intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bộ gen ti thể

Chia sẻ: Vo Anh Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

103
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Bộ gen ti thể" dưới đây để nắm bắt được những nội dung về bộ gen ti thể ở các loài sinh vật, mối quan hệ ty thể và nhân trong tế bào, những enzym cần thiết cho sự bảo tồn và biểu hiện của hệ gen ti thể, sự tương tác của nhân, ti thể,... Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bộ gen ti thể

  1. 6. Bộ gen ti thể                 6.1. Bộ gen ti thể ở các loài sinh vật (Trịnh Ngọc Đức)  Bộ gen ti thể được ký hiệu là mtDNA (mitochondrial) ở dạng chuỗi xoắn kép trần  (không có sự  tham gia của các phân tử  histon), mạch vòng.Ti thể  có trong tế  bào tạo  năng lượng cho tế  bào sử  dụng, mtDNA chứa trong những túi nhiễm sắc thể  trong  nhân của ti thể. mtDNA của ti thể chứa 37 gen, tất cả mtDNA đóng vai trò thiết yếu  trong chức năng của ty thể. mtDNA  của ti thể có 13 gen tham gia vào tạo enzym có   vai trò quan trọng trong chuỗi chuyển điện tử  phospholyl hóa. Quá trình này sử  dụng  oxygen để thu 1 phần năng lượng từ các cầu nối của glucose để giữ năng lượng trong   ATP (andenosine triphosphate). ATP là nguồn năng lượng quan trọng trong tế  bào.  mtDNA còn lại trong ti thể tham gia vào quá trình phiên mã tạo ra RNA vận chuyển và   RNA ribosome. Những RNA này sẽ tham gia vào quá trình dịch mã trong tế  bào ti thể  tạo ra protein và vẫn đảm bảo thông tin di truyền bộ gen của ti thể. [1]  Kích thước mt DNA khác nhau tuỳ loài[2] ­  Nấm men S. cerevisiae có mt DNA kích thước khoảng 84 kb  ­  Ở người, chuột và một số động vật hữu nhũ kích thước mt DNA khoảng 16.5 kb. ­ Ở thực vật kích thước bộ gen ti thể thường rất lớn (ở ngô khoảng 570 kb)  Bộ gen ti thể mtDNA mã hóa tổng hợp cho nhiều thành phần của ti thể: hệ thống 2   lọai rRNA, 22­25 loại tRNA và nhiều loại protein có trong thành phần của màng bên ti   thể. Trong khi đó, thành phần lớn protein của ribosome ti thể do các gen trong nhân xác  định  Bộ gen ti thể của tế bào động vật gồm các exon, bộ gen ti thể cuả tế bào thực vật   và nấm men gồm các exon và intron xen kẽ  Bộ  gen ti thể   ở động vật hữu nhũ có cấu trúc tương đối giống nhau, mỗi mtDNA   gồm 37 gen, trong đó có 13 gen mã hoá protein, 22 gen mã hoá tRNA và 2 gen mã hoá  rRNA.  Các gen ti thể  của tế  bào động vật hữu nhũ phân bố  tương đối không đồng đều,   còn các gen ti thể nấm men tập trung một cụm 16 gen còn 10 gen phân tán khắp toàn   bộ gen ti thể. Ví dụ:
  2. *  Ở  nấm men DNA ti thể có tỷ  lệ  G­C khoảng 21%, còn DNA nhân có tỷ  lệ  G­C  khoảng 40%.     * DNA ti thể của tế bào động vật có vùng gen bao trùm nhau (overlap), vùng D­loop  là vùng điều khiển của mtDNA. [2] Hình 6.1.1 Bảng 6.1. Một số bộ ba mã hóa gen ti thể ở các loài khác nhau. Mã   di  Mã di truyền của gen   ti thể Bộ ba mã hóa truyền  Động vật  Ruồi  N ấ m  Thực vật gen  hữu nhũ giấm men nhân UGA Stop Trp Trp Trp Stop AGA,AGG Arg Stop Ser Arg Arg AUA Ile Met Met Met Ile AUU Ile Met Met Met Ile CUU,CUC Leu Leu Leu Thr Leu  Đa số các bệnh di truyền đều do tác động đến gene trong nhân. Tuy nhiên, có một  số ít bệnh là kết quả của đột biến trên ti thể. 
  3.  Mỗi tế bào người thường chứa hàng trăm hoặc nhiều hơn ti thể trong tế bào chất  của chúng. Thông quá quá trình phosphoryl hóa oxi hóa phức tạp, những bào quan này  sản xuất ra ATP, nguồn năng lượng cần thiết cho sự trao đổi chất tế bào. Do đó ti thể  có vai trò quan trọng cho sự sống tế bào.   Hình 6.1.2 * Cấu trúc gene ty thể người  Bộ gen ti thể ở người có kích thước khoảng 16.569bp, phân tử mạch đôi, dạng   vòng định vị trong matrix ti thể và có khoảng vài nghìn bản sao trong một tế bào. DNA   ti thể  có 2 mạch, mạch nặng giàu guanine (H) và mạch nhẹ  giàu cytosine (L). Mạch   nặng chứa 12 trong 13 polypeptide mã hóa gene, 14 trong 22 gene tRNA và rRNA.  mtDNA không chứa intron và toàn bộ trình tự đều mã hóa cho protein. Chỉ có một vùng  không mã hóa trên mtDNA là D­loop, một vùng 1121bp chứa điểm khởi đầu sao chép  chuỗi H (OH) và promoter cho phiên mã chuỗi L và H. mtDNA được sao chép từ 2 điểm   ori. Sự  sao chép DNA khởi đầu từ  OH sử  dụng một RNA primer tạo ra từ sản phẩm   phiên mã chuỗi L. Sự tổng hợp chuỗi H tiến hành khoảng 2/3 mtDNA, thay thế chuỗi   H bố  mẹ  cho đến khi nó tiến đến điểm ori chuỗi L (O L), trong cụm khoảng 5 gen  tRNA. Khi đụng vào chuỗi H con, OL cuộn thành một cấu trúc thân­vòng và chuỗi L  bắt đầu tổng hợp.[2]  Sự phiên mã mtDNA khởi sự từ 2 promoter trong D­loop, PL và PH. Sự phiên mã  từ cả hai promoter tạo ra một RNA polycistronic. Gen tRNA xe gi ữa trình tự rRNA và  
  4. mRNA sau đó sẽ  cuộn lại và được cắt ra. mRNA và rRNA tự  do được biến đổi sau  dịch mã (gắn đuôi polyA) và tRNA được biến đổi đầu 3’CCA.[2] .      Hình 6.1.3 6.2. Mối quan hệ ty thể và nhân trong tế bào.  (Nguyễn Thị Phương) Số  lượng mạch polypeptide trong ti thể   ở  mỗi loài rất khác nhau, mỗi loài có  chứa hơn 1 trăm mạch polypeptide. Khi dùng kỹ  thuật phân tích protein trong mỗi  mạch polypeptide có chứa khoảng 500 – 800 proteins. Có ít nhất 100 gen trong nhân  góp phần vào sự tổng hợp chức năng ở ti thể. Nhiều nguyên nhân chưa biết rõ về mối   quan hệ ti thể và nhân nhưng có nhiều bằng chứng xác định chúng có mối quan hệ với   nhau trong quá trình sống. Xác định  protein trong ti thể từ những trình tự  hoàn thành   nên hệ gen là nền tảng cơ bản tiên đón trình tự đầu tiên cơ quan bên trong tế bào. Giới   hạn của thành công này, là chuỗi nối liên tiếp nhau bị gián đoạn trong gen mục tiêu và   tạo ra nhiều protein có tín hiệu nhận biết rất thấp. Những nhóm gen và protein trong  nhóm này có thể chia thành 2 nhóm chính. Nhóm 1 gen cần thiết tổng hợp sự phát triển 
  5. của sinh vật bình thường có đầy đủ chức năng của ty thể. Nhóm 2 gen mã hóa protein   đột biến tạo ra những quy luật khác nhau trong tổng hợp sinh hóa học đặc biệt cho   hoạt động của ti thể. Mối quan hệ  gen và ti thể  cung cấp nhiều điểm nghi vấn về  nhiều dạng gen của ti thể và trước đây chưa hề biết đến. [1] 6.2.1. Những enzym cần thiết cho sự bảo tồn và biểu hiện của hệ gen ti thể. Nhiều enzym cần thiết cho quá trình sao chép, phiên mã tạo ra tiền RNA và dịch   mã từ RNA trưởng thành. Các DNA polymerase thuộc hệ enzym polymerase  γ trong ti   thể, chỉ có thể  tổng hợp DNA bằng cách nối dài một mồi đã bắt cặp sẵn trên khuôn.   Mồi này là một RNA nhỏ được tổng hợp bởi một phức hợp protein gọi là primosome.  Primosome bao gồm nhiều protein và một enzym tổng hợp RNA từ khuôn DNA gọi là  primase. Ngoài ra enzym này có chức năng nối những đoạn ngắn trên DNA để  tạo  thành dạng mạch dài, dạng xoắn, dạng vòng.[2] Enzym topoisomerases là enzym liên quan đến quá trình tách mạch và tái tổ hợp   tích lũy của DNA tạo ra mối quan hệ quan trọng cho những hoạt động khác nhau ở cơ  quan của sinh vật. Có nhiều ý kiến cho rằng trong ti thể  không có histone mặc dù  DNA của ti thể  rất phức tạp và cũng được dịch mã tạo protein. DNA ty thể  tương  đồng với vùng protein HU  ở  vi khuẩn và vùng protein HMG1  ở  sinh vật nhân thật.  Trong dịch mã cần enzym RNA polymerase và ít nhất 1 đến 2 nhân tố  hoạt hóa cho  dịch mã. Nhiều loại protein liên kết với mtDNA tạo ra cấu trúc nucleod, một số hoạt   động liên kết với RNA quá trình dịch mã được kéo dài và dấu hiệu kết thúc ở mỗi loài  sinh vật khác nhau. Vùng được phiên mã gồm các intron và exon; exon là trình tự được   mã hóa của gen và được dịch mã thành protein. Intron là những trình tự được phiên mã  nhưng sẽ bị loại bỏ trong quá trong dịch mã. tRNAs, ribosome RNA cũng tham gia vào  quá trình dịch mã RNA thành protein trong ti thể. PolyA được gắn vào RNA dịch mã  trong ti thể của động vật đa bào thì đòi hỏi ít nhất 1 enzym gắn vào.Trong tự nhiên sự  biểu hiện gen của ti thể  cần 18 gen trong nhân, ngoài ra  ở  nấm men trong quá trình  vận chuyển điện tử của cytochrome c cần thêm 1 gen nữa. Gen này được tạo ra từ quá  trình đột biến mất đoạn ở trình tự  tổng hợp chức năng quan trọng trong bộ gen ti thể  như  không có khả  năng thực hiện quá trình hô hấp của tế  bào nhưng tham gia vào  chức năng quan trọng như tổng hợp nhân heme, tổng hợp lipid, chuyển hóa acid amin   và tổng hợp nhân tố chứa Fe­ S đóng vai trò co­factor trong một số protein. Số lượng   gen có chức năng chính góp phần tổng hợp protein là enzym  ở  ti thể  chủ  yếu chứa 
  6. trong   matrix,   trong   2   màng   và   khoảng   không   gian   của   2   màng.   Enzym   protease/  peptidases có nhiệm vụ  thủy phân protein và chaperones  ở  ti thể.[1].Trong   chu trình  Kreb hoạt động cần hệ  enzyme thúc đẩy các quá trình như  các chất cho điện tử, các  chất   mang   điện   tử   và   các   chất   tiếp   nhận   điện   tử.   Đầu   tiên  cơ   thể  cần   phân   tử  pyruvate được tạo ra từ quá trình đường phân của glucose. Cơ thể cần một số phân tử  vận chuyển điện tử, có hai loại phân tử vận chuyển điện tử: một loại là nicotinamide  adenine dinucleotide (NAD+) và loại kia là flavin adenine dinucleotide (FAD+). Phân tử  thứ ba dĩ nhiên là ôxy. Sản phẩm quan trọng nhất của quá trình này là việc sản xuất ra   các điện tử  năng lượng cao. Mỗi phân tử  pyruvate được tạo ra từ  phân hủy glucose   được vận chuyển tích cực qua màng trong của ti thể vào chất nền nơi thực hiện quá  trình hô hấp của ti thể và được kết hợp với coenzyme A để tạo thành acetyl CoA. Sau  khi được tạo thành, acetyl CoA sẽ  đi vào chu trình  Krebs  hay là  chu trình axít citric.  Quá trình này tạo ra 3 phân tử  NADH và 1 phân tử  FADH2, tất cả chúng sẽ  tham gia  vào chuỗi vận chuyển điện tử.[3] 6.2.2. Sự tương tác của nhân – ti thể  Giữa nhân và ti thể có khoảng cách như vậy hai vùng này có tương tác với nhau  không? Một vấn đề đặt ra là số lượng ti thể trong tế bào có được duy trì ổn định khi  tế bào phân chia nhiều lần trong nguyên phân, giảm phân .DNA mạch vòng trong ti thể  sẽ sao chép độc lập với DNA trong nhân. Bằng cách nào tế bào thay đổi hình thể hình  thái, và những nếp màng trong ti thể  hoặc liên quan đến vùng trên bề  mặt bên trong   của màng ti thể. Hoạt động hô hấp khác nhau xảy ra trong những mô khác nhau, điều  này dễ    hiểu là enzym cần cho hô hấp trong chu trình Kreps  sẽ  khác so với enzym  trong mô hay trong nhân của tế  bào ti thể. Enzym có tác dụng kiểm soát và điều hòa  những hoạt động lên hoặc xuống, ví dụ  cytochrome tham gia vào quá trình oxy hóa  không chỉ  đòi hỏi sự  điều hòa ít nhất 13 gen cấu trúc trong động vật hữu nhũ nhưng  cần 3 trong ti thể và 10 gen khác có trong nhân. [1]
  7. Hình 6.2.1 Giữa nhân và ti thể có nhiều mối quan hệ với nhau trong quá trình sống. Nhân trong   tế  bào kiểm  soát các  hoạt  động của  ti thể  như  nhân tố  NRFs (nuclear respiratory  factor) kiểm soát một số chức năng ở ti thể.  1. Tác động lên nhân tố  dịch mã trong ti thể, mtTFA mã hóa vùng gen của ti thể  trong   sự   sao   chép   và   dịch   mã.   (promoter   for   the   mitochondrial   tracscritional   activator).  2. Tác động lên chu trình Krebs xảy ra trong matrix của ti thể 3. Tác động lên chuỗi vận chuyển điện tử hô hấp của ti thể.[4] 6.2.3. Sự điều hòa của gen trong nhân đến hô hấp ở tế bào động vật có vú.   Hình 6.2.2 Nhân tố  NRF1 trong nhân chịu tác động của nhân tố  đồng kìm hãm PGC­1   (transcriptional coactivator of peroxisome proliferator­activated receptor gamma)  được  tổng hợp trong nhân hoặc ngoài nhân. Hai nhân tố  NRF: NRF­1(nuclear respiratory   factor 1) nhân tố  1 hô hấp trong nhân và NRF­2 (nuclear respiratory factor 2) xác định   có trong đặc điểm của cytochrome c và mồi của cytochome trong phản  ứng oxy hóa.  Đến nay người ta biết được rằng một hoặc hai nhân tố  này có hoạt động chính trong   chuổi vận chuyển điện tử  hô hấp và được mã hóa gen trong nhân. Hai nhân tố  này  cũng liên quan đến quá trình sao chép, dịch mã  ở  ti thể, enzym trong tổng hợp nhân   heme và nhiều protein tham gia trong chức năng hô hấp. Trong hình 6.2.3 nhiều nhân tố  thiết yếu biểu hiện trong nhân tác động lên hệ  thống gen của ti thể  trong phản  ứng  
  8. tạo ra năng lượng tế  bào.  NRF­1 có trong nhân kiểm soát chức năng của ti thể: tác  động quá trình phiên mã, dịch mã bộ gen ti thể, tác động lên enzym hô hấp được tạo ra  bởi bộ gen ti thể.[1] 6.2.4. Sự đồng tiến hóa của nhân và hệ gen ty thể. Những mô tả gen trong nhân mã hóa protein tương tác với gen trong ti thể, thông  qua quá trình sao chép, dịch mã hoặc mã hóa trực tiếp protein gọi là bộ  gen ti thể. Bộ  gen ti thể có trình tự thay thế có ý nghĩa hơn gen trong nhân. mtDNA tổng hợp protein   được thay thế  cho sự  thay đổi có thể  xảy ra trong nhân đảm bảo sự  chính xác hơn.  Những gen biểu hiện chức năng thể hiện rõ trong chuỗi chuyển điện tử, sự đồng tiến  hóa của nhân và hệ gen ti thể có bằng chứng cụ thể hơn từ những nghiên cứu thể lai ở  dị hợp tử và con lai ở tế bào động vật. Người đầu tiên nghiên cứu Clayton từ kỹ thuật   phân   tích   mtDNA   trong   tế   bào   lai   giữa   người   và   chuột.   Kế   tiếp   là   Wallace   và   Eisenstadt có những bằng chứng thuyết phục trong nhân và gen của ti thể  có những   trình tự tương đồng nhau. Đặc biệt mt DNA ở người thì thời gian tồn tại lâu hơn là ở  tế  bào của loài gặm nhấm. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của Schellfel gây đột  biến trong nhân tìm thấy ở chuột đồng có tác động lên phức hợp I ở màng trong ti thể.  Đột biến này có thể bổ sung những khuyết điểm trên NST X của loài người. Kết quả  này giải thích những điểm khác nhau trên trình tự  gen của những loài khác nhau. Nhà   khoa học Kenyon và Moraes kiểm tra gen của những loài vượn để  cung cấp những  thông tin về trình tự gen trong nhân. Tạo dòng lai giữa mtDNA loài vượn và DNA của  người, tạo ra sự  kết hợp gen trong nhân của người với ti thể trong loài vượn lớn, tế  bào này có khả  năng thực hiện phản  ứng phosphoryl hóa và một số  chức năng đặc   biệt. Bình thường ti thể trong loài vượn lớn không biểu hiện vùng chức năng của hệ  thống OXPHOS nhưng trong tế  bào lai thì thực hiện được chức năng của hệ  thống   OXPHOS. Trên vùng MWFE chứa trong phức hợp I kiểm soát chức năng cao của ti thể  ở  loài vượn. Những protein tổng hợp trên gen người bị  sai hỏng sẽ  không kiểm soát  được quá vùng chức năng trên tế bào chuột.[1] 6.3. Các quá trình xảy ra ở ti thể (Nguyễn Hồ Thư) 6.3.1. Sự sao chép DNA ti thể (mtDNA) Sao chép DNA ti thể độc lập với sao chép DNA nhân tế bào trong chu kì tế bào.  Công trình nghiên cứu gần đây    cho thấy  rằng có thể  tái thiết lập  một DNA  ti thể  trong in­vitro với các protein tái tổ  hợp. DNA ti thể  là sợi kép với cấu trúc vòng, số 
  9. lượng DNA ti thể ít hơn 1% tổng số  DNA trong tế bào nhân thực, số  lượng bản sao  trong tế bào là 103­104, kích thước bộ gen tương đối nhỏ (dài khoảng16,8 kb). DNA ti  thể là một trong các nhân tố quyết định tính di truyền tế bào chất. Các gen trên DNA ti  thể mã hóa cho nhiều protein/enzim và RNA của ti thể.  DNA  ti thể  động vật  có vùng  không mang mã di truyền là vùng điều khiển  (Displacement loop hay D­loop),  trên đó chứa các promoter của quá trình sao chép và  phiên mã DNA ti thể. DNA ti thể có cấu trúc xoắn kép và do  sự phân bố bất đối xứng  của các nucleotide (G + C) trong DNA cho phép  phân biệt một sợi "nặng" (sợi H) và  một sợi "nhẹ" (sợi L) trên gradient  CSCL kiềm.  DNA   ti   thể   tự   tái   bản   theo   nguyên   tắc   bán   bảo   tồn   nhờ   hệ   enzim   DNA   polymerase  γ hoạt động theo chiều 5’ – 3’ có trong chất nền của ti thể và xảy ra ở kì   trung gian của chu kì phân chia tế  bào. DNA Polymerase γ ti thể  (POL) là một phức  hợp 3 thành phần gồm một tiểu đơn vị xúc tác khoảng 125 – 140 kDa (POLGA) và  hai  tiểu đơn vị  hoạt động  khoảng 35 – 54 kDa(POLGB). POL cùng với DNA  helicase  TWINKLE hình thành bộ máy hoạt động sao chép để  tổng hợp phân tử  DNA sợi đơn  (ssDNA) khoảng 2 kb  . Nếu ssDNA của ti thể  kết hợp protein (mtSSB) tạo DNA   khoảng 16,8kb tạo DNA ti thể của động vật . Cơ  chế của quá trính sao chép DNA ti thể còn nhiều tranh luận về  2 mô hình:  Mô hình sao chép của Clayton năm 1982 được gọi là mô hình tổng hợp sợi không đối   xứng (The strand­asymmetric model) và mô hình sao chép của Holt năm 2000 được gọi   là mô hình tổng hợp sợi đối xứng (The strand­symmetric model).  *  Mô hình tổng hợp sợi không đối xứng (The strand­asymmetric model) Trong mô hình này trên DNA ti thể  có hai vị trí khởi đầu  sao chép: OH là điểm  khởi đầu sao chép của sợi nặng H và OL là điểm khởi đầu sao chép của sợi nhẹ L. Sao  chép  DNA  ti thể  bắt đầu  tại vị  trí  OH  nằm trong  vùng  không có các  gen  (vùng điều  khiển D­loop), sử  dụng mồi RNA được tổng hợp từ  promoter sợi nhẹ  (LSP) và sợi   nặng DNA ti thể được kéo dài tiếp tục theo chiều dài của bộ gen. Khi hai phần ba các  sợi nặng H được tổng hợp, điểm khởi đầu sao chép sợi nhẹ  được mở  ra và sự  tổng  hợp sợi L bắt đầu tại vị trí OL nằm cách xa OH  khoảng 30 nucleotide và tổng hợp theo  hướng đối diện với tổng hợp sợi H, tổng hợp sợi mới  là sự kiện chi phối trong  quá  trình sao chép bộ  gen ti thể.  Quá trình sao chép DNA ti thể  tạo 2 phân tử  DNA con   được phân biệt: phân tử  con  α trong đó sự  tổng hợp hoàn tất, phân tử  con  β  trong đó 
  10. sự tổng hợp sợi nhẹ L được tiếp tục từ  OH  đến OL trước khi quá trình sao chép hoàn  tất. Sau đó 2 mạch đơn của DNA con cuộn xoắn tạo phân tử C mtDNA.  Hình 6.3.1 . Khởi đầu sao chép của mtDNA  OH OL β α Hình 6.3.2. Sự sao chép mtDNA theo mô hình của Clayton năm 1982 *  Mô hình tổng hợp sợi đối xứng (The strand­symmetric model) Mô hình tổng hợp sợi đối xứng DNA ti thể được đưa ra gần đây, Holt và cộng  sự  đã đề  xuất mô hình này bằng việc sử  dụng điện di gel 2­D để  phát hiện những  đoạn DNA cắt giới hạn bao gồm điểm khởi đầu sao chép và chĩa ba sao chép.Những   đoạn DNA được phát hiện đồng thời trên mạch tới và mạch chậm tại chĩa ba sao chép  
  11. gọi là y­arcs. y­arcs được tìm thấy  ở  vùng giữa 2 điểm khởi đầu sao chép  OH  và OL.  Những kết quả trên đã chứng minh rằng DNA ti thể sao chép đối xứng với việc tổng  hợp mạch tới và mạch chậm phát triển theo 2 hướng từ  nhiều vị trí sao chép ở  2 bên  của những vùng gen cyt b, NAD5, NAD6.  Khi quá trình sao chép đến OH, chĩa 3 sao   chép ngừng lại và sao chép được giới hạn theo một hướng duy nhất. Mô hình này dựa   trên phương pháp điện di gel 2­D và phương pháp tiếp cận thực nghiệm độc lập đã hỗ  trợ cần thiết phương pháp này.  Hình 6.3.3. Sự sao chép mtDNA theo mô hình của Holt năm 2000 6.3.2. Sự phiên mã DNA ti thể (mtDNA) Năm 1983 khi lần đầu tiên trong hệ  thống in vitro đã quan sát được  phiên mã  mtDNA ti thể người. Sự phiên mã đặc biệt bắt đầu từ vùng D­loop, sự phiên mã được  nghiên cứu  là việc tạo ra promoter cho tổng hợp sợi nặng H và sợi nhẹ L ( yếu tố LSP  và HSP) trong vùng D­loop. Phiên mã của DNA ti  thể  phụ  thuộc vào một RNA polymerase   trong  nhân  tế  bào. Nó được mã hóa như  là một tiểu đơn vị  enzyme trong nhân và sau đó nhập bào  vào ti thể. RNA polymerase này  tương đồng với RNA polymerase của bacteriophages  T7 và T3 RNA, đây là E có hoạt tính cao với trọng lượng phân tử  gần 98 kDa. RNA  Polymerase T7 và T3 có thể  thực hiện tất cả  các chức năng cần thiết cho phiên mã:   nhận ra promoter, khởi động, kéo dài và chấm dứt phiên mã. Chúng tương đồng là 82%  ở  cấp độ  acid amin. Mặc dù tương đồng nhưng mỗi loại có chức năng rất cụ  thể và  không   phải  chúng    có   thể   bắt   đầu   phiên   mã   từ   các   promoter    khác   loại.  RNA  polymerase ti  thể  giờ  đây đã được  tạo ra    từ  ba sinh vật:  người, Xenopus laevis và 
  12. Saccharomyces cerevisiae. Đặc điểm của chúng giúp phát hiện các thành phần protein  khác cần thiết cho phiên mã trong ti thể. Tuy nhiên, một protein tương đồng với RNA  polymerase ti  thể  có liên quan đến  vị  trí khởi đầu  phiên mã trong tất cả  hệ  thống.   Trong nghiên cứu in vitro cho thấy một phần  RNA polymerase ty thể (POLRMT) cùng  với  nhân tố phiên mã A của ti thể (TFAM) là có thể   bắt đầu phiên mã từ  promoter ti  thể. Sử dụng POLRMT tinh khiết thay vì sử dụng trong invivo thì thấy rằng POLRMT  tinh khiết    trong các thử  nghiệm đã không có phiên mã, cho thấy một yếu tố  đã  bổ  sung cùng với POLRMT. Gần đây, hai yếu tố tương đồng  của mtTFB­sc đã được xác  định: nhân tố  phiên mã B1 (TFB1M) và nhân tố phiên mã B2 (TFB2M) của ti thể. Bộ  máy phiên mã của ti thể  sau đó đã được tái tạo trong ống nghiệm bằng cách kết hợp  POLRMT, TFAM và cả TFB1M hoặc TFB2M, cùng với một mẫu DNA ti thể có chứa  các trình tự promoter HSP và LSP. TFAM kết hợp  gây ra một sự thay đổi cấu trúc của  các promoter là cần thiết cho POLRMT nhận ra promoter  để khởi động quá trình phiên  mã. 
  13. Hình 6.3.4. Phiên mã mtDNA  Phiên   mã   của   DNA   ti   thể   bắt   đầu   từ   2   promoter   riêng   trong   vùng   D­loop.  Promoter LPS của sợi nhẹ và HSP của sợi nặng. Phiên mã từ  các promoter này tạo ra   RNAs, sau đó RNAs  tạo ra phân tử  mRNA, rRNA, tRNA. Phiên mã từ  LSP tạo mồi  RNA cần cho sao chép sợi nặng H trong sao chép  DNA ti thể. Phiên mã sợi nặng thì  bắt đầu từ  2 vị  trí khác nhau HPS1 và HPS2. Vị  trí HPS1 nằm phía trước của gen   tRNA, hoạt động phiên mã và kết thúc  ở  đầu 3’ của gen 16S rRNA. Hoạt động của   HPS1 thì trước hoạt động HPS2 khoảng 20s và tạo ra 2 rRNAs (12S và 16S) và 2   tRNAs (tRNA phe  và tRNA val). Vị  trí thứ  2 là HPS2 hoạt động phiên mã và kết thúc  ở  đầu 5’ của12S rRNA  và tạo ra chuỗi polycistronic bảo vệ toàn bộ sợi H. Promoter sợi  nhẹ LSP ở vị trí cách HPS1 khoảng 150bp bắt đầu phiên mã sợi đơn polycistronic, mã   hóa 8 tRNAs và 1 mRNA.  6.3.2. Sự dịch mã DNA ti thể (mtDNA) Hệ thống dịch mã  ti thể trong matrix là một bộ máy độc lập bao gồm các thành  phần mã hóa bởi nhân tế  bào và bộ  gen ti thể. Nó không phải là thiết yếu cho rằng  nhiều tế bào có thể phát triển khá tốt trong điều kiện có đường là glucose. Chức năng  chính của bộ  máy dịch mã ti thể là tổng hợp 13 protein cho việc hình thành hệ thống  phosphoryl hóa oxy hóa. Trong các nguyên bào sợi động vật có vú, tổng hợp protein ti  thể  ức chế  nhiều hơn 95% không làm mất hoặc giảm số  lượng của mtDNA   ti thể  trong tế bào. Một số công bố trong các tài liệu cho rằng ribosome ti thể và các yếu tố dịch mã là  tương tự  như  hệ  thống  dịch mã  ở  prokaryote,  nhưng nhiều khía cạnh của  dịch  mã  trong ti thể có những khác biệt đáng kể. Hơn nữa có sự  khác biệt trong dịch mã ti thể  của các sinh vật khác nhau. Nhìn chung, sự khác biệt thể hiện ở nhiều đặc điểm:  *  Thay đổi trong cấu trúc RNA vận chuyển và sử dụng codon thay đổi Một trong những bất ngờ lớn đã được khám phá khi mtDNA của con người và gia  súc đã được hoàn thành và so sánh. Mã di truyền không giống nhau  ở tất cả các loài.  Codon kết thúc  UAA và UAG  xác định cho bộ máy dịch mã của cả sinh vật nhân sơ  và  sinh vật nhân thực thì  không là  codon kết thúc trong ti  thể, và một  codon khác là  codon kết thúc trong dịch mã của ti thể. TAA như là một codon kết thúc ở hầu hết các  loài được kiểm tra, nhưng thường các  ORF của một mRNA cụ  thể  kết thúc với T  
  14. hoặc một TA, và  codon kết thúc  được hoàn thành bởi  sự  Polyadenylation. TAG và  AGA đã được tìm thấy như là codon kết thúc ở một số loài.  Bảng 6.3.1 Codon trong ti thể ở vài loài phổ biến Động  Mã thông  vậ Ruồi  Thực  Codon thường t hữu  giấm Neurospora Nấm vật nhũ TUGA r p T r p T r p T r p S T O P SAGA, AGG T O P S e r A r g A r g A r g S T O P AUAArg Ile Met Met Ile Met Ile AUU Ile Met Met Met Met Ile CUU,  CUC, Leu Leu Leu Leu Thr Leu CUA,  CUG mtDNA động vật có vú mã hóa 22 tRNAS, ít được sử dụng trong cytosol. Do đó,  một tRNA đơn phải có khả năng đọc tất cả codon của họ bốn codon, nhưng vẫn chưa  rõ trong một số trường hợp hai cặp nucleotide là đủ, hoặc  một uridine trong anticodon   vị trí linh hoạt có thể bắt cặp với tất cả bốn loại nucleotit trong mã bộ ba. Một uridine  trong  vị   trí   linh   hoạt  (vị   trí  đầu  tiên  của   anticodon)   là   thường   xuyên   thay   đổi  để  pseudouridine
  15. trong một số  tRNAs  nhận ra họ  hai codon kết thúc trong G hoặc A,  có  để  suy đoán  rằng cấu trúc này ngăn cản bắt cặp sai hai codon kết thúc bằng C hoặc U. Một lý do  tương tự để nhận biết chính xác anticodon ­codon đã được đề xuất để giải thích thay  đổi cụ thể được tìm thấy tại nucleotide ngay sau anticodon .  mtDNAs động vật nguyên sinh mã hóa chỉ có một tRNAf­Met có anticodon CAT,  và nó chỉ  là  tRNA  của  methionine. Không  chỉ  bộ  ba kết thúc AUG,  AUA và tất cả  AUN đã được nhận ra bởi tRNA này, nhưng bắt đầu codon khác TTG, GTG, và GTT  phải được nhận ra bởi tRNA này, nếu  giả định rằng tất cả các peptide được khởi đầu  với methionine­formyl. Codon kết thúc UGA  được dịch mã là tryptophan trong ty thể  của nhiều loài, và các codon kết thúc UAA  và  UAG  lại được dịch là glutamine trong  một số loài như  Acetabularia, Tetrahymena, và Paramecium. Điều đó thì thích hợp để  đề cập đến ở đây chỉ một số nhỏ các protein   trong ty thể đã được tổng hợp trực tiếp.  Nhiều chuỗi protein được thì tạo ra từ sự tương đồng  với petid của vi khuẩn hoặc các  sinh vật nhân chuẩn. Trong thực tế, cho đến nay đã không thể dịch  mã mRNAs ti thể  với ribosome, tRNAs, và các nhân tố khác của ti thể  trong ống nghiệm. * Thay đổi trong cấu trúc của ribosome Khi ribosome trong ti thể được phát hiện thì được coi là tương tự với ribosome   trong tế  bào vi khuẩn. Tuy nhiên, sự  giống nhau này đã được rút ra chủ  yếu từ  nhạy  cảm với chloramphenicol và  cycloheximide.    Khi kích thước của các RNA ribosome  được so sánh với kích thước của ribosome trong tế bào chất, sự  khác biệt trở  nên rõ  ràng hơn. Sự khác biệt này thể hiện ở hệ số lắng của ribosome (bảng 2) Bảng 6.3.2. Bảng so sánh kích thước riboxom của ti thể với sinh vật nhân sơ  và sinh vật nhân thực Sinh vật nhân sơ Sinh vật nhân thực Ti thể 4Tiểu phần lớn rRNA 8 0 0 n t / 2 8 S 1 6 0 0 n t / 1
  16. 6 S 1Tiểu phần nhỏ rRNA 9 0 0 n t / 1 8 S 9 5 0 n t / 1 2 S 2 9 0 0 n t / 2 3 S 5.8S1540nt/16S __­ 160nt/5.8S ­ 5S 120nt/5S 120nt/5S 120nt/5S * Ngoài ra còn một số đặc điểm khác với dịch mã ở  prokaryote như: Yếu tố hoạt   động  (5 'và 3' UTRs) của mRNA, nhân tố khởi động,….. Tài liệu tham khảo:
  17. 1.Martina   Gaspari.(2006),   Molercular   mechanisms   for   transcription   in   mammalian  mitochondria, Karolinska Institutet 2.   David   A.   Clayton,   Mitochondrial   DNA   replication,   Stanford   University   School   of  Medicine
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2