổ thụ.
Minh họa: Lê Cam. Nguồn: Trần Văn Tuyên, 1985
188
Phụ lục 2.1: Ảnh minh họa Đình làng Gia Trung (1950-1960)
Minh họa: Lê Cam. Nguồn: Trần Văn Tuyên, 1985
189
Phụ lục 2.2: Ảnh minh họa Chùa, Văn chỉ làng Gia Trung (1950-1960)
Nguồn: Tài liệu điền dã năm 2017
190
Phụ lục 2.3: Phiếu giao nhận diện tích đất đƣợc chia năm 1998
Nguồn: Tài liệu điền dã năm 2017
Phụ lục 2.4: Phiếu kê khai diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi
Phụ lục 2.5: Khu đất dịch vụ làng Gia Trung hiện thành bãi chăn thả
Nguồn: Ảnh tác giả (năm 2016)
191
trâu, bò
Phụ lục 2.6: Khu biệt thự đƣợc xây dựng từ năm 2005,
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
đến nay vẫn không ngƣời ở
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
192
Phụ lục 2.7: Hệ thống mƣơng dẫn nƣớc bị san lấp
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
Phụ lục 2.8: Một trạm bơm nƣớc đã bỏ hoang
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
193
Phụ lục 2.9: Máy bơm đƣợc sử dụng để bơm nƣớc tƣới vào ruộng
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
Nguồn: Ảnh tác giả (năm 2015)
194
Phụ lục 2.10: Sự linh hoạt trong canh tác nông nghiệp
Phụ lục 2.11: Khẩu hiệu hành động bảo vệ môi trƣờng tại KCN
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017
195
Quang Minh
Nguồn: Ảnh tác giả (năm 2013)
Phụ lục 2.12: Bảng thông tin việc làm trong khu công nghiệp
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
196
Phụ lục 2.13: Công nhân tan làm trên con đƣờng ngập úng
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
197
Phụ lục 2.14: Nhà ở truyền thống cải tạo cho thuê trọ
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
198
Phụ lục 2.15: Khu nhà trọ đã cũ và xuống cấp
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
199
Phụ lục 2.16: Loại hình nhà trọ
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
200
Phụ lục 2.17: Nhiều khu trọ tách biệt với chủ hộ, đƣợc lắp đặt Camera
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
Phụ lục 2.18: Khu nhà trọ cao tầng đang xây dựng
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
201
Phụ lục 2.19: Thiết kế bên trong phòng trọ cao tầng
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
202
Phụ lục 2.20: Không gian xanh ở một số khu trọ
Nguồn: Ảnh tác giả (tháng 7/2017)
203
Phụ lục 2.21: Nội quy trong các khu nhà trọ
Đơn vị tính: 1000 đồng/m2
Phụ lục 3.1: Bảng giá đất tại thị trấn Quang Minh và Chi Đông
Giá đất thƣơng mại,
Giá đất sản xuất
Giá đất ở
dịch vụ
kinh doanh
TT Tên đƣờng phố
VT1 VT2 VT3 VT4 VT1 VT2 VT3 VT4 VT1 VT2 VT3 VT4
1 Đường Võ Văn Kiệt 6 200 4 464 3 844 3 534 4 704 3 434 2 681 2 402 3 920 2 862 2 234 2 002
Tỉnh
lộ 35 đoạn
2
thuộc địa phận thị
3 900 2 964 2 574 2 379 3 024 2 298 1 966 1 814 2 520 1 915 1 638 1 512
trấn Chi Đông.
Đoạn từ đường Võ
3
Văn Kiệt đến giáp
4 600 3 450 2 990 2 760 3 696 2 790 2 218 1 848 3 080 2 325 1 848 1 540
đường 35
Đoạn từ đường Võ
Văn Kiệt qua khu
4 600 3 450 2 990 2 760 3 696 2 790 2 218 1 848 3 080 2 325 1 848 1 540
4
công nghiệp Quang
Minh
Đoạn từ tổ dân phố
số 1 đến tổ dân phố
2 600 2 054 1 794 1 664 2 016 1 562 1 310 1 230 1 680 1 302 1 092 1 025
5
số 10 thị trấn Quang
Minh
Nguồn: Quyết định số 96/2014/QĐ-UBND ngày 29/12/2014 của UBND
thành phố Hà Nội
204